Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN ĐỀ TÀI “SỰ CẦN THIẾT CỦA THỰC HÀNH VẬT LÝ TRONG DẠY HỌC”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.95 KB, 11 trang )

ĐỀ TÀI
“SỰ CẦN THIẾT CỦA THỰC HÀNH VẬT LÝ TRONG DẠY HỌC”
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài:
Vật lí học là một môn khoa học tự nhiên, nó nghiên cứu tìm hiểu các quy
luật, các hiện tượng tự nhiên, nó nghiên cứu các khái niệm về vật lí, các định luật,
các thuyết. Từ đó có thể rút ra được kết luận ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Vì
vậy, Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kỷ thuật quan trọng, sự phát triển của
khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa
học kỉ thuật. Do đó, những hiểu biết và nhận thức về vật lí có giá trị to lớn trong
đời sống và trong sản xuất, đặc biệt là trong thời đại hiện nay.
Với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mở cửa để hội nhập với cộng đồng thế
giới. Trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi công tác giáo dục ở nước ta
phải có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện, nhằm đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, vừa phát huy bản sắc dân
tộc, vừa có khả năng tự học, tự giác, chủ động và sáng tạo phù hợp với con người
mới XHCN.
Để làm được điều đó thì ở trường THCS sự đổi mới đó phải được thực hiện
thông qua việc dạy các môn học trong đó có bộ môn Vật lí.
Yêu cầu đổi mới PPDH đối với môn Vật lí còn có một số điểm riêng so với
các môn khác: Phải hướng tới việc tạo điều kiện cho HS tự chiếm lĩnh kiến thức
thông qua hoạt động thực nghiệm, những kiến thức Vật lí mà giáo viên giảng dạy
phải làm cho HS hiểu đúng đắn về thế giới tự nhiên, cho HS tin vào khả năng làm
được của bản thân, tin tưởng vào các sự vật hiện tượng xung quanh luôn tồn tại,
luôn vận động, có nhiều điều HS chưa thấy, chưa giải thích được các hiện tượng,
nhờ các thí nghiệm thực hành các em tự tay lắp và làm thí nghiệm (TN), quan sát
hiện tượng rút ra nhận xét hay kết luận, từ đó kích thích hứng thú học tập bộ môn,
đồng thời vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để giải thích các sự vật,
hiện tượng xung quanh.
Tư duy Vật lí khác với tư duy Toán học ở chỗ là nó không bằng lòng với
những lập luận chặt chẽ mà đòi hỏi cần có sự kiểm nghiệm của thực tế, bằng các


thí nghiệm thực hành. Vì các hiện tượng Vật lí xảy ra trong tự nhiên vô cùng phức
tạp, vì vậy cần phải có các TN Vật lí để đơn giản hóa hiện tượng, làm nổi bật khía
cạnh cần nghiên cứu của hiện tượng, tức là làm cho quá trình tự nhiên xảy ra rõ
ràng nhất. Nhờ đó làm HS nhận ra các tính chất đặc trưng của hiện tượng. Phần
điện học là một phần tương đối quan trọng trong chương trình vật lí(cả cấp THCS
và THPT), nó chiếm phần lớn trong chương trình học vật lí của cả hai cấp học.Vì
vậy, việc rèn luyện cho HS kỷ năng làm TN thực hành trong giờ Vật lí là rất quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục môn vật lí không chỉ ở cấp THCS
mà nó còn là nền tảng để các em có một kiến thức vững chắc ở cấp THPT.
Đối với bản thân, là giáo viện dạy Vật lí, vời thời gian giảng dạy đã lâu tôi
đã thấy được tầm quan trọng của các TN thực hành trong giờ dạy Vật lí, nhất là các
TN ở phần Điện học, là một chương quan trọng trong chương trình. Cho nên, việc
1


rèn luyện cho HS kỹ năng làm TN thực hành Vật lí để rút ra kiến thức là rất cần
thiết. Đó cũng là lí do tôi chọn làm đề tài này.
Nghiên cứu việc làm TN thực hành Vật lí 9 phần điện học nhằm giúp HS
nắm vững và chắc kiến thức hơn để nâng cao chất lượng dạy và học ở trường
THCS Lê Quý Đôn.
Nghiên cứu quá trình thực hiện giải pháp trong giảng dạy của bản thân về
việc giúp HS lớp 9 có kỹ năng làm TN thực hànhVật lý và ghi kết quả.
Nghiên cứu quá trình HS vận dụng giải pháp để làm TN thực hành nắm kiến
thức. Từ đó biết mức độ nhận thức, tư duy của HS với khi chưa thực hiện giải
pháp.
Với những kiến thức mà HS rút ra được từ việc giảng giải, nghe hiểu thì
không thể nào HS hiểu và khắc sâu kiến thức lâu được. Đồng thời, khi HS vận
dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống thì kỹ năng thực hành, thao tác của HS sẽ
bị lủn củn, không thành thạo, cảm thấy mới lạ. Vì vậy, theo tôi nghĩ nếu tiến hành
như vậy thì chưa thật sự rèn cho HS một số kỹ năng, đồng thời chỉ áp đặt kiến

thức, HS không có thói quen học tập theo hướng tích cực chủ động. Do đó, chỉ khi
HS làm TN để rút ra kiến thức thì HS mới nhớ lâu và nhớ sâu được, nên khi
những kiến thức đó được vận dụng ngược vào thực tế thì các em sẽ cảm thấy quen
thuộc và làm thành thạo hơn. Như vậy không những rèn cho HS có kĩ năng thực
hành mà còn thành thạo phương pháp hợp tác nhóm nhỏ để học tập kinh nghiệm
lẫn nhau.
Dựa vào cấu trúc, nội dung, mức độ yêu cầu của chương trình về các bài có
TN thực hành để nắm mối liên hệ giữa các TN trong chương điện học. Từ đó, rèn
luyện cho HS có kỹ năng TN thực hành để từ đó các em nắm kiến thức vững chắc
và sâu hơn.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
*Mục tiêu:
Đối với môn vật lý, đòi hỏi tính tự chủ và tính sáng tạo của học sinh cao,
việc thí nghiệm Vật lý đòi hỏi học sinh phải có ý thức cao. Trong quá trình thí
nghiệm học sinh phải biết nắm bắt những hiện tượng, từ đó rút ra được những kết
luận cần thiết liên quan đến nội dung bài học.
* Nhiệm vụ:
Việc dạy học vật lý không những hình thành cho học sinh những tri thức về
các hiện tượng vật lý, kỹ năng và kỹ xảo nhất định mà còn phải đảm bảo tối đa sự
phát triển trí tuệ, làm cho hoạt động tư duy của học sinh phát triển tích cực, độc
lập, sáng tạo. Việc giúp học sinh nắm được cách thức thực hành trong môn vật lý
có vai trò rất quan trọng trong dạy học môn Vật lý. Thông qua hoạt động này giúp
rèn luyện kỹ năng quan sát, rèn luyện sự phát triển độc lập, sáng tạo của học sinh.
Nghiên cứu điều tra thực trạng của học sinh trong học vật lý chưa chủ động
trong việc tìm hiểu những hiện tượng tự nhiên, chưa nắm được bản chất của các
hiện tượng vật lý.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 9 trường THCS Lê Quý Đôn.
2



I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn trong phần thí nghiệm Vật lý lớp 9 phần điện học.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu .
- Tìm đọc những tài liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho đề tài, giúp
trình bài đề tài một cách lôgic, chặt chẽ hơn.
- Nghiên cứu các tài liệu về Vật lí có liên quan đến việc dạy và học ở bậc
THCS.
- Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK Vật lí 9 phần điện học để nắm
được mối liên hệ giữa các TN thực hành ở các bài.
-Nghiên cứu sản phẩm nhằm nắm thực trạng của việc tổ chức làm TN vật lí
của HS.
b. Phương pháp điều tra, dự giờ.
- Trò chuyện để tìm hiểu tình hình làm TN của HS để từ đó nắm những khó
khăn mà HS gặp phải khi làm TN phần điện học Vật lí 9 nhằm nắm và hiểu được
mức độ tiếp thu bài của HS, vì tiết thực hành cho phép ta xác định được khả năng
nhận thức, trình độ phát triển trí tuệ, thái độ, hứng thú của HS trong học tập và
trong giờ thực hành.
- Dự giờ các giáo viên trong trường và các trường bạn một số tiết dạy có
TN thực hành
c. Phương pháp kiểm tra, đối chiếu.
- Kiểm tra khảo sát chất lượng học sinh.
- So sáng, đối chiếu kết quả.
d. Phương pháp quan sát.
- Quan sát hoạt động của HS trong giờ học vật lí có sử dụng thí nghiệm để
có thể so sánh với các giờ học Vật lí không có TN.
II. PHẦN NỘI DUNG:
II.1. Cơ sở lý luận:
Vật lí là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng. Sự phát triển của khoa

học Vật lí gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa
học kĩ thuật. Vì vậy những hiểu biết và nhận thức Vật lí có giá trị to lớn trong đời
sống sản xuất, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo nói
chung, của trường THCS nói riêng. Môn Vật lí ở trường THCS có những đặc trưng
riêng.
Nội dung kiến thức của môn học này luôn luôn gắn liền với sự vật và hiện
tượng xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc khám phá và tiếp thu kiến thức phụ
thuộc rất nhiều vào các thí nghiệm bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa
học thực nghiệm và nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với
hành” .
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận thức
của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học, vì qua
3


đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, điều đó
rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh tham gia hoạt
động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết bị và đo lường các
đại lượng, các em có thể nhanh chóng làm quen với những dụng cụ và thiết bị
dùng
trong đời sống và sản xuất sau này.
II.2. Thực trạng:
a. Thuận lợi - khó khăn:
* Thuận lợi:
Học sinh chủ yếu là con em người kinh nên việc tiếp thu kiến thức có phần
khá tốt. Có đầy đủ SGK và tài liệu học tập, đa số các em ngoan, chịu khó học tập,
nhiều em có khả năng nhận thức nhanh, học tập hăng say và thực sự có hứng thú
trong việc học tập bộ môn vật lý. Được sự quan tâm giúp đỡ của BGH nhà trường.
* Khó khăn:

Trường nằm trên địa bàn thôn có hoàn cảnh kinh tế còn tương đối khó khăn,
chưa có đủ cơ sở vật chất để phục vụ tốt cho việc nghiên cứu. Các em học sinh
ngoài giờ học còn phải phụ giúp công việc gia đình nên thời gian dành cho việc
học là không nhiều.
b. Thành công - hạn chế:
Sau khi thực hiện đề tài, đa số các em đã có thể nắm vững hơn về nội dung
bài học môn vật lý, nhất là về phần điện. Tuy nhiên, với khả năng của bản thân còn
hạn chế, cơ sở vật chất còn thiều thốn, điều kiện của các em học sinh còn chưa đủ
nên việc phát huy hết hiệu quả của đề tài là chưa cao.
c. Mặt mạnh - mặt yếu:
Là một giáo viên trẻ có đầy nhiệt huyết nên đã cố gắng rất nhiều dù điều
kiện còn thiếu thốn, các em học sinh ngoan ngoãn và chịu khó tiếp thu. Nhưng vì
còn thiếu kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi
những thiếu xót.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
- Các em chưa chú tâm nhiều vào việc học, việc tự học ở nhà còn chưa có
kết quả cao.
- Các tiết thực hành còn quá ít nên việc giáo viên hướng dẫn cho các em học
sinh không được nhiều và hiệu quả còn thấp, không đủ các thí nghiệm.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Bài soạn cụ thể hướng dẫn học sinh thực hành Vật Lý

Bài 3 : THỰC HÀNH : XÁC ĐỊNH ĐIỆN TRỞ CỦA MỘT
DÂY DẪN BẰNG AMPE KẾ VÀ VÔN KẾ
I MỤC TIÊU :
1. Kiến thức: + Nêu được cách xác định điện trở từ công thức tính điện trở và
các dụng cụ đo điện đã được học.
2. Kỹ năng: + Mô tả được cách bố trí và tiến hành thí nghiệm xác định điện trở
của một vật dẫn bằng ampe kế và vôn kế. Rèn kĩ năng thực hành.
3. Thái độ :

+Ý thức chấp hành nghiêm túc quy tắc sử dụng các thiết bị điện
trong thí nghiệm.
II. CHUẨN BỊ :
4


+ Đối với mỗi nhóm HS:
- Một dây điện trở chưa biết giá trị, một nguồn điện 6V.
- Một vôn kế có GHĐ 6V, ĐCNN 0,1 V.
- Một ampe kế có GHĐ 1,5A, ĐCNN 0,1A.
- Một công tắc, bảy đoạn dây nối.
- HS chuẩn bị sẵn mẫu báo cáo thực hành ở nhà.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC.
Hoạt động của giáo viên.
Hoạt động của học sinh.
Hoạt động 1 : Ổn định – Kiểm tra – Tổ chức tình huống học tập. ( 10 phút )
GV: Chia nhóm, phân công giao nhiệm HS: Nhóm trưởng phân công việc cho
vụ cho các nhóm trưởng.
các nhóm viên.
GV: Bàn giao dụng cụ cho các nhóm.
+ Người nhân , trả dụng cụ.
+ Người mắc mạch, người đo, người ghi
kết quả.
GV: Gọi hai HS lên bảng kiểm tra việc HS: Hoạt động cá nhân vẽ sơ đồ mạch
chuẩn bị ở nhà của hai HS này.
điện để xác định điện trở một dây dẫn
GV: Kiểm tra việc chuẩn bị báo cáo của bằng ampe kế và vôn kế.
HS khác.
HS: Hoạt động các nhân trả lời câu hỏi
của GV. Các HS khác chú ý nghe và

nhận xét câu trả lời của bạn.
+ Câu 1: Viết công thức tính điện trở:
R=

U
I

+ Câu 2 : Muốn đo hiệu điện thế giữa
hai đầu một dây dẫn, cần dùng một vôn
kế mắc song song với dây dẫn cần đo.
+ Muốn đo cường độ dòng điện qua dây
dẫn, cần dùng một ampe kế mắc nối tiếp
với dây dẫn cần đo. Chốt dương của các
dụng cụ đo này được mắc về phía cực
dương của nguồn.
Hoạt động 2: Mắc mạch điện theo sơ đồ và tiến hành đo ( 30 phút)
GV: Theo dõi , kiểm tra việc mắc mạch HS: Hoạt động theo nhóm để:
điện của các nhóm, đặc biệt việc mắc + Mắc mạch điện theo sơ đồ đã vẽ.
vôn kế , ampe kế.
+ Tiến hành đo.
GV: Nhắc nhở những HS chưa tích cực + Từng HS phải thay đổi nhau tham gia
trong việc tham gia vào hoạt động của đo và theo dõi kết quả đo vào báo cáo.
nhóm mình.
HS: Nghe GV nhận xét để rút kinh
GV: Thu và chấm , chữa một bài tại nghiệm cho tiết thực hành sau.
lớp .
GV: Treo thang điểm lên bảng phụ để
HS theo dõi bài chấm mẫu của GV, để
HS so sánh , để tự đánh giá bài làm của
mình để rút kinh nghiệm.

5


GV: Nhân xét kết qua, tinh thần thực
hành của các nhóm trong lớp.
Hoạt động 3: Tổng kết đánh giá thái độ học tập của học sinh. Hướng dẫn về
nhà. (5 phút)
GV: Thu báo cáo thực hành:
GV: Nhận xét và rút kinh nghiệm cho
HS về :
+ Thao tác thí nghiệm.
+ Thái độ học tập của nhóm.
+ Ý thức kỉ luật.
GV: Dặn HS về nhà ôn lại kiến thức về
mạch điện mắc song song và nối tiếp đã
học ở lớp 7.
II.3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp.
Việc tìm hiểu đối tượng học sinh là công việc đầu tiên khi người thầy muốn
lấy các em làm đối tượng thực hiện một công việc nghiên cứu nào đó. Do đó tôi đã
làm sẵn một số phiếu có ghi sẵn một số câu hỏi mang tính chất thăm dò như sau:
- Em có thích học môn Vật lý không ?
- Học môn Vật lý em có thấy nó khó quá với em không ?
- Em có biết làm thí nghiệm Vật lý không ?
- Khi làm thí nghiệm em thấy khó khăn ở điểm nào ?
- Em đã sử dụng tốt các thiết bị thí nghiệm Vật lý chưa ?
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Dựa vào kết quả tìm hiểu học sinh qua các phiếu câu hỏi ở trên, tôi đã thấy
được những khó khăn bức xúc của học sinh trong việc học tập Vật lý 9 và sự cần
thiết phải cho các em thực hành thí nghiệm Vật lý. Một lý do nữa là số tiết dành

cho việc thực hành trong chương trình Vật lý 9 là tương đối ít vì vậy tôi đã cố gắng
tổ chức một số buổi ngoại khoá để giúp các em có thể thực hiện tốt hơn trong việc
thực hành môn Vật Lý.
- Học sinh có kĩ năng quan sát các hiện tượng và quá trình vật lí để thu thập
các dữ liệu thông tin cần thiết. Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lí phổ
biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm Vật lí đơn giản. Kĩ năng phân tích, xử lí
các thông tin và các dữ liệu thu được để giải thích được một số hiện tượng Vật lí
đơn giản, để giải các bài tập Vật lí đòi hỏi những suy luận lôgíc và những phép
tính cơ bản cũng như để giải quyết một số vấn đề trong cuộc sống.
6


- Có khả năng đề xuất phương án thí nghiệm đơn giản để kiểm tra dự
đoán hoặc giả thuyết đã đề ra. Có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác bằng ngôn
ngữ Vật lí.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Tổ chức học sinh làm thí nghiệm vật lí chủ yếu trong các hoạt động nhóm
nhằm rèn luyện cho học sinh kỉ năng sử dụng các dụng cụ đo lường vật lí phổ biến,
lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm đơn giản, kỉ năng phân tích và xử lí các thông
tin, các dữ liệu thu được từ thí nghiệm.
Qua thí nghiệm học sinh có thái độ trung thực, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác, rèn
luyện tính độc lập và kỉ năng tư duy sáng tạo cho học sinh trong thực hành thí
nghiệm
Làm thí nghiệm là một hoạt động không thể thiếu được trong giờ học Vật lí.
Khi làm thí nghiện thành công thì học sinh cơ bản nắm được kiến thức nội dung
bài học. Muốn làm thí nghiệm thành công cũng không phải chuyện dễ vì môn Vật
lí có nhiều thí nghiệm, mỗi bài học có một kiểu thí nghiệm khác nhau. Do đó, giáo
viên phải suy nghĩ xem mình phải chuẩn bị những gì cho bài học này và cho những
bài học khác, nhưng tổ chức cho HS làm thí nghiệm ở những bài học khác nhau
cũng có những đặc điểm chung:

d. Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp:
Từ những giải pháp đặt ra, giáo viên đưa ra những biện pháp thực hiện sao
cho phù hợp với học sinh của mình. Tùy vào từng đối tượng mà ta đưa ra các giải
pháp cụ thể.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề:
B1:
+ GV gọi HS cho biết mục đích của TN là gì?
+ HS: Tổ chức HS làm thí nghiệm chủ yếu trong hoạt động nhóm nên GV có
thể chia lớp thành 4 6 nhóm nhỏ (tùy tình hình cơ sở vật chất trường, lớp), có
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm như phân công nhận
và thu dọn lại dụng cụ thí nghiệm của nhóm. Phân công thư ký để ghi kết quả thí
nghiệm, phân công chịu trách nhiệm trình bày kết quả thí nghiệm …. Trong nhóm,
mỗi thành viên thực hiện một công việc cụ thể.
+ GV phải chuẩn bị sẵn đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ cần thiết cho từng thí
nghiệm ở các nhóm. Vẽ hình sẵn nếu cần thiết.
B2. Giới thiệu đồ dùng: GV giới thiệu và cách sử dụng từng đồ dùng có
trong thí nghiệm hoặc qua hình vẽ HS nêu được các đồ dùng cần thiết trong thí
nghiệm hoặc HS có thể tự đề xuất phương án làm thí nghiệm để giải quyết một vấn
đề nào đó.
B3. Giáo viên có thể làm mẫu cho HS xem:Có những thí nghiệm tương đối
khó thực hiện, GV có thể làm trước cho HS xem trước các bước hoặc có những đồ
dùng các em chưa từng thực hiện thì GV cũng có thể thao tác mẫu cho HS thấy.
B4. Tiến hành thí nghiệm: Các nhóm HS đồng loạt tiến hành thí nghiệm
theo sự hướng dẫn của GV. Từng thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ của
7


mình như đã phân công trong nhóm. Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên theo
dõi, quan sát kỉ năng, thái độ làm việc của học sinh từng nhóm để từ đó có thể
chỉnh đốn, uốn nắn nhằm hình thành các kỉ năng làm thí nghiệm thực hành cho học

sinh.
B5. Các nhóm thảo luận, xử lý, trình bày kết quả: Sau khi các nhóm thực
hiện thí nghiệm xong (có thể trong quá trình thí nghiệm) các nhóm tự thảo luận, xử
lý kết quả của nhóm mình sau đó trình bày kết quả trên bảng phụ của nhóm hoặc
phiếu học tập mà GV đã hướng dẫn trước đó.
B6. Lớp thảo luận thống nhất: Sau khi các nhóm trình bày kết quả thí
nghiệm GV cho cả lớp cùng thảo luận kết quả từ đó đi đến thống nhất chung về kết
quả thhực hiện được.
*Trong những bài thí nghiệm ở phần Điện học trình tự tiến hành thí
nghiệm như trên, tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng của phần Điện
học, cụ thể:
- Ôn lại các kiến thức cũ của các bài trước và các kiến thức quan trọng có
liên quan mà HS đã được học ở lớp 7
- Chuẩn bị đầy đủ các linh kiện, đồ dùng (nên soạn riêng từng mâm cho mỗi
nhóm)
- Vẽ hình mạch điện lên bảng phụ, yêu cầu HS cho biết công dụng và cách
mắc từng bộ phận trong sơ đồ mạch điện
- Dựa vào mạch điện, hướng dẫn từng bước cho HS mắc mạch điện theo sơ
đồ.
- Chú ý đặt các dây dẫn điện phải liên tục để dễ quan sát (hạn chế đan chéo
nhau)
- GV nhắc HS trong khi ráp mạch điện phải để khóa K hở. Sau khi nhóm
nào báo ráp xong, GV đến kiểm tra cho HS đóng khóa K.
- Nếu nhóm nào khi đóng khóa K mà thấy kim của các dụng cụ quay ngược
lại thì lập tức ngắt khóa k và kiểm tra, đổi cực ở hai chốt của dụng cụ.
- HS biết đọc các số chỉ thị trên mặt đồng hồ đo, giá trị một khoảng chia
( đối với những loại vôn kế hoặc ampe kế có 2 thang đo thì phải đọc thang trên hay
thang dưới)
- GV phải biết cần cho HS mắc vôn kế và ampe kế với thang đo như thế nào
để không hư dụng cụ.

- Nên theo dõi thí nghiệm ở các nhóm để có thể giúp các em thực hành đúng
động tác và nhất là đọc đúng số chỉ của các dụng cụ đo.
- Cần bố trí thêm một bộ dụng cụ thí nghiệm để phòng có các dụng cụ hư
của các nhóm .
- Riêng các tiết thực hành thì học sinh có thêm nhiệm vụ phải hoàn thành
mẫu báo cáo trong sách giáo khoa.
* Đo lường và thu thập dữ liệu
Sau khi thực hiện các phương pháp để rèn luyện cho học sinh các kỹ năng
làm thí nghiệm Vật lí trong phần điện học đã đem lại kết quả khả quan hơn so với
kết quả khi chưa sử dụng. Đồng thời kể từ khi áp dụng vào các bài có thí nghiệm
thực hành thì tôi nhận thấy một số điểm sau:
8


+ Kỹ năng sắp xếp, bố trí các thí nghiệm có hệ thống và tiến bộ hơn trước
+ Kỹ năng làm các thí nghiệm thực hành của học sinh rất nhanh nhẹn, không
còn lúng túng trong khi làm thí nghiệm, phần lớn các thành viên trong nhóm đều
tham gia làm việc.
+ Học sinh nắm các kiến thức một cách sâu và vững chắc hơn.
+Học sinh cảm thấy yêu thích bộ môn hơn, nhất là các bài học có thí
nghiệm, vì các em có niềm tin vào các kiến thức Vật lí.
+ Học sinh biết cách hợp tác trong học tập.
* Kết quả cụ thể:
Sau đây là bảng kết quả ở các lớp 9A, 9B, 9C, 9D ở trường THCS Lê Quý
Đôn qua các thời điểm khác nhau là:
Thời điểm kiểm tra
Khảo sát chất lượng đầu năm
Kiểm tra lần 1
Kiểm tra lần 2
Kiểm tra lần 2


Tổng Trên trung bình
số
Tổng số
%
115
90
78,26
115
100
86,95
115
105
91,3
156
144
92,3

Dưới trung bình
Tổng số
%
25
21.74
15
13,05
10
8,7
12
7,7


Cho thấy kết quả có phần tiến bộ hơn rất nhiều sau khi thực hành thí
nghiệm. một số em có tiến bộ rõ nét trong học tập do cảm thấy thích học hơn.
Nhiều em còn tiến bộ đối với các môn có thực hành thí nghiệm. nhưng dù sau cũng
cần lưu ý khi giáo viên cho học sinh thực hành thí nghiệm.
Việc làm thí nghiệm về mạch điện nếu sử dụng nguồn điện là pin thì khá an
tòan cho HS. Tuy nhiên nếu làm thí nghiệm với nguồn điện là biến thế chỉnh lưu
cắm vào mạch điện 220V thì trước khi làm thí nghiệm GV cần kiểm tra để bảo
đảm cách điện giữa cuộn sơ cấp (cắm vào điện 220V) với cuộn thứ cấp ở mạch
điện HS sử dụng.
Trên bàn GV cần có cầu dao điều khiển điện cho cả lớp, ở cầu dao này dùng
dây chì loại nhỏ để dễ ngắt mạch khi có sự cố. Sau khi kiểm tra việc lắp mạch điện
của HS xong GV mới đóng mạch cho sử dụng. Khi có sự cố giáo viên có thể ngắt
mạch điện ngay.
Việc cho học sinh làm thí nghiệm rất quan trọng, nên giáo viên phải tổ chức
cho học sinh làm đều đặn và thường xuyên, từ đó tạo cho các em thói quen tốt
trong khi làm thí nghiệm. Nhất là đối với phần Điện học, nếu các em được thường
xuyên làm thí nghiệm thì các em sẽ thành thạo trong cách lắp mạch điện làm cho
giáo viên đở vất vả nhiều trong khâu hướng dẫn ở những tiết sau, các em có thói
quen về an toàn điện và biết cách khắc phục sự cố nếu có.
Qua việc giảng dạy, dự giờ ở những tiết Vật lý có tổ chức cho HS làm thí
nghiệm thì thấy không khí lớp học rất sôi nổi, giúp cho học sinh tiếp thu bài tốt
hơn, các em rất say mê trong những thí nghiệm do chính tay mình làm từ đó các
kiến thức được khắc sâu hơn vì những kiến thức vật lý thường xuất phát từ những
thí nghiệm chứng minh, thí nghiệm thực hành. Tuy nhiên để việc làm thí nghiệm
thành công hơn thì giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết quả tốt, phải chọn
những dụng cụ sao cho hạn chế rất ít những sai số không cần thiết.
9


* Hạn chế:

Chuẩn bị vất vả, điều khiển giờ thực hành phức tạp vì có nhiều học sinh
chưa có kỹ năng thực hành thí nghiệm và nếu có ít cũng không đồng đều, nếu điều
khiển không khéo giờ thực hành sẽ bị phân tán và phản tác dụng. Mặt khác, trong
quá trình tự học của học sinh ở nhà, học sinh nào tự giác tích cực sẽ đạt hiệu quả
cao hơn, ngược lại một số học sinh kém, hoạt động chậm hơn luôn bị động và rất
dễ dẫn đến chán học.
III. KẾT LUẬN -KIẾN NGHỊ:
III.1. Kết luận:
Tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân về lí luận phương pháp
giảng dạy thí nghiệm Vật lí trên cơ sở đó có thể vận dụng vào công việc giảng dạy
của mình.
Kinh nghiệm nay đã giúp tôi có kiến thức cơ bản về cách thức tổ chức và
tiến hành một thí nghiệm Vật lí – dù là thí nghiệm biểu diễn hay thí nghiệm thực
hành, từ đó góp phần nâng cao chất lượng học cho học sinh.
Để đạt chất lượng tốt trong giảng dạy và nhất là để học sinh nắm bắt các
kiến thức vững chắc hơn, có kỹ năng vận dụng các kiến thức, các thí nghiệm vào
thực tiễn tốt hơn thì mỗi trường cần có phòng thí nghiệm cho bộ môn. Vì có như
vậy thì giáo viên và cả học sinh đỡ vất vả hơn trong quá trình bố trí , làm thí
nghiệm, kết quả được chính xác hơn.
Bên cạnh những kết quả đạt được đó, còn bộc lộ một số hạn chế như nội
dung chưa thật đầy đủ, trình bày chưa thật khoa học... Bởi vậy tôi luôn đặt cho
mình nhiệm vụ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để hoàn thành tốt đẹp mục đích
đã đề ra.
III.2. Kiến nghị:
- Đối với giáo viên: Không ngừng học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ; cần quan tâm giúp đỡ hơn nữa học sinh yếu kém; lựa
chọn các nhóm trưởng có uy tín, học khá, giỏi để giúp đỡ hoc sinh yếu.
- Đối với các cấp lãnh đạo: để tiết thực hành thí nghiệm thành công cần phải
trang bị đầy đủ các trang thiết bị, chính xác. Do đó cần có sự chỉ đạo kịp thời về cơ
sở vật chất và kinh phí để giáo viên thực hiện có hiệu quả hơn.

Buôn Triết, ngày 14 tháng 4 năm 2017
Người thực hiện

Hoàng Vĩnh Lộc

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Sách giáo khoa vật lí 9, NXB giáo dục.
-Sách giáo viên vật lí 9, NXB giáo dục.
-Tài liệu hướng dẫn, sử dụng bộ dụng cụ thí nghiệm thực hành vật lí 9 của
Bộ giáo dục và đào tạo.
- Chuẩn kiến thức kỹ năng môn vật lí THCS – NXB Giáo dục.
- Phương pháp dạy học vật lí – NXB Giáo dục.
- Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng.

11



×