0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
—————————
ĐỖ LỆ THU
RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH LỚP 3
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Hà Nội, 2016
0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
——————————
ĐỖ LỆ THU
RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH LỚP 3
Chuyên ngành: Giáo dục học (bậc Tiểu học)
Mã số
: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS Đỗ Huy Quang
Hà Nội, 2016
0
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành tại trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Có đƣợc kết quả này, trƣớc tiên tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Đỗ Huy Quang, ngƣời đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau Đại học, các thầy cô
giáo Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, trang bị cho tôi những
kiến thức chuyên ngành cần thiết và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập
tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trƣờng Tiểu học Lĩnh Nam,
quận Hoàng Mai và Trƣờng Tiểu học Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trƣng đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm và giúp đỡ tôi
thực hiện công trình nhỏ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Tác giả
Đỗ Lệ Thu
0
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài Rèn kĩ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh
lớp 3 đƣợc chúng tôi nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở kế thừa và phát huy
những công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả khác cộng với sự cố
gắng, nỗ lực của bản thân.
Tôi xin cam đoan kết quả của đề tài này không trùng với bất cứ một công
trình nghiên cứu nào khác đã đƣợc công bố.
Ngƣời thực hiện
Đỗ Lệ Thu
0
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
II. NỘI DUNG ......................................................................................................................7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...............................................................7
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................................. 7
1.1.1. Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ ................................................................... 7
1.1.2. Lí thuyết hội thoại .............................................................................................. 11
1.1.3. Văn bản truyện với tư cách là phương tiện giao tiếp và để thực hiện
chức năng giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc ......................................................... 15
1.1.4. Kể chuyện một hình thức giao tiếp đặc biệt..........................................21
1.2. Cơ sở thực tiễn ..............................................................................................................31
1.2.1. Chương trình kể chuyện lớp 3 .............................................................. 31
1.2.2. Mục tiêu, nhiệm vụ phân môn kể chuyện ở lớp 3 ................................. 35
1.2.3. Những kỹ năng kể chuyện ở lớp 3 ........................................................ 36
1.2.4. Hệ thống bài tập Kể chuyện trong SGK Tiếng Việt lớp 3 ..................... 40
1.2.5. Quy trình dạy kể chyện lớp 3 ....................................................................47
1.2.6. Khảo sát thực tiễn giờ kể chuyện ở lớp 3 ............................................ 49
Tiểu kết chƣơng 1 ........................................................................................... 55
CHƢƠNG 2: BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN THEO QUAN
ĐIỂM GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 3 .............................................. 56
2.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp dạy kể chuyện theo quan điểm giao
tiếp cho học sinh lớp 3 ................................................................................... 56
2.1.1. Bảo đảm mục tiêu môn học ................................................................... 56
2.1.2. Đảm bảo mối quan hệ giữa các nhân tố trong hoạt động giao tiếp, góp
phần tích cực hóa hoạt động học tập môn Tiếng Việt của HS ........................ 57
2.1.3. Phù hợp thực tiễn dạy học kể chuyện ở lớp 3, phù hợp đặc điểm tư duy
và trình độ ngôn ngữ của HS lớp 3 ................................................................. 58
0
2.1.4. Đảm bảo tính hấp dẫn ........................................................................... 59
2.2. Hệ thống các biện pháp dạy kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho HS
lớp 3 ................................................................................................................ 60
2.2.1. Biện pháp hướng dẫn HS nhận biết lời của nhân vật và lời của người
dẫn chuyện trên văn bản truyện. ..................................................................... 60
2.3.2. Biện pháp hướng dẫn HS biết chuyển giọng đọc thành giọng nói, giọng kể 69
2.3.3. Biện pháp hướng dẫn HS biết hướng đến người nghe, giao tiếp với
người nghe khi kể chuyện ................................................................................ 72
2.3.4. Biện pháp hướng dẫn HS biết chuyển đổi ngôi kể khi kể chuyện ........ 78
2.3.5. Biện pháp hướng dẫn HS biết đóng vai người kể trong truyện để kể lại
câu chuyện. ...................................................................................................... 84
2.3.6. Biện pháp hướng dẫn HS kết hợp diễn xuất của người kể với sử dung
đ dùng trực quan, minh họa cho câu chuyện để kể câu chuyện hấp dẫn
hơn, hiệu quả hơn .................................................................................... 95
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 103
CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ......................................................................104
3.1. Mục đích thực nghiệm ................................................................................................104
3.2. Thời gian thực nghiệm ................................................................................................113
3.3. Phạm vi thực nghiệm ................................................................................................. 113
3.4. Lựa chọn đối tƣợng thực nghiệm ................................................................................ 113
3.5. Nội dung thực nghiệm ................................................................................................115
3.6. Kết quả và phân tích kết quả thực nghiệm ..................................................................117
Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................... 124
III. KẾT LUẬN ...............................................................................................................125
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ....................................126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................127
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 130
0
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Đối chứng
ĐC
2. Giáo viên
GV
3. Học sinh
HS
4. Sách giáo khoa
SGK
5. Thực nghiệm
TN
6. Tiếng Việt 3
TV3
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Trong thƣ gửi HS nhân ngày khai trƣờng đầu tiên của nƣớc Việt
Nam độc lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn các em HS: ―Non sông Việt Nam có
trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần công học tập của các em‖. Lời dạy của Bác đã khẳng định vai trò của
trẻ em đối với tƣơng lai của đất nƣớc.
Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn
hóa, kinh tế đất nƣớc. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nƣớc lớn
mạnh thì cần sự chung sức, đồng lòng của toàn dân mà lực lƣơng chủ
yếu chính là những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc, là nhân vật chính
góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam, đó chính
là trẻ em. Trẻ em là đối tƣợng chủ yếu trong chiến lƣợc con ngƣời của
Đảng, Nhà nƣớc ta và đƣợc cả xã hội quan tâm.
1.2 “Tiểu học là cấp học nền tảng trong nhà trường phổ thông, đặt cơ
sở ban đầu cho việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách con người, là
nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục
quốc dân”. Giáo dục tiểu học “hình thành cho HS những cơ sở ban đầu về sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kĩ năng cơ
bản để học tiếp trung học hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
(Mục tiêu, kế hoạch giáo dục tiểu học)
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng bậc Tiểu học là bậc học kĩ năng và
bậc Tiểu học ở bất cứ quốc gia nào cũng vậy, cũng phải hình thành cho HS
kĩ năng cơ bản tối thiểu và đặc trƣng nhất, đó là kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ:
nghe, nói, đọc, viết. Những kĩ năng đƣợc hình thành trên cơ sở tƣ duy phát
2
triển, và ngƣợc lại nhờ có kĩ năng cơ bản đó mà HS tiếp tục học tập tốt hơn,
tạo đƣợc bƣớc phát triển cao hơn.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học hiện nay là nâng cao chất lƣợng giáo
dục toàn diện. Nhà trƣờng Tiểu học là cái nôi cung cấp cho HS những tri thức
khoa học, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển nhân
cách.
1.3 Trong trƣờng tiểu học, kể chuyện là một kiểu bài học nhằm phát
triển lời nói, khả năng giao tiếp cho học sinh, bồi dƣỡng cho các em những
cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, cung cấp những kiến thức về vốn sống và
văn học, nêu những tấm gƣơng có tác dụng giáo dục. Do vậy, việc rèn kĩ
năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh là một việc làm cần
thiết của mỗi giáo viên. Tuy nhiên trên thực tế, GV và HS gặp rất nhiều khó
khăn, lúng túng khi dạy học kể chuyện theo quan điểm này. Phần lớn GV chỉ
đang dừng lại ở việc dạy kể chuyện theo lời nói của nhân vật hay theo nội
dung câu chuyện, chƣa quan tâm đến việc ứng dụng của việc kể chuyện là HS
biết sử dụng các phần mình đã kể, phù hợp với văn cảnh, phù hợp với văn hoá
giao tiếp của ngƣời Việt.
Nghiên cứu việc rèn kĩ năng kể chuyện ở tiểu học nói chung và việc
rèn kĩ năng kể chuyện ở lớp 3 nói riêng theo quan điểm giao tiếp là một việc
làm thiết thực, cấp bách để giải quyết những khó khăn, lúng túng trong dạy
học tiếng Việt của GV và HS lớp 3 hiện nay, góp phần thúc đẩy quá trình đổi
mới nội dung, phƣơng pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học diễn ra nhanh chóng
và đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài luận văn: “Rèn kĩ
năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 3”.
2. Lịch sử vấn đề
Kể chuyện là một trong những phân môn quan trọng ở Tiểu học.
3
Vì vậy, phân môn kể chuyện đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu.
Trong số đó, nổi bật nhất phải kể đến tác giả Chu Huy với cuốn Dạy kể
chuyện ở trƣờng Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000. Ngoài việc xác định
vị trí, nhiệm vụ rất quan trọng của phân môn Kể chuyện, ông còn đề ra
phƣơng pháp và kĩ thuật lên lớp với những bài soạn mẫu rất cụ thể.
Cuốn sách giúp chúng tôi nhận thức đúng về phân môn kể chuyện,
các biện pháp hƣớng dẫn dạy kể chuyện rất phong phú, là cẩm nang cho
nhiều giáo viên. Song các biện pháp trình bày trong sách chỉ phù hợp với
tiết kể chuyện đƣợc dạy theo phƣơng pháp cũ (thầy kể, trò nghe, ghi nhớ
và kể lại), không phù hợp với phƣơng pháp dạy hiện nay.
Giáo trình R n kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (1996) của hai tác giả Đào
Ngọc và Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục, đã chỉ ra rằ ng việc
rèn luyện kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ gắn liền với các kĩ năng nghiệp vụ ở tiểu
học nhƣ: kĩ năng đọc thầm, kĩ năng đọc diễn cảm, kĩ năng viết chữ, kĩ năng
viết các loại văn bản dạy ở tiểu học, kĩ năng nghe, kĩ năng nói, kĩ năng kể
chuyện.
Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Dự án phát triển giáo viên tiểu học đã cập nhật những thông
tin đổi mới về nội dung chƣơng trình sách giáo khoa và phƣơng pháp dạy học
theo chƣơng trình mới. Cuốn sách đã trình bày một cách chi tiết cụ thể về cấu
trúc nội dung và phƣơng pháp dạy học cho từng phân môn trong môn
Tiếng Việt trong đó có phân môn Kể chuyện.
Một tài liệu viết về đề tài kể chuyện mà không thể không nhắc đến đó
là quyển Kể chuyện
của đồng tác giả Đỗ Lê Chẩn và Nguyễn Thị Ngọc Bảo.
Trong phần lí luận chung các tác giả đã nêu đầy đủ về vị trí, nhiệm vụ cũng
nhƣ phƣơng pháp của dạy học kể chuyện ở lớp 1 cũng nhƣ đối với cấp Tiểu
học. Phần hƣớng dẫn cụ thể các tác giả đã tóm tắt nội dung truyện, hƣớng dẫn
4
tìm hiểu truyện và hƣớng dẫn các bƣớc lên lớp cho từng bài.
Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt -3 do đồng tác giả Lê
Phƣơng Nga và Nguyễn Trí biên soạn năm 2004 cũng đã đề cập đến phƣơng
pháp dạy học kể chuyện. Viết về phƣơng pháp dạy học kể chuyện các tác giả
đã vạch ra mục đích quan trọng và ý nghĩa thiết thực của việc dạy học kể
chuyện, đồng thời, các tác giả cũng đã xây dựng cách thức tổ chức cũng nhƣ
các hoạt động chủ yếu trong tiết kể chuyện. Đặc biệt các tác giả đã nhấn mạnh
đến việc rèn kĩ năng nghe và kể cho học sinh.
Hiện nay, chƣơng trình Tiểu học mới, phân môn kể chuyện đƣợc
giảng dạy theo phƣơng pháp mới, ở đó học sinh đƣợc chủ động kể chuyện
dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên chứ không thụ động nghe, ghi nhớ và
kể lại nhƣ trƣớc nữa. Với phƣơng pháp này, giáo viên trở về đúng vị trí
chủ đạo của mình và học sinh thực sự là ngƣời tự giác, tích cực và tự lực
trong học tập. Tuy nhiên, phƣơng pháp mới này chỉ đƣợc thực hiện đại trà
trong vài năm gần đây, nó còn khá mới mẻ. Do đó, các công trình
nghiên cứu còn chƣa nhiều.
Đề cập đến kể chuyện, đã có nhiều tài liệu giáo dục nghiên cứu và chỉ
ra vai trò, tầm quan trọng của việc dạy kể chuyện, phƣơng pháp dạy kể
chuyện, tuy nhiên các tài liệu đó còn mang tính chung, chƣa chỉ rõ vấn đề
cũng nhƣ chƣa đƣa ra các biện pháp cụ thể để áp dụng vào thực tiễn.. Vấn đề
kể chuyện còn đƣợc đề cập ở một số cuốn sách khác nhƣ: Giáo trình phƣơng
pháp dạy học Tiếng Việt 3, Nguyễn Trí, NXB Đại học sƣ phạm, 2004.
Nhìn chung các cuốn sách đã đề cập đến việc giảng dạy phân môn kể
chuyện ở tiểu học, tuy nhiên vấn đề kể chuyện theo quan điểm giao tiếp còn ít
đƣợc chú ý.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Chƣơng trình Tiếng Việt và hoạt động dạy
5
học phân môn kể chuyện ở tiểu học.
Các tài liệu phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt, Tâm lý học, Ngôn
ngữ học, Lý luận văn học, Thi pháp học v.v… có liên quan tới đề tài.
Phạm vi điều tra, khảo sát ở lớp 3 trƣờng Tiểu học Lĩnh Nam, quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
4. Mục đích nghiên cứu
Xác định đƣợc thế nào là kể chuyện theo quan điểm giao tiếp, ý
nghĩa và các yêu cầu đối với kể chuyện theo quan điểm giao tiếp trong quá
trình kể chuyện.
Đề xuất biện pháp (gồm các bƣớc) rèn kĩ năng kể chuyện theo quan
điểm giao tiếp cho học sinh lớp 3.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
1- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn về kể chuyện và kể chuyện theo
quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 3.
2- Xác định giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng cho việc giảng dạy
kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 3 ở trƣờng tiểu học
Lĩnh Nam thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội và trƣờng tiểu học Quỳnh Lôi ở
quận Hai Bà Trƣng, Hà Nội.
3- Tiến hành dạy thực nghiệm một số bài để đánh giá tính khả thi
và hiệu quả thực tiễn của đề xuất trong khóa luận.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phƣơng
pháp sau:
1- Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến kể chuyện theo quan điểm giao tiếp.
2- Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra khảo sát chƣơng
trình sách giáo khoa phƣơng pháp chuyên gia, thống kê, so sánh
6
3- Phƣơng pháp quan sát: Đƣợc cụ thể bằng các hình thức phỏng
vấn, đọc giáo án, dự giờ… đối với giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 3
phần kể chuyện theo quan điểm giao tiếp, khảo sát hứng thú và khả năng tiếp
nhận loại bài này của học sinh.
.4- Phƣơng pháp thực nghiệm: Để đánh giá và rút ra kết luận cụ thể
về phƣơng pháp hƣớng dẫn học sinh chuyển đổi ngôi kể trong giờ kể chuyện.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu luận văn rèn kĩ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp cho
học sinh lớp 3 đƣợc nghiên cứu trọn vẹn và xử lý đầy đủ, thì nhận thức của
giáo viên về kỹ năng kể chuyện đƣợc chính xác hơn, chất lƣợng dạy kể
chuyện theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp 3 đƣợc nâng cao hơn.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của kể chuyện ở tiểu học
theo quan điểm giao tiếp
Chƣơng 2: Biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện theo quan điểm giao tiếp
cho học sinh lớp 3.
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm
7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KỂ CHUYỆN
Ở TIỂU HỌC THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ
. . . Giao tiếp và giao tiếp bằng ngôn ngữ
Giao tiếp là một hoạt động quan trọng để phát triển xã hội loài ngƣời.
Có nhiều phƣơng tiện giao tiếp, trong đó ngôn ngữ là phƣơng tiện quan trọng
nhất, cơ bản nhất.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: ―Giao tiếp là một hoạt động xảy ra khi có
một chủ thể phát tin, sử dụng một tín hiệu để truyền đến cho chủ thể nhận tin
một nội dung nào đó. Giao tiếp là hoạt động có đích. Nội dung đƣợc truyền
đạt nhằm cung cấp những thông tin (hiểu biết) cho ngƣời nghe hoặc bày tỏ
thái độ tình cảm của ngƣời nói cho ngƣời nghe chia sẻ hoặc tạo lập, duy trì
quan hệ giữa ngƣời nói ngƣời nghe‖ (Cơ sở ngữ nghĩa học và từ vựng NXBGD-H2000 trang 32)
Cùng với quan điểm trên, tác giả Lê A, Đỗ Xuân Thảo cũng cho rằng
―khi có ít nhất hai ngƣời gặp nhau và bày tỏ với nhau điều gì đấy nhƣ nỗi
buồn, vui, ý muốn, hành động, hay nhận xét nào đấy về sự vật xung quanh thì
giữa họ diễn ra một hoạt động giao tiếp (gọi tắt là giao tiếp)”[Giáo trình tiếng
Việt -NXBGD-1997 trang27]
Nhƣ vậy, giao tiếp là hoạt động tiếp xúc giữa các thành viên trong xã
hội với nhau, dùng ngôn ngữ để bày tỏ tƣ tƣởng, tình cảm, trao đổi ý kiến,
kiến thức, nhận xét về xã hội, con ngƣời, thiên nhiên. Mỗi cuộc giao tiếp tối
thiểu phải có hai ngƣời và phải dùng cùng một ngôn ngữ nhất định.
8
Giao tiếp tồn tại dƣới hai dạng: giao tiếp bằng lời (giao tiếp miệng) và
giao tiếp bằng văn tự (giao tiếp viết).
Vấn đề đặt ra là tại sao con ngƣời lại phải giao tiếp với nhau? Câu trả
lời chỉ có thể tìm thấy trong mục đích và chức năng của giao tiếp. Vai trò mà
giao tiếp đảm nhận trong đời sống cộng đồng chính là chức năng của ngôn
ngữ. Giao tiếp có 4 chức năng chính:
Chức năng thông tin (chức năng thông báo): Qua các cuộc giao tiếp,
ngƣời ta trao đổi những thông tin (các tin tức thời sự, chính trị, các tri thức
khoa học, văn học nghệ thuật....) dƣới dạng nhận thức, tức là họ đã thực hiện
chức năng thông báo của giao tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của con
ngƣời. Đây chính là chức năng mà chúng ta thƣờng gặp trong giao tiếp.
Chức năng tạo lập quan hệ: Không chỉ dừng lại ở việc trao đổi thông
tin, trong quá trình giao tiếp con ngƣời còn hƣớng tới việc xây dựng và duy trì
các mối quan hệ tốt đẹp giữa những cá nhân tham gia giao tiếp. Đôi khi, mục
đích này lại là mục đích chính của cuộc giao tiếp. Tuy nhiên, chức năng này
bao gồm cả chức năng phá vỡ quan hệ.
Chức năng giải trí: Trong cuộc sống có những lúc con ngƣời phải làm
việc, hoặc học tập quá vất vả, những lúc nhƣ thế con ngƣời cần đƣợc nghỉ
ngơi thƣ giãn. Hoạt động giao tiếp với những câu chuyện cƣời, những lời đùa
vui dí dỏm....sẽ là liều thuốc hiệu nghiệm xua đi những mệt mỏi ƣu phiền,
làm cho con ngƣời thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn và hứng thú hơn với công
việc hàng ngày của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, chức năng này có
vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp con ngƣời có thể tự bộc lộ
mình về tình cảm, sở thích, trạng thái sức khoẻ, hay nguyện vọng, năng khiếu.
Đối với các sự vật, hiện tƣợng hoặc một vấn đề nào đó mà họ quan tâm, tất cả
các điều đó đều đƣợc thể hiện trong lời nói của mỗi cá nhân khi tham gia vào
9
hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên trong quá trình giao tiếp, con ngƣời có thể tự
biểu hiện mình về nhiều mặt một cách có ý thức hoặc không có ý thức.
Từ việc tìm hiểu những chức năng giao tiếp trên, chúng ta có cơ sở để
thực hiện thành công những cuộc giao tiếp trong cuộc sống. Mặt khác nó còn
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy học. Nắm đƣợc những chức năng
này sẽ giúp GV có cơ sở để đánh giá kết quả những ngôn bản nói và viết mà
HS tạo ra trong quá trình học tập, giao tiếp một cách đầy đủ hơn, chính xác
hơn và toàn diện hơn.
1. . . . Các nhân tố giao tiếp
Nhân tố giao tiếp là những yếu tố cùng có mặt và tham gia đồng thời
vào một hoạt động giao tiếp nào đấy, có ảnh hƣởng trực tiếp hoặc để lại
những dấu ấn trong hoạt động giao tiếp đó. Vậy có những nhân tố nào tham
gia vào hoạt động giao tiếp. Ngƣời ta thƣờng nhắc đến các nhân tố sau đây đã
tham gia và ảnh hƣởng đến các cuộc giao tiếp.
a) Nhân vật giao tiếp.
Nhân vật giao tiếp là những ngƣời tham gia vào cuộc giao tiếp. Nhân
vật giao tiếp có thể đƣợc chia làm hai loại nhân vật mà theo lý thuyết thông
tin gọi là ngƣời phát (bao gồm ngƣời viết hoặc nói) và ngƣời nhận ( bao gồm
ngƣời đọc hoặc nghe). Có nhiều yếu tố giữa hai loại nhân vật này ảnh hƣởng
đến kết quả giao tiếp nhƣ : trình độ và nghệ thuật nói năng của ngƣời nói;
mức độ quan hệ giữa ngƣời nói và ngƣời nghe.
b). Hiện thực được nói tới
Hiện thực đƣợc nói tới chính là sự vật, hiện tƣợng, những sự kiện diễn ra
trong thế giới tự nhiên và trong đời sống xã hội của con ngƣời. Hiện thực đƣợc
nói tới cấu thành nội dung của cuộc giao tiếp và tạo nên đề tài, chủ đề của các
cuộc nói chuyện. Tuỳ theo đề tài, chủ đề của các cuộc nói chuyện mà cả hai bên
lựa chọn các nội dung chi tiết và phƣơng tiện ngôn ngữ để giao tiếp.
10
c) Hoàn cảnh giao tiếp
Cuộc giao tiếp nào cũng diễn ra trong một bối cảnh cụ thể. Hoàn cảnh
giao tiếp đƣợc chia làm hai loại:
+ Hoàn cảnh giao tiếp rộng là tổng thể những đặc điểm về điều kiện tự
nhiên, xã hội, lịch sử.
+ Hoàn cảnh giao tiếp hẹp còn gọi là tình huống giao tiếp, bao gồm
các yếu tố thời gian, địa điểm, hình thức giao tiếp, tình trạng sức khoẻ.
d) Ngôn ngữ được sử dụng
Ngôn ngữ là công cụ để cả hai bên tiến hành giao tiếp. Trong văn bản
văn chƣơng, nhà văn giao tiếp với bạn đọc, ngoài phƣơng tiện ngôn từ còn
giao tiếp bằng hình tƣợng nhân vật, chi tiết nghệ thuật, bằng hình ảnh, biện
pháp tu từ...
e) Ngôn bản
―Ngôn bản là chuỗi kết hợp các yếu tố ngôn ngữ tạo nên lời nói của
nhân vật giao tiếp‖ [Giáo trình tiếng Việt -NXBGD-1997 trang31] nói cách
khác ngôn bản là sản phẩm của lời nói đƣợc tạo ra trong một hoạt động giao
tiếp nhằm đạt đến mục đích giao tiếp. Nhƣ vậy có thể hiểu một cách đầy đủ
thì ngôn bản chính là sản phẩm dạng nói lẫn dạng viết của việc giao tiếp bằng
ngôn ngữ.
Ngôn bản nói là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ thể hiện ra bằng âm thanh,
bằng lời nói miệng khi giao tiếp.
Ngôn bản viết là chuỗi các yếu tố ngôn ngữ đƣợc thể hiện bằng con
chữ trong các tác phẩm viết.
Nhƣ vậy, dấu hiệu để phân biệt giữa ngôn bản nói và ngôn bản viết
chính là ở yếu tố cấu thành lời nói khi giao tiếp (âm thanh hay chữ viết).
Thêm vào đó, chúng còn có sự khác nhau về đối tƣợng tiếp nhận ngôn bản.
11
Thƣờng thì ở ngôn bản nói luôn có sự hiện diện của ngƣời nghe, còn ở ngôn
bản viết thì không có sự hiện diện của ngƣời đọc.
1.1.2 Lí thuyết hội thoại
"Lý thuyết hội thoại tính đến nay là lĩnh vực cuối cùng của ngôn ngữ học
quan tâm đến các diễn ngôn trong hoạt động, trong hoàn cảnh giao tiếp" [Đại
cương ngôn ngữ học -NXBGD-1996 trang 27]
. . . .Khái niệm hội thoại và các kiểu hội thoại
"Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản thƣờng xuyên phổ biến của
hành chức ngôn ngữ" [Đại cương ngôn ngữ học trang 7-NXBGD-1996]
Diễn đạt lại cho cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu hơn thì hội thoại là hoạt
động giao tiếp bằng lời nói miệng giữa các nhân vật tham dự giao tiếp nhằm
trao đổi những thông tin hoặc tƣ tƣởng, tình cảm… theo một mục đích đã đặt
ra. Lời nói trong hội thoại đƣợc gọi chung là lời thoại.
* Các kiểu hội thoại.
Có nhiều kiểu hội thoại khác nhau, tùy thuộc vào những nhân tố giao
tiếp đƣợc lấy làm cơ sở để phân chia, cụ thể là:
- Dựa vào nhân vật giao tiếp ngƣời ta chia thành hai kiểu: đơn thoại và đa
thoại.
+ Đơn thoại: là kiểu hội thoại chỉ có một ngƣời chủ động nói còn
những ngƣời khác đóng vai trò là ngƣời nghe, thậm chí nói cho chính bản
thân mình nghe (độc thoại). Lời nói trong đơn thoại gọi là lời độc thoại.
+ Đa thoại: là kiểu hội thoại giữa hai hay nhiều ngƣời cùng tham gia
hoạt động giao tiếp nói với nhau. Tùy thuộc vào số lƣợng cụ thể của ngƣời
tham gia giao tiếp mà ngƣời ta chia nhỏ thành: song thoại (hội thoại giữa hai
ngƣời), tam thoại (hội thoại giữa ba ngƣời), tứ thoại (hội thoại giữa bốn
ngƣời)… và đa thoại (nhiều ngƣời). Lời nói trong đa thoại là lời đối thoại, nó
phải nằm trong một mạch của nhiều lời nói do nhiều ngƣời nói lần lƣợt nối
12
tiếp nhau. Mỗi lời nói phải ăn nhập vào mạch chung của nội dung câu chuyện
thì mới đảm bảo cho cuộc hội thoại đạt kết quả tốt. Điều này đòi hỏi giữa
những ngƣời hội thoại phải có sự thỏa thuận ngầm với nhau về nội dung hội
thoại và đặc biệt là họ phải cùng nhau thực hiện tốt những quy tắc hội thoại
nhƣ: phải biết trao lời, tiếp lời đúng lúc; phải tôn trọng thể diện của nhau;
phải có ý thức hợp tác với nhau trong suốt quá trình triển khai cuộc thoại…
Trong phân môn Kể chuyện lớp 3, phần lớn các dạng bài tập gồm cả
đơn thoại và đa thoại. Đơn thoại chiếm tỉ lệ nhiều hơn(dạng bài tập nhập vai, kể
theo lời tác giả), còn đa thoại chủ yếu là kiểu đối thoại (kiểu bài tập phân vai).
Trên cơ sở nắm vững khái niệm và đặc điểm của các loại hội thoại, khi dạy
luyện nói cho HS, GV cần luyện cho HS biết dùng lời độc thoại và lời đối thoại.
Với lời độc thoại, GV phải giúp HS nói cho đầy đủ, có đầu có cuối một cách
ngắn gọn, rành mạch, rõ ràng, giúp cho ngƣời nghe hiểu đƣợc dễ dàng. Với lời
đối thoại, GV cần giúp HS biết lắng nghe ngƣời khác nói để nắm đƣợc diễn biến
nội dung câu chuyện và có những lời nói phù hợp; Đồng thời phải giúp HS ý
thức đƣợc khi nào cần nhƣờng lời, tiếp lời,… cũng nhƣ việc lựa chọn, sử dụng
thêm các yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, điệu bộ, nét mặt,…) phụ trợ thêm cho lời
nói của mình để đạt kết quả cao nhất.
- Dựa vào hoàn cảnh giao tiếp hẹp diễn ra hội thoại, ngƣời ta chia thành
hai kiểu:
+ Hội thoại có tính chất nghi thức chính thức, mang tính quy phạm:
Đây là cuộc thoại đòi hỏi ngƣời tham gia tính toán suy nghĩ rất kĩ lƣỡng trƣớc
khi nói sao cho phù hợp với vai (vị thế) của mình cũng nhƣ nội dung, hoàn
cảnh giao tiếp lúc đó.
+ Hội thoại không mang tính nghi thức: đây là những cuộc thoại mang
tính riêng tƣ mà ngƣời tham gia có thể tự nhiên, thoải mái hơn khi bộc lộ
những suy nghĩ, tƣ tƣởng của mình (Ví dụ: trò chuyện, thảo luận…).
13
Trong phân môn Kể chuyện lớp 3 có một số truỵện về nghi thức lời
nói (Ai có lỗi,Các em nhỏ và cụ già…). Khi dạy những dạng bài này, GV phải
giúp HS xác định vai của mình trong từng tình huống giao tiếp cụ thể để HS
lựa chọn cách xƣng hô cũng nhƣ cách thể hiện thái độ cho đúng mực khi nói.
- Dựa vào nội dung đề tài cuộc thoại ta có thể có các kiểu hội thoại bắt buộc
(nội dung đƣợc định trƣớc) và hội thoại tự do bao gồm nhiều kiểu đề tài khác nhau
nhƣ: đề tài học tập, đề tài thể thao, truyền thống dân tộc... Ngƣời tham gia hội thoại
cần nắm vững nội dung đề tài để chủ động lời nói cho phù hợp với mỗi tình huống
đặt ra. Kể chuyện là kiểu hội thoại bắt buộc, nội dung kể chuyện đƣợc định trƣớc.
Nhận xét bạn kể và thảo luận về bài học, lời khuyên từ câu chuyện là hội thoại tự
do.
. . . . Các vận động hội thoại
Nói đến hội thoại phải nói đến ngƣời nói và ngƣời nghe với những
hoạt động của ngƣời đó. Họ sẽ thực hiện những vận động chính của một cuộc
thoại là vận động trao lời, vận động đáp lời và vận động tƣơng tác.
* Vận động trao lời:
Trong hội thoại, thông thƣờng khi một ngƣời nào đó nói ra và hƣớng
lời nói của mình tới ngƣời nghe thì ngƣời đó đã thực hiện một vận động, ta
gọi đó là vận động trao lời (trừ trƣờng hợp độc thoại)
* Vận động đáp lời:
Sự đáp lời là một nhu cầu bức thiết của việc nói năng. Khi đã có ngƣời
trao lời mà không có sự đáp lời thì chƣa thể gọi là hội thoại. Trao lời và đáp
lời là hai vận động cơ bản của hội thoại, giữa chúng cần phải có sự phối hợp
nhịp nhàng với nhau, bởi thế ngƣời thực hiện vận động đáp lời cũng phải thể
hiện đƣợc sự nhiệt tình, cởi mở.. . sẵn sàng khi đáp lời để cuộc hội thoại tiến
triển và kết thúc tốt đẹp.
* Vận động tương tác:
14
- Vận động tƣơng tác là vận động tác động lẫn nhau, cùng làm cho
nhau biến đổi. Hội thoại là một vận động tƣơng tác vì những đối tƣợng tham
gia giao tiếp luôn có sự tác động lẫn nhau bằng lời nói, bằng điệu bộ, cử chỉ,
thái độ, ánh mắt…. Kết quả là dù ít hay nhiều, họ cũng sẽ làm cho nhau biến
đổi khi hội thoại kết thúc. Sự biến đổi này thƣờng đƣợc thể hiện ở khoảng
cách giữa những nhân vật giao tiếp vào thời điểm trƣớc và sau khi giao tiếp.
. . .3. Các quy tắc hội thoại
* Quy tắc thương lượng hội thoại
Thƣơng lƣợng hội thoại là sự thỏa thuận giữa những ngƣời tham gia
giao tiếp về nội dung đề tài, về vị thế giao tiếp, hình thức giao tiếp… . Khi có
đƣợc sự thỏa thuận thống nhất thì cuộc giao tiếp mới có thể bắt đầu đƣợc.
* Quy tắc luân phiên lượt lời:
Quy tắc này yêu cầu khi có hai ngƣời tham gia giao tiếp trở lên thì họ
phải biết luân phiên lƣợt lời cho nhau. Lƣợt lời là khi có một lời trao đến cho
một ngƣời nào đó thì ngƣời đó phải thực hiện vận động đáp lời vào thời điểm
lời đã trao kết thúc. Nhƣ vậy, khi ngƣời này nói thì ngƣời kia phải biết nhƣờng
lời và lắng nghe, đồng thời phải phát hiện ra dấu hiệu kết thúc của lời trao mà
mình đang nhận để đáp lời hoặc tiếp lời cho phù hợp để cuộc hội thoại đƣợc
diễn ra liền mạch. Với phân môn Kể chuyện, quy tắc này đƣợc thể hiện rất rõ
trong dạng bài tập phân vai dựng lại câu chuyện.
* Quy tắc liên kết hội thoại.
Trong hội thoại, những lời nói của ngƣời tham gia giao tiếp phải có sự
liên kết chặt chẽ với nhau. Sự liên kết này thể hiện ở các nội dung và hình
thức của các hội thoại. Về nội dung: các lời nói phải cùng hƣớng về nội dung
đề tài nhất định. Về hình thức: các lời thoại cũng cần có những dấu hiệu liên
kết cụ thể, ví dụ việc sử dụng các phép thế, phép lặp, phép nối, các quan hệ
từ… để liên kết các lời nói lại với nhau khi giao tiếp. Tuy nhiên, sự liên kết
15
hội thoại này không nhất thiết phải diễn ra trong suốt cuộc thoại.
* Quy tắc tôn trọng thể diện của nhau:
Quy tắc này quy định những ngƣời tham gia giao tiếp phải có ý thức
giữ gìn thể diện cho nhau và cũng là cho chính bản thân mình. Khi giao tiếp,
ngƣời nói phải biết lựa chọn lời nói cho phù hợp với đặc điểm cá tính của
ngƣời nghe. Đồng thời đòi hỏi ngƣời nói phải biết khiêm tốn, không nên nói
quá nhiều về bản thân mình vì có thể nó sẽ khiến cho ngƣời nghe khó chịu.
Đây cũng là điều cần chú ý khi hội thoại.
* Quy tắc cộng tác hội thoại.
Ngƣời nói và ngƣời nghe cần có sự cộng tác với nhau trong suốt
quá trình hội thoại về các mặt: nội dung hội thoại, hình thức hội tho ại,
chất lƣợng hội thoại, quan hệ hội thoại…
Tóm lại, trên đây là những quy tắc hội thoại cơ bản nhất mà mỗi
chúng ta cần tôn trọng và thực hiện tốt để thể hiện tính văn hóa khi giao tiếp.
Những quy tắc này cũng là những cơ sở để cho ngƣời GV tìm ra nguyên nhân
thành công hay thất bại của mỗi cuộc giao tiếp do mình thực hiện, đồng thời
nó cũng là cơ sở để họ xây dựng các bài tập luyện nói với những yêu cầu khác
nhau nhằm rèn luyện kĩ năng nói trong thực hành giao tiếp cho HS.
1.1.3 Văn bản truyện với tư cách là phương tiện giao tiếp và để thực
hiện chức năng giao tiếp giữa nhà văn và bạn đọc
Giao tiếp trong văn bản truyện là hoạt động giao tiếp dùng câu
chuyện làm phƣơng tiện chuyển tải thông điệp giữa ngƣời ―phát‖ (nhà văn) và
ngƣời ―nhận‖ (độc giả). Văn bản truyện là một loại hình nghệ thuật dùng
ngôn ngữ và hình tƣợng để thể hiện đời sống và xã hội con ngƣời. Ngƣời sáng
tác làm ra tác phẩm để chuyển tải tƣ tƣởng, tình cảm của mình, ngƣời đọc nhờ
có tác phẩm mà tiếp nhận những tƣ tƣởng và tình cảm của ngƣời sáng tác.
―Tác phẩm‖ văn bản truyện là đơn vị cơ bản của văn bản truyện, là cầu nối, là
16
phƣơng tiện giao tiếp giữa ngƣời sáng tác và ngƣời đọc. Những hoạt động
―giao lƣu‖ giữa ngƣời sáng tác và ngƣời tiếp nhận qua tác phẩm văn bản
truyện, gọi là hoạt động giao tiếp văn bản truyện.
a. Sáng tác truyện là hoạt động của nhà văn muốn đƣợc trò chuyện,
giao tiếp, bàn luận với bạn đọc về các vấn đề cuộc sống.
Theo C.Mác: ―Nhu cầu vĩ đại nhất, phong phú nhất của con ngƣời là
nhu cầu tiếp xúc với ngƣời khác. Nhu cầu này không ngang hàng với nhu cầu
khác, sự phát triển của nó trong một con ngƣời chính là điều kiện làm cho con
ngƣời trở thành con ngƣời‖. Nhƣ vậy, đã là con ngƣời ai cũng có nhu cầu giao
tiếp. Đặc biệt là nhà văn những ngƣời luôn dành trọn trí tuệ, tâm huyết của
mình để dõi theo hơi thở, nhịp điệu của cuộc sống. Những ngƣời luôn khát
khao bộc lộ những trăn trở, suy tƣ và tiếng nói của mình về cuộc sống, đúng
nhƣ L.Tôn.xtôi đã nói ―nghệ thuật là một trong những phƣơng tiện giao tiếp
giữa ngƣời với ngƣời.‖ (dẫn theo Nguyễn Văn Lê, Nhập môn khoa học giao
tiếp, trang 224). Nhà văn bắt tay vào sáng tác văn bản truyện là thực hiện một
hoạt động ―gọi độc giả‖ (S.P.Satre), bao giờ cũng có ý định hƣớng đến một ai
đó, một ngƣời đọc giả định nào đó. Tô Hoài khi viết ―Dế mèn phiêu lƣu kí‖
trƣớc hết là muốn tự định hƣớng cho bản thân về ý thức chính trị, về thời
cuộc. Hơn nữa là muốn tìm sự đồng cảm của bạn đọc Việt Nam và bạn đọc
trên toàn thế giới về ƣớc mơ có một thế giới đại đồng. Một thế giới không
chiến tranh, không có những kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, mọi ngƣời đƣợc sống
trong hòa bình và phát triển.
Nhà thơ Tố Hữu cũng có quan niệm rằng ―Thơ là từ trái tim đến với
trái tim, Thơ là một điệu hồn đi tìm các hồn đồng điệu‖ là ―tiếng nói tri âm‖.
Sáng tác văn bản truyện còn là một nhu cầu muốn giải thoát nội tâm
của nhà văn. Cũng giống nhƣ những ngƣời bình thƣờng khác, nhà văn cũng
có những ấn tƣợng, cảm xúc về thế giới, về cuộc sống xung quanh ―Hôm nay
17
trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn‖. Ở nhà văn, những ấn
tƣợng cảm xúc này thƣờng rất mãnh liệt và đƣợc thể hiện bằng câu chữ, văn
bản. Ngƣời xƣa nói ―thi ngôn chí‖ (thơ bày tỏ lí tƣởng), ―Thi duyên tình‖ (thơ
bày tỏ tình cảm). Ngày nay, những sáng tác của các nhà văn ít nhiều đều
đƣợc hình thành từ nhu cầu muốn giải thoát nội tâm. Từ mong muốn giao
tiếp, mong muốn giải thoát nội tâm, sáng tạo nghệ thuật đã trở thành một nhu
cầu mãnh liệt một phƣơng tiện mạnh mẽ để giải thoát những tình cảm bị dồn
nén của nhà văn. Nhƣ vậy có thể nói nhƣ Phƣơng Lựu ―Sáng tác văn chƣơng
là một nhu cầu giao tiếp, là một hoạt động giao tiếp với đời sống, với mọi
ngƣời, và với chính bản thân chủ thể sáng tạo.‖ (dẫn theo Nguyễn Văn Lê,
Nhập môn khoa học giao tiếp, trang 224).
Sự đồng cảm chia sẻ của nhà văn bao giờ cũng có ý nghĩa giải bày,
thuyết phục, mong muốn ngƣời khác thấu hiểu những điều mà ông ta quan
sát, suy nghĩ và thể nghiệm. Bằng ―tác phẩm‖ của mình, nhà văn cung cấp
cho ngƣời đọc những hiểu biết mới về con ngƣời và xã hội đồng thời cũng tạo
ra những nhu cầu mới cho ngƣời đọc, thậm chí là tạo ra những bạn đọc mới.
b. Văn bản truyện là hoạt động giao tiếp, đối thoại giữa ngƣời đọc và
nhà văn qua tác phẩm.
Tiếp nhận câu chuyện là hoạt động của ngƣời đọc nhằm chiếm lĩnh
các giá trị cũng nhƣ nghệ thuật của tác phẩm văn bản truyện. Con ngƣời thực
hiện việc tiếp nhận văn bản truyện qua hai con đƣờng hoặc nghe, hoặc đọc
―tác phẩm‖. Hoạt động tiếp nhận văn bản truyện bắt đầu từ việc tiếp xúc với
văn bản ngôn từ (nói hoặc viết) với hình tƣợng nghệ thuật, tiếp theo là phân
tích, lí giải, lĩnh hội những giá trị đƣợc hình thành từ hệ thống ngôn ngữ và
hình tƣợng, cuối cùng là đánh giá tƣ tƣởng, thái độ, cảm hứng nghệ thuật của
nhà văn qua hệ thống ngôn ngữ và hình tƣợng. Tiếp nhận văn bản truyện là
một hoạt động ―giao lƣu‖, khám phá, một hoạt động nhận thức của bạn đọc về
18
con ngƣời và cuộc sống qua lăng kính của nhà văn. Tác động của bạn đọc
trong hoạt động tiếp nhận văn bản truyện với tác phẩm thể hiện ở chỗ ngƣời
đọc đem đến cho ―tác phẩm‖ của nhà văn một dáng vẻ mới, một giá trị mới
nhiều khi vƣợt ra ngoài ý định của tác giả. Với hoạt động tiếp nhận, bạn đọc
sẽ làm cho giá trị của tác phẩm phong phú thêm bằng những cảm thụ và đánh
giá của riêng mình. Từ giao tiếp văn bản truyện, ngƣời đọc còn thực hiện mở
rộng các hoạt động giao tiếp xã hội với mọi ngƣời, cùng tham gia hoạt động
tiếp nhận văn bản truyện dƣới các hình thức khác nhau. ―Về thực chất, tiếp
nhận văn bản truyện là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa ngƣời đọc và
tác giả qua tác phẩm. Nó đòi hỏi ngƣời đọc tham gia với tất cả trái tim, khối
óc, hứng thú và nhân cách, tri thức và sức sáng tạo‖ [6, trang 325]
* Giao tiếp giữa bạn đọc và hình tƣợng văn bản truyện.
Hình tƣợng trong văn bản truyện là đối tƣợng đầu tiên, ngƣời ―phát‖
đầu tiên đến với độc giả. Khi đọc ―tác phẩm‖, ngƣời đọc thƣờng không nhớ
tới ngƣời sáng tạo ra hình tƣợng văn bản truyện (tác giả) mà chỉ nhớ đến hình
tƣợng trong câu chuyện. Giao tiếp với hình tƣợng trong truyện nhƣ là giao
tiếp với một thực thể sống (với tất cả đặc điểm ngoại hình, cá tính, số phận)
tồn tại nhƣ ở ngoài đời. Ví dụ nhƣ khi đọc truyện ―Tấm Cám‖ bạn đọc đƣợc
tiếp xúc với cô Tấm dịu hiền chăm chỉ thì đƣợc hƣởng hạnh phúc, cô Cám
lƣời biếng, xấu tính, mụ dì ghẻ độc ác tham lam thì bị trừng phạt…Những
nhân vật này là những con ngƣời bằng xƣơng, bằng thịt ngoài đời đƣợc tác
giả dân gian đƣa vào câu chuyện để thể hiện ƣớc mơ, nguyện vọng của mình
vào một cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc. Hay khi các em đƣợc tiếp xúc với
tác phẩm ―Dế mèn phiêu lƣu kí‖ của nhà văn Tô Hoài là các em đƣợc tiếp xúc
với một thế giới loài vật thật sống động với những mô tả rất tinh tế hay thể
hiện óc quan sát tinh tế. Ví dụ khi miêu tả bầy chuồn chuồn tác giả đã viết:
―Chuồn chuồn chúa lúc nào cũng nhƣ dữ dội, hùng hổ nhƣng kỳ thực trông kỹ