Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.54 KB, 30 trang )

Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

MỤC LỤC
NỘI DUNG
MỤC LỤC…………………………………………………………………..
A. MỞ ĐẦU ………………………………………………………..............
I. Đặt vấn đề :……………………………………………………….............
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giảiquyết:……...
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:………………………………….
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài: …………………………………………...
II. Phương pháp tiến hành:………………………………………………..
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu,tìm
giải pháp của đề tài:………………………………………………………….
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:……………………..

Trang
01
02
02
02
07
07
07

B. NỘI DUNG................................................................................................
I. Mục tiêu:……………………….................................................................
II. Mô tả giải pháp của đề tài.......................................................................
1. Cơ sở lý luận:……………………………………………………………
2. Thuyết minh tính mới:…………………………………………………...
3. Khả năng áp dụng:………………………………………………………
4. Lợi ích kinh tế - xã hội:………………………………………………….



09
09
09
09
10
24
26

C. KẾT LUẬN …………………………………………….........................
I. Khái quát chung ........................................................................................
II. Đề xuất và kiến nghị.................................................................................
1. Đối với giáo viên:………………………………………………………
2. Đối với nhà trường:……………………………………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………................

27
27
27
27
27
29

GV: Trần Thị Kim Hồng

07
08

Trang 1



Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thể kỷ của sự phát triển khoa học công
nghệ. Hàng ngày, hàng giờ có hàng loạt các phát minh mới, những tiến bộ mới về khoa
học kỹ thuật đã và đang làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội theo hướng hiện đại. Trong
xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng là nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Vì vậy vấn đề nâng cao nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đang được
đặt lên hàng đầu.
Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo đã và đang có những bước
chuyển mình sâu sắc kể cả chất và lượng, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục ngày càng
nhiều và hiện đại, đội ngũ giáo viên được nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ, nhiều
phương pháp, kỹ thuật dạy học được áp dụng, tích hợp giáo dục môi trường, kỹ năng
sống… nhằm phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
Hóa học là môn khoa học tự nhiên mà học sinh được tiếp cận tương đối muộn
nhưng lại có vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống tri thức nhân loại. Môn Hóa học ở
cấp THCS cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản và thiết thực đầu tiên về Hóa
học làm nền tảng để các em học tiếp chương trình THPT và đi vào cuộc sống, rèn luyện
những phẩm chất cần thiết như khả năng tư duy, sáng tạo, tính cẩn thận, kiên trì, trung
thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu thích khoa học.
Nội dung chương trình Hoá học – lớp 8 bao gồm hình thành các khái niệm, định
luật, các tính chất của chất ... rất trừu tượng đối với học sinh. Vì vậy nếu giáo viên chỉ
truyền thụ những lí thuyết cơ bản như sách giáo khoa thì học sinh tiếp thu rất thụ động,
việc tìm hiểu và phát triển kiến thức mới đơn điệu, dễ dẫn đến nhàm chán. Như vậy để
hình thành những khái niệm hoá học hiệu quả nhất có lẽ là qua nghiên cứu các thí
nghiệm, bởi đó là những sự vật, hiện tượng cụ thể mà người giáo viên khó có thể dùng
những từ ngữ nào để mô tả đầy đủ, cụ thể và chính xác hơn. Mỗi thí nghiệm thành công
không chỉ giúp học sinh phát hiện ra tri thức mới mà còn củng cố niềm tin vào khoa học,

kích thích tính tò mò, say mê, hứng thú với môn học. Mặc khác, sau khi tiến hành và giải
thích kết quả thí nghiệm, học sinh sẽ nhớ kiến thức một cách sâu sắc và có hệ thống.
Tuy nhiên, hiện nay đa số giáo viên bộ môn Hóa rất ít sử dụng thí nghiệm trong
các giờ dạy lý thuyết trên lớp, có chăng chỉ là các thí nghiệm do giáo viên biểu diễn, chỉ
ở các giờ thực hành học sinh mới được trực tiếp làm thí nghiệm. Vì vậy học sinh rất lúng
túng, không tự tin khi làm thí nghiệm. Dẫn đến giờ học có thí nghiệm trở nên ồn ào, mất
thời gian, không phát huy hết vai trò của thí nghiệm. Do đó chất lượng giờ học còn thấp.
Là một giáo viên môn Hóa học, tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để thí nghiệm
đạt hiệu quả cao trong các giờ học Hóa học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh? Điều đó thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm
trong giờ học lý thuyết môn Hóa học - lớp 8”. Qua đề tài này, tôi muốn chia sẻ với các
bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm của bản thân để phát huy tính tích cực của học sinh,
giúp học sinh có hứng thú với môn Hoá học.
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết:
1.1. Cơ sở:
- Chương trình Hóa học – lớp 8 gồm 70 tiết, trong đó có 7 tiết thực hành. Ngoài
các giờ thực hành, trong các giờ học lý thuyết giáo viên có thể biểu diễn thí nghiệm hoặc
tổ chức cho các nhóm học sinh tiến hành thí nghiệm để phát hiện kiến thức mới đồng thời
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 2


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Tuy nhiên, qua công tác giảng dạy và dự giờ rút kinh nghiệm của một số giáo
viên, tôi nhận thấy hiệu quả từ thí nghiệm mang lại chưa cao, đặc biệt là chưa phát huy
hết sự hứng thú học tập của học sinh; bên cạnh đó, qua trao đổi với đồng nghiệp dạy môn
Hóa học ở trường và các trường khác tôi được họ tỏ ý rất ngại tổ chức cho học sinh làm

thí nghiệm là do những nguyên nhân sau:
1.2. Nguyên nhân:
1.2.1. Nguyên nhân khách quan:
- Trang thiết bị không đảm bảo: Chưa có tủ hút để pha các hóa chất bay hơi, làm các
thí nghiệm có chất bay hơi, độc, không có đủ găng tay,… ảnh hưởng đến sức khỏe của
học sinh và giáo viên.
- Một số hóa chất không đầy đủ hoặc kém chất lượng.
- Hoá chất sau khi thí nghiệm, chưa có nơi xử lí.
- Nhiều trường chưa có cán bộ chuyên trách phụ trách phòng thí nghiệm thực hành,
chủ yếu là do giáo viên bộ môn phụ trách nên thiếu sự phối hợp, đôi khi giáo viên không
đủ thời gian để chuẩn bị dụng cụ, hóa chất cho các thí nghiệm, nhất là các buổi có 2 tiết
dạy khác nhau.
- Hệ thống sách tham khảo phục vụ cho công tác thí nghiệm thực hành còn thiếu, chưa
phong phú.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan:
1.2.2.1 Về phía giáo viên
- Chưa thật sự chú trọng đến các thí nghiệm trong giờ học Hóa học. Không nghiên
cứu kỹ thí nghiệm, không lường trước những tình huống có thế xảy ra trong quá trình làm
thí nghiệm và dự kiến các phương án xử lý.
- Phối hợp phương pháp thí nghiệm và kỹ thuật dạy học chưa tốt nên mất nhiều thời
gian.
- Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà cũng như tiến hành thí nghiệm còn qua loa,
không cụ thể, khoa học.
- Chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện kỹ năng thao tác thí nghiệm của học
sinh.
- Một số giáo viên cường điệu tính độc hại của hóa chất làm cho học sinh sợ hãi,
không tự tin khi làm thí nghiệm.
1.2.2.2 Về phía học sinh:
- Thời gian đầu tư cho môn học còn ít, không chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp.
- Học sinh mới bắt đầu làm quen với thí nghiệm Hoá học nên còn bỡ ngỡ, lúng túng, các

thao tác chưa chính xác, chưa biết cách quan sát hoặc sợ làm thí nghiệm.
- Một số học sinh còn xem nhẹ môn học, lơ là gây mất trật tự trong giờ học.
- Tính tự giác và tích cực chưa được phát huy vì các em chưa hứng thú và yêu thích bộ
môn.
Từ những nguyên nhân trên, tôi xin đưa ra một số thực trạng dạy học Hóa học ở
trường tôi như sau:
1.3. Thực trạng:
1.3.1. Đối với giáo viên:
- Khó khăn trước hết mà giáo viên gặp phải là các giờ học có thí nghiệm thường
làm mất nhiều thời gian của thầy và trò, việc "cháy giáo án" thường xảy ra trên lớp học.
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 3


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Nguyên nhân:
+ Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà của Giáo viên chưa cụ thể, học sinh không
hình dung được là phải chuẩn bị cái gì? Mục đích của các thí nghiệm trong bài này là gì?
Cách tiến hành ra sao? Dự đoán hiện tượng sau khi thí nghiệm?...
+ Giáo viên ít chú ý đến việc quy định thời gian cho mỗi thí nghiệm.
Vì vậy, khi lên lớp giáo viên mất quá nhiều thời gian hướng dẫn học sinh, rèn
luyện kỹ năng làm thí nghiệm cho các nhóm, … đến khi làm xong các thí nghiệm thì thời
gian cho tiết học cũng sắp kết thúc, giáo viên có quá ít thời gian để củng cố, khắc sâu
kiến thức cho học sinh. Dẫn đến chất lượng giờ học không cao, học sinh ghi nhớ kiến
thức còn mơ hồ.
*Ví dụ 1: Khi dạy phần II: Hiện tượng Hóa học (Bài 12: Sự biến đổi chất –
Hoá 8).
+ Sau khi dạy xong bài trước, giáo viên thường chỉ dặn: “các em về nhà đọc

trước bài 12 để hôm sau chúng ta học” theo tôi, cách dặn dò như thế này quá chung
chung, không cụ thể, học sinh chỉ đọc trước bài mà không hình dung được là phải chuẩn
bị cụ thể như thế nào? Trong bài học này cần thực hiện những thí nghiệm nào? Mục đích
của thí nghiệm là gì? Cách tiến hành ra sao? …
+ Khi đến lớp, trước khi tiến hành thí nghiệm, chính vì học sinh không chuẩn bị từ
trước nên giáo viên phải mất nhiều thời gian để học sinh tìm hiểu thí nghiệm, giới thiệu
dụng cụ, hóa chất, hướng dẫn cách tiến hành… Dẫn đến thí nghiệm mất nhiều thời gian
và tất nhiên thời gian dành cho các hoạt động khác như củng cố, khắc sâu kiến thức, liên
hệ thực tế, mở rộng, dặn dò học sinh chuẩn bị cho tiết học tiếp theo,… sẽ rất ít. Học sinh
nắm bắt kiến thức không chắc, độ bền không cao, chất lượng giờ học thấp.
- Công tác chuẩn bị đồ dùng , thí nghiệm cho tiết dạy chưa chu đáo.đôi khi còn
thiếu dụng cụ, hóa chất cần thiết cho thí nghiệm dẫn đến bị động, tiết trình bài dạy
không đúng theo kế hoạch soạn giảng.
- Kỹ năng và kỹ thuật thao tác thí nghiệm còn hạn chế, ít khoa học, nhiều thí
nghiệm có độ chính xác không cao nên phản tác dụng.
* Ví dụ 2: Khi làm thí nghiệm Fe tác dụng với S:
+ Hiện tượng: Những hiện tượng thường gặp là S chảy ra, Fe không cháy, đốt 2 – 3 phút
kết quả vẫn y như vậy, đôi khi gây vỡ ống nghiệm.
+ Nguyên nhân: Do bột Fe không mịn, hoặc do tỷ lệ khối lượng Fe và S trong hỗn hợp
trộn không đúng. Đun nóng ống nghiệm chưa đúng quy trình.
* Ví dụ 3: Khi làm thí nghiệm O2 tác dụng với Fe: ( Bài: Tính chất của oxi –
Hoá 8)
+ Hiện tượng: hiện tượng thường gặp là que diêm hay mẩu than mồi bị rơi xuống bình
O2, Fe không cháy. Bình thủy tinh bị vỡ khi đang làm thí nghiệm.
+ Nguyên nhân:
♦ Do buộc không chặt que diêm hay mẩu than hoặc để than cháy quá lâu nên thể tích
than nhỏ lại và rơi xuống khi Fe chưa kịp cháy.

GV: Trần Thị Kim Hồng


Trang 4


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

♦ Hoặc do miệng bình oxi nhỏ, dây Fe và que diêm mồi quá dài vì thế dây Fe bị rung,
thao tác chậm làm mất nhiệt hoặc que diêm quá dài cháy lâu làm mất một lượng lớn oxi
nên không đủ oxi cho Fe phản ứng.
♦ Không cho nước hoặc ít cát vào bình oxi.
♦ Dây Fe bị gỉ hoặc bị bẩn.
♦ Dây Fe quá to.
♦ Mẩu than chưa nung nóng đỏ (nếu mồi là than)
Vậy để thực hiện thành công một số thí nghiệm nêu trên cần có những biện pháp nào?
( Sẽ được trình bày ở phần giải pháp)
* Ví dụ 4: Khi làm thí nghiệm xác định thành phần của không khí ( Bài:
Không khí – sự cháy)
Một số khó khăn gặp phải như khi giáo viên muốn tiến hành thí nghiệm theo nhóm
học sinh, khi đốt phôtpho đỏ nếu khói P2O5 bay ra nhiều dễ gây ô nhiễm, học sinh có thể
bị ho, sặc. Khói P2O5 có màu trắng gây mờ ống thủy tinh làm cho học sinh khó quan sát
mực nước dâng lên đúng vạch. Bên cạnh đó, giáo viên tổ chức thí nghiệm theo nhóm ở
tất cả các lớp sẽ tốn một lượng phôt pho không nhỏ. Vậy phải làm thế nào để thí nghiệm
dễ thực hiện, tiết kiệm, không gây ô nhiễm mà vẫn chính xác và mang lại hiệu quả cao?
(xin mời xem phần giải pháp)
- Đôi khi làm thí nghiệm còn sai nguyên tắc:
+ Dùng tay trực tiếp cầm ống nghiệm (không đeo găng tay, không dùng kẹp)
+ Cách sắp xếp dụng cụ, hóa chất ( trong khay để trên bàn giáo viên) còn lộn xộn,
thiếu khoa học.
+ Lấy hóa chất xong quên không đậy nắp.
+ Lấy quá ít hoặc quá nhiều hóa chất.
+ Dùng một đũa thủy tinh, ống hút để khuấy, hút nhiều loại hóa chất.

+ Pha hóa chất trước giờ dạy mà không đậy nắp, không ghi nhãn vào lọ.
- Giáo viên thường chỉ quan tâm đến kết quả thí nghiệm mà ít chú trọng đến việc
rèn luyện kỹ năng làm thí nghiệm của học sinh.
* Ví dụ 5: Khi làm thí nghiệm đun nóng đường, hay thí nghiệm đun nóng hỗn
hợp S và Fe: Giáo viên ít chú trọng đến việc rèn kỹ năng đun nóng ống nghiệm của học
sinh nên khi tiến hành thí nghiệm học sinh thường đun không đúng quy trình dẫn đế vỡ
ống nghiệm, hay thường quay miệng ống nghiệm vào mặt học sinh khác gây nguy hiểm,
không đảm bảo an toàn.Tính giáo dục không cao.
-.Giáo viên rất vất vả với việc bưng bê các khay dụng cụ và hóa chất thí nghiệm
từ lớp này sang lớp khác, hơn nữa đây là những dụng cụ dễ vỡ.
* Ví dụ 6: Khi dạy bài 31: Tính chất - ứng dụng của hiđro: Chính vì phần dặn
dò ở tiết học trước sơ sài nên đến tiết này giáo viên phải tự mang tất cả dụng cụ hóa chất
đến lớp. Mỗi lớp, giáo viên cần chuẩn bị đủ 7 bộ dụng cụ, hóa chất phục vụ cho 2 thí
nghiệm trong bài dạy (một bộ dùng cho GV, 6 bộ dùng cho 6 nhóm học sinh). Mỗi bộ
gồm các dụng cụ, hóa chất sau:
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 5


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

+ Dụng cụ: ống nghiệm, ống thủy tinh chữ Z, ống thủy tinh vuốt nhọn, đèn cồn, giá
thí nghiệm, nút cao su có lỗ, kẹp gỗ, kẹp, thìa thủy tinh..
+ Hóa chất: Zn viên, HCl, CuO
Vì trong tiết dạy lý thuyết, giáo viên không thể bố trí thời gian cho học sinh rửa
các dụng cụ sau khi làm thí nghiệm nên khi sang các lớp khác, giáo viên lại phải chuẩn bị
ống nghiệm mới, phải mang 7 khay dụng cụ hóa chất đến lớp tiếp theo trong khi đó thời
gian giải lao giữa các tiết chỉ có 5 phút. Quả là rất vất vả cho giáo viên, hơn nữa làm mất
thời gian của tiết học kế tiếp, dẫn đến hiệu quả giảng dạy không cao.

Cuối buổi dạy, giáo viên lại vất vả với việc mang các khay này xuống phòng thí
nghiệm, rửa và thu dọn dung cụ hóa chất. Như vậy, qua một buổi dạy có thí nghiệm, giáo
viên quá vất vả, quá mệt, do đó giáo viên khó lòng tiến hành thí nghiệm một cách thường
xuyên trong các tiết dạy. Vậy làm thế nào để giáo viên đỡ vất vả hơn mà thí nghiệm lại
đạt hiệu quả cao? Đó là điều mà tôi đã từng trăn trở và đã có giải pháp khắc phục (xem
chi tiết ở phần giải pháp)
- Lựa chọn phương pháp thí nghiệm chưa phù hợp, phối hợp thí nghiệm với các
kỹ thuật và phương pháp dạy học khác chưa tốt, chỉ chú ý vào việc thí nghiệm mà không
đặt câu hỏi khai thác phù hợp với nội dung đang làm.
* Ví dụ 7:Khi dạy phần II.2 Tính chất hóa học của nước( Bài 36: Nước)
Giáo viên thường hướng dẫn và cho từng nhóm học sinh tiến hành từng thí
nghiệm, sau đó nhận xét, kết luận từng tính chất của nước. Học sinh lớp 8, kỹ năng làm
thí nghiệm còn chậm mà lại tiến hành đến 3 thí nghiệm nên mất nhiều thời gian, giáo
viên không thể khắc sâu kiến thức cũng như liên hệ thực tế,… do đó bài học kém sinh
động, không phát huy được sự hứng thú học tập của học sinh.
* Ví dụ 8: Khi tiến hành thí nghiệm sắt tác dụng với oxi hay thí nghiệm sắt
tác dụng với lưu huỳnh và một số thí nghiệm khác:
Giáo viên thường chỉ chú trọng vào hiện tượng quan sát được, kết quả thí nghiệm
mà ít đưa ra các câu hỏi, các tình huống như nếu để dây sắt nguội vào bình chứa khí oxi,
trộn bột lưu huỳnh và bột sắt với nhau mà không đốt thì phản ứng có xảy ra không? Nên
khi viết phương trình hóa học học sinh thường không ghi điều kiện nhiệt độ dẫn đến sai
bản chất.
- Dụng cụ học sinh làm thí nghiệm rửa không sạch ảnh hưởng đến kết quả của thí
nghiệm sau.
1.3.2. Đối với học sinh:
- Tò mò, hay làm các thí nghiệm không theo hướng dẫn của giáo viên gây nguy
hiểm , làm phân tán tư tưởng của học sinh.
* Ví dụ : Khi dạy Bài 33: Điều chế khí hiđro – phản ứng thế
Khi tiến hành thí nghiệm 1. điều chế hiđro trong phòng thí nghiệm, học sinh
thường tùy tiện đốt khí hiđro mà không thử độ tinh khiết, hậu quả là gây nổ , rất nguy

hiểm và còn làm phân tán tư tưởng của học sinh, tạo áp lực, khiến học sinh hoảng sợ khi
tiến hành các thí nghiệm.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 6


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Đùa giỡn, gây mất trật tự trong giờ học nhất là khi tiến hành thí nghiệm, thường
chỉ có một vài em khá giỏi trong nhóm tiến hành thí nghiệm, còn đối tượng HS trung
bình yếu ít quan tâm đến thí nghiệm.
- Đa số học sinh không tìm hiểu thí nghiệm từ trước nên khi làm thí nghiệm mất
nhiều thời gian nghiên cứu.
Trên đây là một số thực trạng còn tồn tại khi dạy các bài học lý thuyết môn Hóa
học -lớp 8 cùng với một số nguyên nhân và ví dụ cụ thể mà cá nhân tôi đã nhận thấy.
* Kết quả thống kê chất lượng môn Hoá học – lớp 8 trước khi thực hiện đề tài:

Năm học
2008 – 2009

Sĩ số

165

Thời
điểm
Cả
năm


Giỏi

Trung
bình

Khá

Yếu, kém

Trung bình
trở lên

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

26

15,8

43

26,1

75

45,5

21

12,7

144

87,3

2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Sau một thời gian nghiên cứu, khảo nghiệm về việc sử dụng thí nghiệm trong giờ
học lý thuyết môn Hóa học, thầy trò chúng tôi đã tìm ra nhiều giải pháp để khắc phục
những vướng mắc trong quá trình dạy học có thí nghiệm và đã gặt hái được nhiều kết quả
đáng mừng. Cụ thể là tất cả các thí nghiệm trong chương trình đều được chúng tôi tổ
chức tiến hành thành công, nhiều thí nghiệm được cải tiến theo hướng đơn giản, dễ làm,
tiết kiệm nhưng vẫn đáp ứng được mục đích của thí nghiệm. Mặc khác, thí nghiệm được

cải tiến có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp học sinh phát hiện và khắc sâu kiến thức, là
một yếu tố quan trọng giúp học sinh nắm bắt kiến thức nhanh chóng, sâu sắc và nhất là
ngày càng có nhiều học sinh say mê hứng thú với môn học. Từ đó chất lượng học sinh
ngày càng được nâng cao, tỷ lệ học sinh đạt học sinh giỏi các cấp ngày càng nhiều.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Những thí nghiệm có thể sử dụng để phát hiện kiến thức mới cũng như củng cố kiến
thức cũ trong các bài học lý thuyết chương trình Hóa học lớp 8.
- Phát hiện những vướng mắc gặp phải và đề ra giải pháp khắc phục có tính khả thi cao
để vận dụng vào công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn học.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH:
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu tìm giải pháp
của đề tài:
Như đã nói ở trên, việc tổ chức học sinh làm thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn
Hóa học đóng vai trò hết sức quan trọng. Thí nghiệm thành công sẽ giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức một cách sâu sắc, đầy đủ và toàn diện nhất mà giáo viên không thể dùng bất cứ
ngôn ngữ nào có thể thay thế được. Không những thế, sau mỗi thí nghiệm thành công sẽ
tiếp thêm cho các em một tình yêu khoa học, tin tưởng vào bản thân, say mê, hứng thú
với môn học. Theo tôi, đây là vấn đề mà ngành giáo dục chúng ta cần để tâm đến. Bởi chỉ
có sự say mê, yêu thích và tâm huyết với môn học thì mới khơi dậy được năng lực tìm ẩn
trong mỗi học sinh. Và chỉ có thế mới đạt chất lượng cao nhất.
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học có thí nghiệm, bản thân tôi và một số đồng
nghiệp gặp phải không ít những khó khăn, vướng mắc lúc thì thí nghiệm không thành
công, khi thì “cháy giáo án”… loay hoay mãi bên thí nghiệm nên thời gian giành cho các
phần khác bị hạn chế dẫn đến chất lượng giờ học không cao. Nhưng làm thế nào để thí
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 7


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8


nghiệm đạt hiệu quả cao nhất? Đây là một câu hỏi khó đặt ra cho mỗi giáo viên giảng dạy
môn Hóa học và bản thân tôi cũng không ngoại lệ. Vì vậy tôi đã tiến hành tìm hiểu,
nghiên cứu kỹ các thí nghiệm nhất là mục đích và bản chất của thí nghiệm, phân tích
nguyên nhân không thành công, từ đó tìm nhiều giải pháp khác nhau để khắc phục. Sau
đó tiến hành thí nghiệm theo các giải pháp mới để tìm ra giải pháp tối ưu nhất.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:
2.1. Các biện pháp tiến hành:
- Điều tra, thống kê
- Phân tích, tổng hợp.
- Nghiên cứu, khảo nghiệm
2.2. Thời gian tạo ra giải pháp:
Từ năm học 2008 – 2009 đến nay.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 8


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu:
- Mô tả thực trạng công tác tổ chức, sử dụng thí nghiệm trong giờ học lý thuyết của
môn Hóa học - lớp 8 ở trường THCS Mỹ Lộc.
- Đề xuất phương pháp khả thi để giúp giáo viên và học sinh tháo gỡ những vướng mắc
nêu trên.
- Phát huy những kĩ năng nghiên cứu thí nghiệm, làm thí nghiệm, quan sát, mô tả, giải
thích hiện tượng rút ra kết luận (tính chất của chất, một kết luận về khả năng phản ứng…)
của học sinh.

- Khái quát các kết luận và đề xuất để công tác thí nghiệm thực hành bộ môn đạt hiệu
quả cao.
II. Mô tả giải pháp của đề tài:
1.Cơ sở lí luận:
* Thí nghiệm trong dạy học Hoá học được sử dụng theo những cách khác nhau để
đạt được mục đích nhất định:
- Thí nghiệm do nhóm học sinh thực hiện.
- Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên theo hướng nghiên cứu.
- Thí nghiệm kiểm chứng nhằm kiểm tra những dự đoán, những suy đoán lý
thuyết.
- Thí nghiệm đối chứng nhằm giúp cho việc rút ra các kết luận một cách đầy
đủ chính xác hơn về qui tắc, tính chất của chất.
- Thí nghiệm nêu vấn đề.
- Thí nghiệm nhằm giải quyết vấn đề…
Tuy nhiên dù thí nghiệm được dạy theo cách nào đi nữa thì cũng phải tuân thủ
theo những nguyên tắc chung sau:
1) Giới thiệu thí nghiệm, mục đích.
2) Giới thiệu dụng cụ, hóa chất, hướng dẫn học sinh quan sát theo kế hoạch
thí nghiệm.
3) Nêu dự đoán hiện tượng.
4) Quan sát, kết luận tính có vấn đề hoặc tính chất.
Sử dụng thí nghiệm hoá học trong dạy học hoá học được coi là tích cực khi thí
nghiệm Hoá học được dùng làm nguồn kiến thức để học sinh khai thác, tìm tòi kiến thức
hoặc dùng để kiểm chứng, kiểm tra những dự đoán, suy luận lý thuyết, hình thành khái
niệm. Các thí nghiệm trong giờ học chủ yếu do học sinh thực hiện nhằm nghiên cứu kiến
thức, kiểm tra dự đoán. Các thí nghiệm phức tạp do giáo viên thực hiện và cũng được
thực hiện theo hướng nghiên cứu. Các dạng thí nghiệm nhằm mục đích minh hoạ, chứng
minh cho lời giảng được hạn chế dần và được đánh giá là ít tích cực. Thí nghiệm hoá học
được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu do giáo viên thực hiện hoặc do học sinh
hay nhóm học sinh thực hiện được đánh giá là có mức độ tích cực cao

Việc sử dụng có hiệu quả thí nghiệm cần chú ý đến nội dung, vị trí bài dạy trong
chương trình, tính phức tạp của dụng cụ và độc hại của hoá chất, kĩ năng thí nghiệm đã
có của học sinh. Với các thí nghiêm độc hại, dễ gây cháy nổ thì cần được thực hiện bởi
giáo viên. Các thí nghiệm của giáo viên cần tăng cường theo phương pháp nghiên cứu
hạn chế việc sử dụng thí nghiệm theo phương pháp minh hoạ nhằm phát huy tính tích cực
nhận thức của, rèn luyện tính tự học và tư duy của học sinh. Với các thí nghiệm đơn giản,
sử dụng hoá chất ít độc hại, khó gây nguy hiểm cho học sinh ta có thể cho học sinh thực
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 9


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tóm lại thí nghiệm hóa học thường được tổ chức
theo 2 hình thức cơ bản: thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm của học sinh.
2. Thuyết minh tính mới:
2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà:
Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh có vai trò quyết định tiến độ cũng như hiệu
quả của thí nghiệm. Do đó giáo viên không nên xem nhẹ khâu dặn dò học sinh chuẩn bị
cho tiết học tiếp theo.
Trước khi kết thúc tiết học trước giáo viên cần hướng dẫn cụ thể các công việc cần
làm để chuẩn bị cho bài mới như cần xem lại đơn vị kiến thức nào? Cần tìm hiểu những
vấn đề gì trong bài mới? Đặc biệt nếu tiết học hôm sau là bài học có thí nghiệm thì giáo
viên phải hướng dẫn chi tiết cách tìm hiểu thí nghiệm như mục đích thí nghiệm là gì?
Cần sử dụng những dụng cụ, hóa chất nào? Cách tiến hành ra sao? Dự đoán kết quả thí
nghiệm…
*Ví dụ: Khi học phần II. Tính chất hóa học (Bài 31: Tính chất - ứng dụng của
hiđro)
Nếu học sinh đã tìm hiểu trước bài đúng theo hướng dẫn của giáo viên thì khi đến

lớp, giáo viên chỉ cần giới thiệu sơ qua là học sinh đã nắm được mục đích cũng như cách
tiến hành thí nghiệm, cách lắp đặt các dụng cụ thí nghiệm… góp phần rất lớn vào việc
tiết kiệm thời gian cho thí nghiệm mà lại đạt hiệu quả cao, tránh được những sự cố có thể
xảy ra như nổ , vỡ ống thủy tinh.
2.2. Các bước cần thiết khi tiến hành thí nghiệm hóa học:
Bước 1: Chuẩn bị
Khâu chuẩn bị có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thí
nghiệm. Để hạn chế sai sót trong khâu chuẩn bị, giáo viên và học sinh cần lưu ý các vấn
đề sau:
♦ Giáo viên:
+ Hóa chất:
Giáo viên nghiên cứu kỹ sách giáo khoa từ trước và xác định trong bài này có mấy
thí nghiệm, cần dùng những hóa chất nào? (giáo viên ghi trước ra tờ giấy nhỏ). Mang
giấy đó vào phòng thiết bị để lấy đủ và đúng hóa chất (tránh tình trạng lấy thiếu hoặc
nhầm).
Cần có sự linh động trong việc sử dụng hóa chất. Những hóa chất có tính chất
tương tự nhau, có vai trò như nhau trong thí nghiệm thì có thể thay thế cho nhau.
Ví dụ: Trong thí nghiệm điều chế khí H 2: cần dùng Zn và dung dịch HCl, nếu
phòng thí nghiệm không có HCl thì có thể thay bằng dung dịch H2SO4 loãng.
+ Hóa cụ:
Giáo viên phải xác định trước bài này có mấy thí nghiệm, lên kế hoạch soạn giảng
cho tiết học đó, chọn hình thức tổ chức thí nghiệm: Giáo viên biểu diễn hay học sinh tiến
hành thí nghiệm theo nhóm? Trên cơ sở đó, tính toán cần dùng những loại dụng cụ nào?
Số lượng mỗi loại là bao nhiêu? (giáo viên ghi ra tờ giấy nhỏ rồi vào phòng thí nghiệm
lấy đủ và đúng theo yêu cầu)
Ngoài ra còn cần chuẩn bị găng tay, áo blu, giấy thấm, khăn lau tay, chậu nước rửa
tay khi làm thí nghiệm.
* Điều cần lưu ý nhất trong khâu chuẩn bị là:
- Phải có 2 khay: Một khay đựng dụng cụ và hóa chất chưa làm, một khay đựng
dụng cụ và hóa chất đã làm.


GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 10


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Đánh dấu (ghi số hoặc dán giấy khác màu) vào ống nghiệm, ống hút, muỗng lấy
hóa chất, đũa khuấy, phễu rót…( tránh nhầm lẫn khi dùng đũa khuấy dung dịch 1 khuấy
vào dung dịch 2).
- Khi làm thí nghiệm nên mặc áo blu để tránh tình trạng hóa chất dính vào quần áo,
ngoài ra còn tạo hình ảnh đẹp trong mắt học sinh, gây hứng thú và giáo dục lý tưởng
sống, tạo tình yêu khoa học cho học sinh.
- Sau khi làm thí nghiệm phải có thau nước sạch rửa tay, khăn lau tay để đảm bảo vệ
sinh, sức khỏe cho giáo viên và học sinh.
- Chuẩn bị sẵn giấy thấm (phòng khi dung dịch bị đổ thì thấm cho nhanh)
♦ Học sinh:
Tìm hiểu kỹ thí nghiệm theo hướng dẫn của giáo viên ở tiết học trước như: xác
định mục đích thí nghiệm, tìm hiểu cách tiến hành, các dụng cụ, hóa chất cần sử dụng, dự
đoán kết quả thí nghiệm…
Bước 2: Tiến hành thí nghiệm
♦ Trước khi tiến hành thí nghiệm, GV cần quán triệt tinh thần và thái độ làm việc
của các nhóm, nếu được, có thể kết hợp với việc áp dụng kỹ thuật khăn trải bàn để hoàn
thành các yêu cầu thông qua thí nghiệm để hạn chế học sinh ỷ lại, không tập trung khi
làm thí nghiệm.
♦ Sử dụng dụng cụ: phải nhanh nhẹn, gọn gàng, chính xác bảo đảm tính khoa học và
thẩm mỹ.
♦ Sử dụng hóa chất: cần lưu ý:
- Người làm thí nghiệm phải mang đủ 2 găng tay.

- Lấy hóa chất vừa đủ cho thí nghiệm.
Ví dụ: thí nghiệm đốt cháy S , P đỏ chỉ cần lấy một lượng S, P đỏ bằng hạt đậu
xanh.
- Tuyệt đối không dùng một muỗng lấy nhiều loại hóa chất.
- Hóa chất lấy xong phải đậy nắp ngay (có tình trạng giáo viên quên không đậy nắp
lọ Na2CO3, sau buổi học, lớp trên mặt lọ bị chảy nhão dẫn đến hỏng hóa chất).
♦ Trong quá trình làm thí nghiệm, giáo viên cần kết hợp với hệ thống câu hỏi rõ
ràng, cụ thể phù hợp với từng giai đoạn của thí nghiệm để học sinh vừa quan sát vừa
nhận biết, so sánh và rút ra được nội dung của thí nghiệm. Nếu giáo viên có hệ thống câu
hỏi phù hợp trong lúc làm thí nghiệm sẽ khai thác được nội dung cần làm. Học sinh sẽ
hiểu rõ hơn bản chất của thí nghiệm, ghi được chính xác phương trình hóa học và xác
định được trạng thái, màu sắc của chất tham gia và sản phẩm (khắc sâu những tính chất
này sẽ giúp học sinh rất nhiều khi làm bài tập định tính).
Bước 3: Sau khi làm thí nghiệm.
Đây là công việc hoàn thành sau cùng của thí nghiệm. Nếu ta không chú ý có thể
gây tai nạn cho giáo viên và học sinh khi dọn dẹp và rửa dụng cụ; hoặc gây ô nhiễm môi
trường dẫn đến phản giáo dục… vì vậy cần chú ý những điểm sau:
- Nếu học sinh làm thí nghiệm theo nhóm thì sau khi thí nghiệm hoàn thành giáo
viên phải quán triệt cho tất cả học sinh ngồi yên, yêu cầu nhóm trưởng (có mang găng
tay) thu dọn gọn vào khay đem lên bàn giáo viên. Nếu không học sinh sẽ lộn xộn sẽ va
chạm nhau làm đổ hóa chất, bể dụng cụ, gây nguy hiểm và ô nhiễm lớp học.
- Giáo viên đổ dồn sản phẩm của thí nghiệm vào một cốc lớn để sau tiết học đổ vào
bồn rửa, cống thoát nước rồi xả nước nhiều cho sạch.
- Giáo viên thu gom các lọ hóa chất, vặn lại các nút cho chặt.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 11



Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Vì thời lượng của tiết học có hạn nên không có thời gian để rửa dụng cụ, vì vậy
cho nên giáo viên nên cử mỗi lớp 2 em (có tính cẩn thận) cuối buổi học ở lại rửa dụng cụ
thí nghiệm của lớp mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
 Những yêu cầu chung khi tiến hành bài dạy có thí nghiệm:
Đảm bảo an toàn thí nghiệm: Luôn giữ hoá chất tinh khiết, dụng cụ thí nghiệm
sạch và khô, làm đúng kỹ thuật, luôn bình tĩnh khi làm thí nghiệm. Nếu có sự cố không
may xảy ra phải bình tĩnh tìm ra nguyên nhân, giải quyết kịp thời. Không nên quá cường
điệu hoá những nguy hiểm của thí nghiệm cũng như tính độc hại của hoá chất làm học
sinh quá sợ hãi.
Đảm bảo thành công: Sự thành công của thí nghiệm tác động mạnh mẽ đến lòng
tin của học sinh vào khoa học.
Số lượng thí nghiệm trong một bài vừa phải, lựa chọn thí nghiệm dễ thực hiện:
tiết kiệm thời gian trên lớp. Giáo viên cần cải tiến các thí nghiệm hoá học theo hướng dễ
thực hiện nhưng vẫn thành công và đảm bảo tính trực quan, khoa học.
Kết hợp chặt chẽ thí nghiệm với lời giảng của giáo viên: Lúc này lời giảng của
giáo viên không phải là nguồn thông tin mà là sự hướng dẫn quan sát, chỉ đạo sự suy nghĩ
của học sinh để đi tới kết luận đúng đắn, hợp lí, để qua đó các em lĩnh hội được kiến thức
mới.
Tạo mọi điều kiện để học sinh được trực tiếp thực hành và tất cả học sinh đều
được làm thí nghiệm, biết cách quan sát thí nghiệm, trực tiếp làm việc với dụng cụ thí
nghiệm, hóa chất, ở cả trong lớp học, trong phòng thí nghiệm hoặc ngoài tự nhiên. Học
sinh được đặt câu hỏi, nêu ý kiến thắc mắc, và có thể tự giải đáp thắc mắc từ nghiên cứu
thí nghiệm hoặc được giải đáp qua sự giúp đỡ của giáo viên.Từ đó học sinh có thể vận
dụng linh họat những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức những kiến thức mới và có
thể áp dụng kiến thức hóa học vào thực tế đời sống.
Nghiên cứu phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong giờ dạy. Kết
hợp logic giữa biểu diễn thí nghiệm, hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm, quan sát thí
nghiệm, thảo luận nhóm… từ đó giúp học sinh biết nêu và giải quyết vấn đề tìm ra kiến

thức mới, củng cố kiến thức cũ…sao cho phù hợp với từng loại bài, từng loại thí
nghiệm…và phù hợp với từng đặc điểm nhận thức của học sinh.
Phải xác định vị trí của từng loại thí nghiệm: Mỗi thí nghiệm có một vị trí khác
nhau trong dạy và học hóa học. Giáo viên cần xác định rõ vị trí của từng loại thí nghiệm
để áp dụng phù hợp vào các bài cụ thể.
2.3. Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên:
Thí nghiệm biểu diễn dùng làm cơ sở để cụ thể hóa những khái niệm về chất và
phản ứng hóa học. Trong quá trình biểu diễn thí nghiệm, giáo viên là người thực hiện sự
biến đổi các chất, điều khiển các quá trình biểu diễn thí nghiệm, học sinh theo dõi quan
sát và nhận xét về quá trình đó. Vai trò của các thí nghiệm trong giờ Hóa học có thể
không giống nhau, chúng có thể dùng để minh họa các kiến thức do giáo viên trình bày
hoặc khi nghiên cứu kiến thức mới hoặc có thể là nguồn kiến thức mà học sinh tiếp thu
dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình quan sát thí nghiệm. Vì vậy các thí
nghiệm biểu diễn có thể được tiến hành bằng một trong hai phương pháp:
- Phương pháp minh họa: Trước hết giáo viên trình bày những kiến thức mới, những
cách giải quyết đã trình bày sẵn, sau đó mới tiến hành thí nghiệm để minh họa và xác
nhận những điều vừa được trình bày.
- Phương pháp nghiên cứu: Giáo viên đặt vấn đề, tiến hành thí nghiệm để kích thích
học sinh tìm ra tri thức mới.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 12


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Phương pháp thứ 2 có giá trị lớn hơn vì có tác dụng kích thích học sinh làm việc tích cực
hơn và đặc biệt tạo điều kiện phát triển khả năng làm việc độc lập của học sinh trong giờ
học Hóa học.

Vì vậy khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn theo hướng nghiên cứu, giáo viên cần
chú ý những yêu cầu sau đây:
+ Đảm bảo an toàn thí nghiệm: là yêu cầu thiết yếu, trước hết đối với mỗi loại thí
nghiệm giáo viên cần nắm vững kĩ thuật và phương pháp tiến hành cụ thể.
Ví dụ:
 Khi thu và đốt khí H2 trong không khí hoặc trong oxi cần phải tránh tạo hỗn hợp
nổ. Muốn vậy, khi thu khí giáo viên cần để cho khí H2 đẩy hết không khí ra khỏi ống
nghiệm rồi mới tiến hành đốt khí.
 Trong bất cứ trường hợp nào, trước khi đốt H 2 đều phải thứ độ tinh khiết của nó.
Có thể thực hiện bằng hai cách:
 Dùng ngón tay cái bịt kín miệng ống chứa đầy khí H 2 và đưa đến gần ngọn lứa
đèn cồn. Khi mở ngón tay ra, khí H 2 có lẫn oxi của không khí có sẵn trong dụng cụ điều
chế khí sẽ gây tiếng nổ khá lớn. Tiếp tục thu khí H 2 vào ống nghiệm lần thứ hai và cũng
tiến hành tương tự như trên, khí H 2 cháy có tiếng nổ nhỏ hoặc không nổ là đã gần tinh
khiết và có thể sử dụng làm các thí nghiệm tiếp theo.
 Chỉ thu khí H2 sau khi kẽm đã phản ứng với dung dịch axit chừng 1 phút (nhận
biết bằng cách quan sát các bọt khí thoát ra) để có khí H2 tinh khiết hơn.
 Không dùng quá liều lượng hóa chất dễ cháy và dễ nổ. Ví dụ: thí nghiệm Na tác
dụng với H2O, không dùng quá nhiều Na, dễ gây cháy, nổ.
 Các thí nghiệm tạo thành chất bay hơi. Ví dụ: Thí nghiệm đốt lưu huỳnh trong lọ
chứa oxi tạo thành khí SO2 (hoặc đốt photpho đỏ tạo P2O5)
Khí bay ra rất độc nên lưu ý làm thí nghiệm ở vị trí không cho khí độc bay về phía học
sinh và chỉ nên lấy lượng lưu huỳnh ( hoặc photpho đỏ) bằng chừng hạt ngô.
+ Đảm bảo kết quả và tính khoa học của thí nghiệm: Thí nghiệm hóa học như “ con
dao hai lưỡi ”.
Kết quả tốt đẹp của các thí nghiệm có liên quan chặt chẽ đến chất lượng dạy học
và củng cố lòng tin của học sinh vào khoa học đồng thời sự biểu diễn thí nghiệm khéo léo
của giáo viên còn là thao tác mẫu mực cho học sinh noi theo. Vì vậy, để đảm bảo kết quả
thí nghiệm thành công thì trước hết giáo viên phải nắm vững kĩ thuật kĩ năng tiến hành
thí nghiệm, phải chuẩn bị chu đáo và đồng bộ thiết bị về dụng cụ - hóa chất thí nghiệm,

nhất thiết là phải thử nhiều lần trước khi biểu diễn trên lớp. Nếu chẳng may thí nghiệm
biểu diễn không thành công, giáo viên phải hết sức bình tĩnh tìm ra nguyên nhân để giải
thích cho học sinh.
Ví dụ:
 Thí nghiệm khí H2 tác dụng với đồng (II) oxit thường rất khó đạt được kết quả
như mong đợi khi tiến hành trên lớp. Do đó, giáo viên cần lưu ý :
 Bột CuO phải được làm khô.
 Ống thủy tinh hình trụ chứa hóa chất phải được đặt ở điểm nóng nhất của ngọn
lửa đèn cồn (chừng 1/5 chiều cao ngọn lửa tính từ trên xuống).
 Nếu CuO để lâu bị ẩm và vón thành cục, cần đưa vào cối sứ nghiền nhỏ trước
khi sấy.
 Có thể tiến hành thí nghiệm trong cùng một ống nghiệm để vừa điều chế H 2, vừa
thực hiện phản ứng khí H2 sinh ra khử đồng (II) oxit.
Ngoài ra để thí nghiệm khí H 2 sinh ra khử đồng (II) oxit đảm bảo thành công và
nhanh nếu nắm vững kĩ thuật tiến hành: lượng hiđro phải đủ, nút phải kín và phải đun đủ
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 13


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

nóng. Muốn có đủ lượng khí H 2, phải dùng 5-6 viên kẽm và khoảng 10ml dung dịch
HCl . Nếu dòng khí H2 đi ra yếu thì cần kiểm tra xem lại độ kín của nút cao su hoặc độ
đặc của axit, hoặc lượng kẽm quá ít. Nếu axit quá loãng thì cần cho thêm một ít dung
dịch axit đặc. Nếu ngọn lửa đèn cồn yếu thì phải kéo cao bấc lên và có thể bổ sung cồn
(thậm chí phải bỏ cồn cũ đã bị bay hơi ra hết cồn) làm cho ngọn lửa đèn cồn đủ lớn. Đun
tập trung ngọn lưa đèn cồn vào phần ống thủy tinh có chứa bột đồng (II) oxit.

+ Đảm bảo trực quan: Trực quan là một trong những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm

biểu diễn. Cho nên khi chuẩn bị thí nghiệm, giáo viên cần suy nghĩ đến kích thước các
dụng cụ thí nghiệm và sử dụng hóa chất thích hợp. Các dụng cụ thí nghiệm cần có kích
thước và màu sắc hài hòa. Bàn để biểu diễn thí nghiệm phải có độ cao cần thiết và bố trí
các dụng cụ thí nghiệm sao cho mọi học sinh trong lớp đều nhìn rõ.
Trong thời gian tiến hành thí nghiệm cần hướng sự chú ý của học sinh vào việc
quan sát các hiện tượng xảy ra bằng cách đặt câu hỏi để học sinh phải theo dõi quan sát
thí nghiệm để trả lời. Điều này cần thiết đặc biệt ở học sinh lớp 8 do khả năng quan sát
của học sinh còn hạn chế nên lưu ý học sinh quan sát việc thực hiện các thao tác thí
nghiệm: như cách lấy hóa chất rắn và lỏng, cách đun, cách sử dụng đèn cồn, đặc biệt cách
lắp và kiểm tra dụng cụ thí nghiệm…
* Ví dụ : Khi dạy phần “Nước tác dụng với kim loại” (Bài 36: Nước)
Dụng cụ : cốc thuỷ tinh 250ml , phễu thuỷ tinh , ống nghiệm , lọ thuỷ tinh nút nhám đã
thu sẵn khí oxi , muôi sắt , bát sứ
Hoá chất : Quì tím ( Có thể thay quỳ tím bằng dd phenolphthalein), Na , nước .
Chọn kim loại điển hình là Natri
* Một số điểm lưu ý để thí nghiệm thành công an toàn và có tác dụng tích cực cao:
- GV không giới thiệu tính chất hóa học của nước mà chỉ giới thiệu để tìm hiểu
tính chất hóa học của nước ta tiến hành TN thứ 1.
- Khi cho Na phản ứng với nước, đây là một phản ứng toả nhiệt lớn. Nên dễ dẫn
đến nứt cốc thuỷ tinh tại vị trí tiếp xúc của nước, Na và thành cốc. Do đó trong khi tiến
hành thí nghiệm giáo viên cần sử dụng đũa thuỷ tinh để gạt không cho Na tiếp xúc với
thành cốc thuỷ tinh.
- Học sinh sờ vào bên ngoài cốc nước để cho HS biết đây là cốc nước ở điều kiện
nhiệt độ bình thường  nhỏ vài giọt phenolphtalein vào nước  yêu cầu HS quan sát
và nhận xét.
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 14



Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

- Cho 1 mẩu natri nhỏ bằng hạt đậu xanh vào cốc nước, đặt phễu đậy trên miệng
cốc nước  nhận xét.

HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
- GV giới thiệu mục đích TN: nhằm các
định tính chất hóa học của nước.
- * Cách tiến hành : (ở trên )
- Gọi 1 học sinh đọc cách tiến hành thí
nghiệm và cho biết những dụng cụ, và hoá
chất cần sử dụng
- Tiến hành thí nghiệm.
+ Gọi một vài học sinh đại diện lên Sờ vào
bên ngoài cốc nước để cho HS biết đây là
cốc nước ở điều kiện nhiệt độ bình thường
-> nhỏ vài giọt phenolphtalein vào nước
+ Cho 1 mẫu natri nhỏ bằng hạt đậu xanh
vào cốc nước , đặt phễu đậy trên miệng
cốc nước
- Lưu ý: Lượng Na lấy chỉ bằng hạt đậu
xanh.
- Yêu cầu:

HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Hiểu mục đích và xác định nhiệm vụ.
- Đọc cách tiến hành thí nghiệm
- Quan sát.

- HS quan sát và nhận xét:


- Hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi theo - Không có hiện tượng gì.
trình tự TN:
? Nhỏ phenolphtalein vào nước có hiện
tượng gi?
- Na nóng chảy, chuyển động thành giọt
?Hiện tượng khi cho mẫu Na vào nước?
tròn trên mặt nước, có khí thoát ra.
? Dung dịch sau phản ứng có hiện tượng - Chuyển sang màu hồng.
gì?
- Đã có phản ứng hóa học xảy ra: Na tác
? Hiện tượng trên nói lên điều gì?
- Giới thiệu: Khí thoát ra cháy với ngọn dụng với nước.
lửa mà xanh nhạt là khí hiđro và dung dịch
có phenolphtalein chuyển sang màu hồng
- Xác định sản phẩm, viết PTHH:
là dung dịch Bazơ NaOH.
- Qua TN HS tự rút ra được tính chất hóa Na + H2O → NaOH + H2
học của H2O: Tác dụng với kim loại.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 15


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

2.4. Thí nghiệm do nhóm học sinh thực hiện:
Để thí nghiệm do nhóm học sinh thực hiện đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo các yêu
cầu sau:

2.4.1.Đối với giáo viên :
+ Trước khi dạy bài học có thí nghiệm giáo viên cần định hướng chi tiết nội dung
học sinh cần tìm hiểu, chuẩn bị ở nhà như chuẩn bị những thí nghiệm nào? Thí nghiệm
đó cần những dụng cụ , hóa chất gì? Cách tiến hành và lắp ráp dụng cụ thí nghiệm ra
sao?... Ngoài ra còn phân công mỗi lóp 6 học sinh (có tính cẩn thận) phụ giúp giáo viên
mang các khay dụng cụ, hóa chất thí nghiệm từ phòng thí nghiệm hoặc từ các lớp khác
đến lớp mình và đặt đúng vị trí của nhóm mình.
+ Nghiên cứu kĩ thí nghiệm, chuẩn bị thí nghiệm chu đáo, thao tác thử thí nghiệm
nhiều lần, phát hiện những tình huống xảy ra hay dấu hiệu của thí nghiệm không rõ để có
biện pháp xử lí.
+ Chuẩn bị phiếu học tập cho học sinh (tuỳ theo từng nội dung).
+ Chọn thí nghiệm đạt mục đích của bài, dấu hiệu quan sát đặc trưng, có hệ thống
theo mạch kiến thức.
+ Có biện pháp an toàn khi sử dụng thí nghiệm.
+ Chú trọng đến một số biện pháp giúp học sinh nghiên cứu thí nghiệm Hoá học để
khai thác, tìm kiếm kiến thức mới một cách tích cực
1) Phân nhóm học sinh hợp lý : - Đối tượng .
- Số lượng.
- Nhóm trưởng.
- Thư kí.
2) Tổ chức chuẩn bị tốt thí nghiệm : - Chuẩn bị của học sinh.
- Chuẩn bị của giáo viên.
3) Giúp học sinh nắm được mục đích của thí nghiệm : Giáo viên đặt câu hỏi nêu
vấn đề kích thích tính tò mò của học sinh.
4) Giúp học sinh làm thí nghiện thành công an toàn :
- Học sinh nêu được cách tiến hành thí nghiệm.
- Xác định được dụng cụ, hoá chất làm thí nghiệm có những gì ? Các thao tác
sử dụng dụng cụ hoá chất đó (nhất là dụng cụ mới, hoá chất mới)
- Rèn luyện kĩ năng thao tác thí nghiệm khéo léo, chuẩn xác.
- Giáo viên phải dự đoán những sai sót có thể xảy ra cần tránh.

5) Quan sát mô tả thí nghiệm chuẩn xác :
- Khi hiện tượng chưa xảy ra học sinh có thể dự đoán.
- Khi hiện tượng xảy ra học sinh theo dõi quan sát và mô tả chuẩn xác ( trạng
thái, màu sắc, sự biến đổi của chất . . .)
- Rèn luyện kĩ năng trình bày (nói) theo thuật ngữ Hoá học.
- Uốn nắn những câu, lối trình bày thiếu chính xác, không khoa học (theo từ
ngữ địa phương)
6) Giải thích hiện tượng : Học sinh phải vận dụng kiến thức kết hợp với quan sát
hiện tượng thí nghiệm để giải thích hiện tượng xảy ra một cách logic (rèn luyện tư duy)
7) Từ kết quả thí nghiệm nhóm thảo luận thống nhất rút ra kết luận (tính chất của
chất, một qui luật, một kết luận về khả năng phản ứng)
- Giáo viên cho đại diện một nhóm trình bày (có bảng phụ của nhóm)
- Các nhóm tương tác - thảo luận.
- Cuối cùng giáo viên tổng kết.

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 16


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Trong từng bước đi giáo viên cần đặt câu hỏi nêu vấn đề một cách hứng thú, đúng
thời điểm để định hướng cho học sinh vận động một cách tích cực hợp lí có hiệu quả đảm
bảo thí nghiệm thành công.
2.4.2. Đối với học sinh :
Để mọi thí nghiệm đều thành công an toàn và có tác dụng tích cực cao thì học sinh cần
phải.
- Nhớ, thuộc những kiến thức có liên quan đến thí nghiệm đang thực hiện.
- Xem, nghiên cứu trước thí nghiệm ở nhà.

- Phải có tinh thần hợp tác trong học tập.
- Phải tuyệt đối tuân thủ theo đúng những hướng dẫn của giáo viên, không tự
ý làm các thí nghiệm khác.
- Phải có ý thức tiết kiệm hoá chất, cẩn thận khi sử dụng dụng cụ.
* Những điểm cần lưu ý : Sử dụng thí nghiệm hóa học theo hướng tích cực có thể sử
dụng trong tất cả các loại bài hóa học. Tuy nhiên cần chú ý đến mục đích của thí nghiệm,
điều kiện dụng cụ, hóa chất để chọn nội dung thí nghiệm, cách tiến hành(do GV hay HS)
và chú ý hướng dẫn HS khai thác thí nghiệm một cách hiệu quả, nhằm giúp HS nắm
vững kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Với những thí nghiệm do các nhóm học sinh tiến
hành, ta có thể áp dụng các kỹ thuật dạy học như kỹ thuật “mảnh ghép” để tiết kiệm thời
gian, hóa chất.
2.4.3. Những ví dụ minh hoạ :
Ví dụ 1 : Thí nghiệm nghiên cứu về sự biến đổi của chất (hiện tượng hoá học )– Bài
12: Sự biến đồi chất
Thao tác thí nghiệm với hỗn hợp bột lưu huỳnh và sắt.
* Một số điểm lưu ý để thí nghiệm đảm bảo thành công an toàn và có tác dụng tích cực
cao
+ Đối với giáo viên :
- Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, hóa chất cho thí nghiệm:
♦ Dụng cụ: nam châm, đế sứ, đũa sắt, đèn cồn, diêm, thìa lấy hóa chất.
♦ Hóa chất: bột sắt, bột lưu huỳnh
- Phiếu học tập cho học sinh.
- Cần lấy bột sắt và lưu huỳnh theo tỉ lệ về khối lượng là 7 : 4 và trộn kĩ hỗn hợp.
+ Đối với học sinh : - Đọc nghiên cứu trước thí nghiệm.
- Biết hiện tượng vật lý.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- GV nêu mục đích thí nghiệm : Để nhận - Biết được mục đích thí nghiệm và xác
biết dấu hiệu của hiện tượng hoá học ta tiến định nhiệm vụ.
hành làm thí nghiệm sau :

* Cách tiến hành : (bảng phụ)
Trộn kĩ một ít bột S và Fe, chia hỗn hợp ra
hai phần :
Phần 1 : Đưa thanh nam châm lại gần.
Quan sát hiện tượng.
Phần 2 : Sau đó đổ phần hai vào phần hõm
to của đế sứ, hơ nóng một đầu đũa sắt,
chấm một ít hỗn hợp, đốt cháy rồi đưa vào
phần hỗn hợp trong hõm sứ. (giáo viên
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 17


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

thường dùng ống nghiệm để đun nóng hỗn
hợp nhưng thường bị vỡ ống nghiệm và khó
khăn khi thử hỗn hợp sau khi đốt bằng nam
châm. Để khắc phục tình trạng đó tôi đã
dùng cách trên, kết quả thí nghiệm thành
công)
- Gọi 1 học sinh nhắc cách tiến hành và cho - Nêu cách tiến hành
biết hoá chất và dụng cụ cần dùng cho thí HC : hỗn hợp bột Fe và S
nghiệm ?
DC : nam châm, ống nghiệm, kẹp ống
nghiệm, đèn cồn.
- Cho học sinh quan sát bột Fe, bột S, hỗn - Bột Fe đen, bột S vàng, hỗn hợp bột Fe
hợp bột Fe và S.
và S xám

- GV thao tác mẫu.
- HS quan sát
Yêu cầu HS tiến hành thí nghiệm, quan sát - Tiến hành thí nghiệm,quan sát và hoàn
và hoàn thành những yêu cầu sau :
thành phiếu học tập.
+ Nêu hiện tượng quan sát được
+ Hiện tượng :
Phần 1 :
Phần 1 : Fe bị nam châm hút khỏi hỗn
Phần 2 : Khi đun hỗn hợp, chất rắn sau hợp.
khi đun có màu gì ? và có bị nam châm hút Phần 2 : Khi đun nóng, hỗn hợp tự sáng
không?
lên.
Chất rắn sau khi đun có màu xám và
không bị nam châm hút.
+ Giải thích ?
+ Giải thích : Khi chưa đun nóng Fe và S
vẫn giữ nguyên tính chất
Khi bị đun nóng, hỗn hợp Fe và S đã biến
đỗi thành chất rắn màu xám không còn
tính chất của Fe và S
+ Nhận xét về hiện tượng biến đổi chất?
+ Nhận xét : Là hiện tượng chất biến đổi
Cho đại diện 1 nhóm trình bày kết quả thảo có sinh ra chất mới.
luận, lớp nhận xét, bổ sung.
- Đại diện trình bày kết quả.
- GV Hay nói cách khác khi đun nóng, S - Hiện tượng chất biến đổi có tạo ra chất
tác dụng với Fe biết đổi thành chất mới (sắt khác gọi là hiện tượng hoá học.
II sun fua ) .Đó là hiện tượng hoá học.
- Vậy thế nào là hiện tượng hoá học ?

* Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công:
+ Bột Fe phải mịn, nhuyễn, tỉ lệ về khối lượng là 7g Fe và 4g S (hoặc có thể ước
lượng bằng mắt 3 thể tích Fe với 1 thể tích S)
Thí nghiệm này tiến hành sau khi trộn lẫn Fe và S. Do đó nếu đốt hỗn hợp bột Fe
không mịn, S nóng chảy trong toàn khối hỗn hợp và Fe không còn để phản ứng.
+ Vì phản ứng tỏa nhiệt nên chỉ cần hơ nóng đũa sắt, chấm một ít hỗn hợp, đốt cháy
rồi đưa vào phần hỗn hợp trong hõm sứ. Vệt sáng đỏ tự cháy lan dần khắp hỗn hợp. hiện
tượng phản ứng xảy ra rất đẹp và hấp dẫn.
Với cách làm thí nghiệm như trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng thực hiện thí nghiệm, khắc
phục được tình trạng vỡ ống nghiệm mà hiện tượng lại rất dễ thấy .
Ví dụ 2:Thí nghiệm tìm hiểu tính chất của khí oxi (Bài 24: Tính chất của oxi)
Khi sử dụng thí nghiệm để tìm hiểu kiến thức mới GV không đưa ra tính chất hóa
học trước mà thông qua thí nghiệm HS mới rút ra được từng tính chất hóa học.
Dụng cụ : đèn cồn , muôi sắt, diêm, lọ thuỷ tinh có nắp, chậu đựng nước , thìa nhỏ .
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 18


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Hoá chất: photpho, lưu huỳnh, 2 lọ khí oxi, nước vôi trong.
Trước tiết dạy, giáo Viên thu khí oxi vào lọ có nút đậy và dán nhãn tên khí oxi,
(trong quá trình thu khí nên chừa lại 1 ít nước trong lọ chứa khí oxi).Và lưu ý lọ thu khí
oxi phải có dung tích lớn, đầy , không có lẫn không khí , được đậy nút kín giữ cho oxi
không bị thoát ra ngoài .
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Để tìm hiểu tính chất hóa học của khí
Oxi chúng ta tiến hành một số TN.

Thí nghiệm 1: Oxi tác dụng với lưu huỳnh
- Yêu cầu :
- Nhận và giới thiệu dụng cụ hóa chất của
- Treo bảng phụ cách tiến hành.
mỗi nhóm.
- Nêu cách tiến hành:
+ Đưa một muôi sắt có chứa một lượng nhỏ
bột lưu huỳnh vào ngọn lửa đèn cồn. +Sau
đó đưa lưu huỳnh đang cháy vào lọ có chứa
oxi.
- Thao tác mẫu.
- Quan sát.
- Yêu cầu:
- Làm TN theo nhóm, quan sát, nhận xét
? So sánh hiện tượng lưu huỳnh cháy hiện tượng.
trong oxi và trong không khí ?

Lưu huỳnh cháy trong Oxi

- Giới thiệu chất khí sinh ra đó là lưu - Viết PTHH: S (r) + O2(k) → SO2 (k)
huỳnh đioxit còn gọi là khí sunfurơ ,
có công thức hoá học là SO2 .
- HS tiểu kết: Khí oxi có thể tác dụng với S
ở nhiệt độ cao.
Thí nghiệm 2 : Oxi tác dụng với photpho
- Yêu cầu :
- Nhận và giới thiệu dụng cụ hóa chất của
- Treo bảng phụ cách tiến hành.
mỗi nhóm.
- Nêu cách tiến hành:

+ Đưa muỗng sắt có chứa P đỏ vào bình
chứa khí oxi.
+ Đốt cháy P đỏ trong không khí rồi đưa
nhanh vào lọ chứa khí oxi.
- Thao tác mẫu.
- Quan sát.
- Yêu cầu:
- Làm TN theo nhóm, quan sát, nhận xét
- Hướng dẫn HS trả lời câu hỏi :
hiện tượng.
+ Khi muỗng sắt có chứa P đỏ vào + Không.
t0

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 19


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

bình chứa khí oxi. Có dấu hiệu của
phản ứng hóa học xảy ra không?
+ Đốt cháy P đỏ trong không khí rồi
đưa nhanh vào lọ chứa khí oxi có hiện
tượng gì?
+ Qua hiện tượng đó rút ra kết luận
gi?
+ So sánh sự cháy của photpho trong
không khí và trong oxi ? Nhận xét và
so sánh hiện tượng.


+ P cháy trong không khí và trong lọ chứa
khí oxi, tạo ra khói trắng.
+ Đã có Phản ứng hóa học xảy ra → ở nhiệt
độ cao khí oxi có thể tác dụng với khí P.
+ P cháy mạnh hơn trong khí oxi.

Phốt pho cháy trong Oxi

- Giới thiệu cho HS biết khói trắng - Học sinh viết phương trình hoá học của
dày đặc bám vào thành lọ dưới dạng phản ứng .
bột tan được trong nước , đó là 4P+ 5O2 → 2P2O5
điphotpho pentaoxit có công thức hoá
học là P2O5
t0

- Ở nhiệt độ cao khí oxi có thể tác
dụng với S, P. Vậy có thể rút ra tính
chất hóa học nào của khí oxi?
- Chốt lại.

- HS tiểu kết: Khí oxi có thể tác dụng với S ở
nhiệt độ cao.
- Ở nhiệt độ cao khí oxi có thể tác dụng với
phi kim.

* Lưu ý: khi làm thí nghiệm đốt cháy S, đốt S trong không khí cần làm nhanh, cho vào
bình oxi xong thì sau đó dùng dung dịch nước vôi trong đổ vào, đậy nắp để khử SO 2 ( do
khí SO2 mùi hắc, độc , gây ho, khó thở) làm giảm ô nhiễm môi trường.
* Ví dụ 3: Thí nghiệm O2 tác dụng với Fe ( Bài 24: Tính chất của oxi)

+ Chuẩn bị của giáo viên:
♦ Dụng cụ : Đèn cồn, diêm, bình thuỷ tinh có nắp.
♦ Hoá chất: Dây sắt( Có thể lấy dây phanh xe đạp), bình đựng khí oxi, mẫu gỗ.
Trước tiết dạy, Giáo Viên thu sẵn khí oxi vào bình có nút đậy và dán nhãn tên khí
oxi, (trong quá trình thu khí nên chừa lại 1 ít nước trong bình chứa khí oxi).Và lưu ý bình
thu khí oxi phải có dung tích lớn, oxi đầy , không có lẫn không khí , được đậy nút kín giữ
cho oxi không bị thoát ra ngoài .
+ Chuẩn bị của Học sinh:
♦ Tìm hiểu kỹ thí nghiệm: dụng cụ, hóa chất, cách tiến hành, dự đoán hiện tượng của
phản ứng.
♦ Sưu tầm dây phanh xe đạp không còn sử dụng, mẫu gỗ nhỏ để phục vụ cho thí
nghiệm.
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 20


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Hoạt động của Giáo viên
- Giới thiệu dụng cụ, hóa chất.
- Yêu cầu HS nêu cách tiến hành TN:
- GV thao tác mẫu.

Hoạt động của Học sinh
- Quan sát, lắng nghe
- Trình bày cách tiến hành (SGK)
- Quan sát.
- HS tiến hành thí nghiệm, quan sát, nhận xét.
+ Lấy một đoạn dây sắt (đã uốn dạng lò xo )

đưa vào trong bình oxi. → Không có hiện
tượng gì
+ Quấn vào đầu dây sắt một mẩu gỗ (thay cho
mẩu than gỗ), đốt cho mẫu gỗ cháy rồi đưa
vào lọ chứa khí oxi.  quan sát và nhận xét.
+ Vậy, ở nhiệt độ thường khí oxi có + Không.
tác dụng với sắt không?
+ Khi đưa dây sắt có than hồng vào lọ + Nêu hiện tượng:Sắt cháy mạnh, sáng chói,
oxi có hiện tượng gì?
không có ngọn lửa, không có khói, tạo ra các
hạt nóng chảy, màu nâu nhỏ

- Giới thiệu những hạt nhỏ màu nâu đó + Đã có phản ứng hóa học xảy ra ở nhiệt độ
là sắt ( II, III ) oxit thường được gọi là cao khí oxi có thể tác dụng với sắt.
oxit sắt từ, có công thức hoá học là
Fe3O4.
? Qua hiện tượng vừa quan sát chứng - Viết PTHH.
tỏ điều gì?
Học sinh viết phương trình hoá học của phản
- Giới thiệu O2 còn có thể tác dụng với ứng: 4Fe+ 5O2 → 2Fe3O4
một số kim loại khác ở nhiệt độ cao.
- Qua đó yêu cầu HS rút ra tính chất
hóa học thứ 2 của O2
* Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công:
- Cho ít nước hoặc ít cát sạch vào trong bình oxi, bình oxi có dung tích lớn, chứa được
nhiều khí.
- Dùng giấy nhám chà sạch gỉ hoặc bẩn bám trên dây sắt (dây sắt không nên to quá, tốt
nhất là 1 cộng nhỏ trong dây phanh xe đạp) dài khoảng 30 cm, cuộn thành lò xo và ở đầu
buộc chặt một mẫu gỗ nhỏ.
t0


- Đốt dầu dây sắt có mẫu gỗ trên ngọn lửa đèn cồn cho đến khi mẫu gỗ cháy chỉ còn
than hồng , đưa nhanh vào bình chứa khí oxi. Mẫu than bùng cháy làm cho dây sắt tiếp
tục nóng lên và cháy tạo ra những hạt nhỏ nóng chảy màu nâu. Khi hết oxi,đầu dây sắt
nóng chảy, viên thành giọt tròn.
* Ví dụ 4: Thí nghiệm xác định thành phần của không khí (Bài 28: Không khí – sự
cháy)
+ Chuẩn bị của giáo viên:

GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 21


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

♦ Dụng cụ : ống thủy tinh có chia vạch thành 6 phần bằng nhau, chậu thủy tinh cỡ bé,
muôi sắt có gắn nút cao su.
♦ Hoá chất: dung dịch nước vôi trong (thay cho nước) có nhỏ vài giọt phenolphtalein
để dung dịch có màu hồng nhạt giúp học sinh dễ quan sát hơn, diêm.
+ Chuẩn bị của Học sinh:
♦ Tìm hiểu kỹ thí nghiệm: dụng cụ, hóa chất, cách tiến hành, dự đoán hiện tượng của
phản ứng.
♦ Mỗi nhóm sưu tầm một mẩu nến nhỏ.
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
- Giới thiệu dụng cụ, hóa chất.
- Quan sát, lắng nghe
- Hướng dẫn học sinh thực hiện thí - Đặt ống thủy tinh vào trong chậu nước.
nghiệm.

- Cho nước vôi trong có phenolphtalein vào
chậu đến vạch mức số 1 thì dừng lại.
- Trong ống thủy tinh còn trống mấy - Trong ống thủy tinh còn lại 5 phần trống.
phần bằng nhau?
- Gắn mẩu nến nhỏ vào muôi sắt, châm lửa
cho nến cháy rồi từ từ đưa vào ống thủy tinh
và đậy kín miệng ống bằng nút cao su.
- Hướng dẫn học sinh quan sát hiện - Quan sát hiện tượng xảy ra trong ống thủy
tượng trong ống thủy tinh.
tinh.
- Nến có cháy mãi không? Vì sao?
- Ngọn nến cháy yếu dần rồi tắt hẳn. vì trong
ống hết khí oxi.
- Mức nước trong ống thủy tinh thay - Mức nước dâng lên đến vạch số 2 thì dừng
đổi như thế nào?(khi nhiệt độ bên lại.
trong bằng nhiệt độ bên ngoài ống)
- Vì sao mức nước dâng lên đến vạch - Mức nước dâng lên chiếm chỗ phần thể tích
số 2 thì dừng lại?
oxi mất đi do nến đốt cháy.
- Vậy oxi chiếm bao nhiêu phần về thể - Oxi chiếm 1/5 thể tích không khí.
tích không khí trong ống thủy tinh?
- Còn khí không duy trì sự cháy, sự - Khí nitơ
sống, không làm đục nước vôi đó là
khí nào?
- Vậy nitơ chiếm bao nhiêu phần thể - 4/5
tích không khí?
* Điểm mới: Tôi đã cải tiến thí nghiệm này theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, tiết
kiệm, không gây ô nhiễm môi trường mà mang lại hiệu quả cao bằng cách:
+ Thay thế phôt pho đỏ bằng nến (đỡ tốn kém hơn, dễ tiến hành hơn)
+ Thay nước bằng dung dịch nước vôi trong (để dễ hấp thụ khí CO 2 sinh ra khi nến

cháy). Xin được nói thêm là nếu dùng nước thì CO 2 sinh ra sẽ khó tan hết và chiếm một
thể tích trong ống thủy tinh. Dẫn đến mực nước dâng lên không chính xác. Nước vôi có
thêm vài giọt phenolphtalein có màu hồng giúp học sinh dễ quan sát hơn.
Với sáng kiến trên, tôi đã tiết kiệm được một lượng phôt pho, không tạo ra khói trắng
P2O5 gây ô nhiễm môi trường mà hiệu quả lại rất cao.
*Ví dụ 5: Thí nghiệm dùng hiđro khử đồng(II) oxit (Tiết 48 - Bài 31 :Tính chất.Ứng
dụng của hiđro)
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 22


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

Thí nghiệm này có thể thực hiện theo 2 hình thức: thí nghiệm biễu diễn của giáo viên
hoặc thí nghiệm đồng loạt của các nhóm học sinh.
Nếu là thí nghiệm do các nhóm học sinh thực hiện cần lưu ý để thí nghiệm thành công
an toàn và có tác dụng tích cực cao :
- Đối với giáo viên :
+ Cung cấp trước cho học sinh cách tiến hành thí nghiệm (Có thể thay ống thuỷ
tinh hình trụ thủng 2 đầu bằng ống thuỷ tinh hình chữ Z(hoặc ống chữ V)
+ Chuẩn bị thí nghiệm chu đáo, hướng dẫn học sinh thực hiện thí nghiệm an toàn
và tiết kiệm.
+ Chú ý cho học sinh : Khí hiđro điều chế từ Zn và HCl cần thử độ tinh khiết
trước khi thực hiện thí nghiệm, quán triệt học sinh thực hiện nghiêm túc hướng
dẫn của giáo viên, không tùy tiện đốt nóng khi hiđro sinh ra chư a tinh khiết.
+ Chuẩn bị phiếu học tập cho nhóm học sinh.
+ Đối với học sinh :
+ Cần tìm hiểu kĩ thí nghiệm bằng thông tin giáo viên cung cấp trước.
* Cách tiến hành thí nghiệm theo sách “ Thực hành thí nghiệm Hoá học 8” Do

tác giả Nguyễn Phú Tuấn – Vũ Anh Tuấn – Nguyễn Hồng thuý biên soạn do nhà Xuất
bản giáo dục in ấn : Cho 5 – 6 hạt kẽm vào ống nghiệm chứa khoảng 10ml dung dịch axit
HCl. Sử dụng nút cao su có ống dẫn khí hình chữ Z xuyên qua . Sục nhẹ một đầu ống
thuỷ tinh chữ Z vào bột đồng (II) oxit rồi hứng miệng ống lên cho CuO rơ i vào đáy ống
dẫn thuỷ tinh tạo thành một lớp mỏng. Đậy miệng ống nghiệm bằng nút cao su trên, kẹp
ống nghiệm nằm nghiêng trên giá thí nghiệm cải tiến điều chỉnh sao cho phần đáy ống
dẫn hình chữ Z chứa CuO được đặt vào phần nóng nhất của ngọn lửa đèn cồn ( bấc đèn
cồn cách ống dẫn từ 1-2cm). Sau khoảng nửa phút để khí hiđro đẩy hết không khí ra khỏi
ống nghiệm. Dùng đèn cồn hơ nóng ống dẫn thuỷ tinh rồi nung nóng mạnh ở phần chứa
CuO.
- Tuyệt đối tuân thủ theo hướng dẫn của giáo viên, không tự ý làm các thí nghiệm
khác.
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
- Nêu mục đích thí nghiệm : Để nghiên cứu - Hiểu mục đích và xác định nhiệm vụ.
tính chất hoá học của hiđro tác dụng với hợp
chất ta tiến hành thí nghiệm cho hiđro tác
dụng với CuO (oxit kim loại)
* Cách tiến hành : (ở trên )
- Gọi 1 học sinh đọc cách tiến hành thí - Đọc cách tiến hành thí nghiệm
nghiệm và cho biết những dụng cụ, và hoá HC : Kẽm viên, dd HCl, bột CuO
chất cần sử dụng
DC : 1 ống nghiệm, 1 nút cao su đậy
ống nghiệm có gắn ống dẫn khí hình
chữ Z, 1 đèn cồn, 1 tấm kính.
- Thao tác mẫu cho HS.
- Quan sát, nắm cách tiến hành TN.
- Nhắc các em quan sát bột CuO.
- Bột CuO màu đen.
- Cho các nhóm thực hiện thí nghiệm, quan - Thực hiện thí nghiệm, quan sát, thảo

sát hiện tượng hoàn thành những yêu cầu sau luận trả lời. (phiếu học tập )
:
+ Khi chưa được đốt nóng (ở nhiệt độ
( Phiếu học tập)
thường) không có hiện tượng gì xảy ra.
+ Nêu hiện tượng quan sát được ?
Khi đốt nóng, bột CuO màu đen chuyển
+ Nhận xét ?
dần thành chất rắn màu đỏ.
+ Viết phương trình hoá học.
+ Ở nhiệt độ thường H2 không tác dụng
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 23


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

được với CuO.
Ở nhiệt độ cao H2 tác dụng với CuO tạo
thành Cu đơn chất và hơi nước.
t0
+ PTHH : H2 + CuO →
Cu +
- Gọi đại diện 1 nhóm trình bày kết quả, lớp H2O
nhận xét bổ sung.
- Đại diện 1 nhóm trình bày, lớp nhận
- GV chuẩn xác nội dung ở phiếu học tập.
xét, bổ sung.
- Trong thí nghiệm này hiđro đóng vai trò

gì?
- Hiđro chiếm nguyên tố oxi trong hợp
- Người ta nói hiđro có tính khử ( khử oxi ). chất CuO.
- Tương tự CuO, hiđrô còn khử được oxi của
nhiều oxit kim loại khác như: oxit của sắt,
chì … Đây là một trong những phương pháp
để điều chế kim loại .
Sau đó yêu cầu học sinh viết phương trình - Viết PTPƯ
hoá học của một số oxit kim loại khác tác
dụng với H2 chẳng hạn như : Fe2O3 + H2 ;
HgO + H2 ; Al2O3 + H2 ….
- Qua TN yêu cầu HS rút ra tính chất hóa - H2 có thể khử một số oxit kim loại tạo
học của khí H2
ra kim loại và nước.
Qua các ví dụ trên cho thấy, nhờ có thí nghiệm,bằng kĩ năng quan sát, so sánh,
phân tích... học sinh hiểu được, chất bị biến đổi như thế nào, so sánh được tính chất của
các chất trước và sau phản ứng, từ thí nghịêm học sinh mạnh dạn kết luận được tính chất
của chất như tính chất của Oxi, Hiđro., cũng như phát biểu được định luật bảo toàn khối
lượng, giải thích được định luật, viết được phương trình hoá học... Nếu không có thí
nghiệm chắc hẳn học sinh khó hình dung ra các chất chỉ bị biến đổi khi nào, khó phát
biểu được định luật, cũng như viết phương trình hoá học sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng
túng, không phân biệt đâu là sản phẩm, đâu là chất tham gia...
Học sinh quan sát giáo viên làm thí nghiệm và tự tay làm thí nghiệm, mô tả hiện
tượng , giải thích , và viết các phương trình hoá học. Từ đó , học sinh rút ra nhận xét về
tính chất hoá học, qui tắc, định luật …nên học sinh dễ tiếp thu và nhớ lâu trong học tập
và khi đến tiết thực hành, các em lại được tự tay tiến hành thí nghiệm từ đó các em cảm
thấy hứng thú với bộ môn yêu thích học tập bộ môn hoá hơn. Vì vậy mà chất lượng học
tập của học sinh được nâng cao hơn .
Học sinh tin tưởng và yêu thích khoa học.
Dựa vào hiện tượng thí nghiệm , sự thay đổi những dấu hiệu bên ngoài ( màu sắc ,

trạng thái , …) đập vào các giác quan của học sinh nên trong đầu học sinh sẽ nảy ra
những câu hỏi vì sao ? … Để trả lời những câu hỏi đó buộc các em phải phân tích tổng
hợp tìm tòi giải đáp , nhờ vậy mà năng lực nhận thức của học sinh được nâng cao.
3. Khả năng áp dụng:
Kinh nghiệm trên được vận dụng ở trường tôi trong hơn 2 năm qua đã đem lại
hiệu quả rõ rệt. Cụ thể:
- Khi chưa sử dụng SKKN, chúng tôi thường gặp khó khăn về mặt thời gian khi tổ
chức các thí nghiệm trong giờ học lý thuyết, nhất là với học sinh lớp 8. Học sinh rất lúng
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 24


Nâng cao hiệu quả của thí nghiệm trong giờ học lý thuyết môn Hóa học – lớp 8

túng khi tiến hành thí nghiệm, kỹ năng mô tả, giải thích thí nghiệm không khoa học, sai
sót khi viết phương trình hóa học. Hơn nữa có một số thí nghiệm thực hiện các bước theo
gợi ý của SGK làm cho học sinh khó quan sát, dẫn đến tiến hành thí nghiệm không thành
công, tốn nhiều hoá chất, sinh ra nhiều khí độc, gây ô nhiễm môi trường. Từ đó, tỉ lệ học
sinh trung bình trở lên còn thấp, nhiều học sinh không nắm được tính chất của chất, định
luật, đặc biệt là khả năng tư duy rất kém.
- Khi áp dụng kinh nghiệm này trong công tác giảng dạy, nhờ sự hướng dẫn chi
tiết, cụ thể của giáo viên nên việc chuẩn bị ở nhà của học sinh rất chu đáo. Do đó khi tổ
chức các thí nghiệm Hóa học ở lớp, tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Mặc khác, các
thí nghiệm trước khi tiến hành trên lớp, tôi đều chuẩn bị rất kỹ càng, cải tiến thí nghiệm
hợp lý nên tất cả các thí nghiệm đều thành công, học sinh phát hiện kiến thức một cách
chủ động, sáng tạo, tiến trình bài dạy đúng theo kế hoạch soạn giảng, có thời gian mở
rộng, khắc sâu kiến thức cho học sinh khá giỏi, vận dụng để giải một số dạng bài tập.
Thực tế cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực cả về phía giáo viên lẫn học sinh. Giáo
viên có kỹ năng, kỹ xảo thành thạo hơn trong việc tổ chức học sinh tiến hành thí nghiệm

hay làm thí nghiệm biểu diễn, không ngần ngại khi có người dự giờ, thăm lớp đặc biệt là
trong các giờ học có thí nghiệm. Chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ học sinh
khá giỏi tăng, số lượng học sinh yếu kém đã dần được hạn chế, kỹ năng tiến hành các thí
nghiệm, mô tả, giải thích khoa học hơn, kỹ năng viết PTHH và làm các bài tập định tính
được cải thiện. Phần lớn học sinh nắm vững kiến thức lý thuyết, có kỹ năng vận dụng để
giải bài tập, hứng thú và yêu thích học tập bộ môn.
Qua hơn 2 năm vận dụng SKKN vào giảng dạy môn Hóa học lớp 8, đối chiếu với
số lượng thống kê năm trước, chất lượng bộ môn Hóa học lớp 8 do tôi giảng dạy như sau:
Năm học

Sĩ số

Thời
điểm

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu, kém

Trung bình
trở lên

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2008 – 2009
Dạy học thông
thường

165

Cả năm

26

15,8

43


26,1

75

45,5

21

12,7

144

87,3

161

Cả năm

26

16,1

45

28,0

74

46,0


16

9,9

145

90,1

168

Cả năm

30

17,9

52

31,0

75

44,6

11

6,5

157


93,4

2009 – 2010
Dạy học theo
SKKN
2010 – 2011
Dạy học theo
SKKN

Tỷ lệ học sinh đạt học sinh giỏi các cấp tăng cao.Cụ thể:
+Năm học 2008 – 2009, không có học sinh nào đạt học sinh giỏi cấp huyện.
+ Năm học 2009 – 2010, có 3 học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện.
+ Năm học 2010 – 2011, có 3 học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện, 2 học sinh
đạt giải ba cấp tỉnh.
+ Năm học 2011 – 2012, có 2 học sinh đạt giải cấp huyện.
Sử dụng thí nghiệm trong giờ học là phương pháp đặc thù của bộ môn Hóa học. Hiện
nay hầu hết các trường THCS đều được trang bị gần như đầy đủ các dụng cụ, hóa chất
cần thiết để tiến hành các thí nghiệm. Song trong quá trình dạy các bài lý thuyết có sử
dụng thí nghiệm, giáo viên gặp không ít khó khăn. Chắc hẳn đề tài này sẽ phần nào giúp
GV: Trần Thị Kim Hồng

Trang 25


×