Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Điều tra thành phần loài và đặc điểm sinh học mọt nuôi nấm (mọt Ambrosia) gây hại cho các loài cây họ dẻ (Fagaceae) tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.95 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------

NGUYỄN ĐÌNH THẮNG

"ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
MỌT NUÔI NẤM (MỌT AMBROSIA) GÂY HẠI CÁC LOÀI CÂY
THUỘC HỌ DẺ (FAGACEAE) TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
HOÀNG LIÊN - VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI"

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : Lâm nghiệp
Mã số

Người hướng dẫn khoa học :

: 60 62 60

PGS.TS. Phạm Quang Thu

Thái Nguyên, năm 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1

ĐẶT VẤN ĐỀ


Lào Cai có diện tích đất tự nhiên 638.389.59 ha trong đó; rừng tự
nhiên 323.277.11 ha, rừng trồng 65.586.23 ha, đất chƣa có rừng là
94.657.05 ha, đất khác 220.455.43 ha. Độ che phủ của rừng tăng tính đến
hết năm 2010 là 49,5%. Trên địa bàn có hai khu bảo tồn đa dạng sinh học
đó là Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên và Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Văn Bàn là nơi bảo vệ các nguồn gen động, thực vật quý hiếm của nƣớc ta.
Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn Bàn thuộc dãy Hoàng Liên
Sơn. Có tổng diện tịch là: 25.669 ha bao gồm: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
21.624 ha, Phân khu phụ hồi sinh thái: 4.040 ha, là nơi phân bố đa dạng thực
vật bậc nhất của dãy Hoàng Liên Sơn và là nơi hiển diện nhiều kiểu rừng kín
thƣờng xanh nhiệt đới núi thấp và rừng kín thƣờng xanh nhiệt đới núi cao.
Khu vực Hoàng liên là nơi lƣu giữ và cƣ trú của nhiều loài động thực vật
quý hiếm có tầm Quốc gia và Quốc tế nhƣ Bách tán Đài loan, Hoàng liên Ô
rô, Dẻ lá rụng, Vƣợn đen tuyền, Chim trèo cây lƣng đen, Cá cóc Tam Đảo,
Dơi dơi sọ to, Cu ly nhỏ,...các loài này đang có nguy cơ bị đe dọa ở mức
cao, cần đƣợc ƣu tiên bảo tồn trƣớc những tác động bất lợi của rất nhiều
nguyên nhân nhƣ dân số tăng, tình hình dịch bệnh xâm nhiễm gây hại đến
rừng dẫn đến các giá trị bảo tồn sẽ bị mất đi từng ngày.
Khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên – Văn Bàn là vùng có phân bố
tự nhiên của nhiều loài họ Dẻ (Fagaceae), trong đó có loài có tên trong sách
đỏ của thế giới nhƣ loài Dẻ lá rụng. Các loài Sồi, Dẻ này chủ yếu thuộc chi
Castanopsis họ Dẻ (Fagaceae), mọc thành quần thụ, có nơi mọc tập trung
với mật độ cao và trở thành ƣu hợp Sồi, Dẻ. Tuy nhiên cùng với sự phát
triển của loài và tính đa dạng sinh học của nó thì đi theo nó là sự tồn tại và
phát triển của rất nhiều các loài sâu bệnh hại nguy hiể m, có nguy cơ tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





2
diệt và gây ảnh hƣởng đến sinh trƣởng và phát triển của loài Sồi

, Dẻ này,

Trong số các loài sâu bệnh hại đƣợc ghi nhận gần đây trên các loài Sồi , Dẻ
thì bệnh Nấm xanh (Blue – Stain) do một vector truyền bệnh là

một loài

mọt gỗ thuộc họ mọt gỗ Scoltydae . Bệnh này đã bƣớc đầu đƣợc ghi nhận
tại các tỉnh tập trung nhiều Dẻ là Lâm Đồng , Kon Tum, Gia Lai. Nhƣ vậy,
phạm vi xuất hiện của loài này trong tự nhiên đã đƣợc khẳng định , trải rộng
trên một vùng rộng của Miền Nam Việt Nam.
Các loài mọt nuôi nấm thƣờng gây chết cây do

Mọt mang theo các

loài nấm để gây cấy trong thân cây chủ để làm thức ăn. Các loài nấm đƣợc
Mọt gây cấy đã phát triển nhanh trên phần gỗ giác, làm biến màu gỗ và gây
tắc nghẽn các mạnh dẫn chất dinh dƣỡng nuôi cây làm cây bị héo và chết.
Bệnh có tốc độ lây lan nhanh do Mọt trƣởng thành vũ hóa từ những cây bị
chết, xâm nhiễm vào cây chủ khác và làm cây chết trong mùa sinh trƣởng
tiếp theo. Khi mật độ quần thể Mọt lớn, sự xâm nhiễn diễn ra với tốc độ
nhanh dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học . Trƣớc nhƣ̃ng đòi hỏi cấp thiết
của việc bảo tồn và gìn giữ tính đa dạng của loài thực vật, đặc biệt là các
loài cây thuộc họ Dẻ nghiên cứu về thành phần loài, xác định loài gây hại
chính và nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của loài gây hại
chính và đề xuất biện pháp quản lý dịch hại là rất cần thiết, trên cơ sở đó
tôi mạnh dạn đề xuất đề tài nghiên cƣ́u thuộc chƣơng trì nh đào tạo


Thạc sỹ

của mình là : "Điều tra thành phần loài và đặc điểm sinh học mọt nuôi
nấm (Mọt ambrosia) gây hại các loài cây họ Dẻ (Fagaceae) tại Khu bảo
tồn thiên nhiên Hoàng Liên - Văn bàn, tỉnh Lào Cai".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




3
Chƣơng 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

1.1.1. Nghiên cứu về côn trùng nói chung
Côn trùng học trở thành một ngành Khoa học bắt đầu từ 384-322
trƣớc Công nguyên khi Aristoteles đã mô tả và sắp xếp thế giới động vật
thành 02 nhóm: không máu và có máu [3] . Sau đó đến năm 23-79 trƣớc
Công nguyên Cajus Plinius Secundus công bố các công trình và có sự
phỏng đoán về sự hô hấp của côn trùng.
Aldrovandi vào thế kỷ XVI bắt đầu dụng thuật ngữ về côn trùng
(Insecta) và có một khối lƣợng lớn về quan sát cách sinh sống, hình dạng
của nhóm động vật này. Th.Moufer dựa theo bản thảo của Conrad Gesner
[4] đã biên soạn thông tin về côn trùng thành một tài liệu và đƣợc công bố
vào năm 1634. Từ những năm 1628 đến 1723 đã có những công trình
nghiên cứu về giải phẫu côn trùng đáng kể nhất là của Marcello Malpighi

và của Antony Leeuwenhoek .
Năm 1710, tài liệu “Historia Insectorum” của Ray đã đƣợc Hội
hoàng gia Anh công bố [9]. Ông đƣợc coi là nhà côn trùng học đầu tiên về
hệ thông phân loại côn trùng. Nhƣng cách mô tả và phân loại còn hạn chế,
chƣa chi tiết và khó hiểu.
Carl von Linne tiếp bƣớc Ray xây dựng nền móng cho hệ thống phân
loại hiện đại về côn trùng. Ông đã phân chia chi tiết côn trùng thành các bộ,
giống, loài.
Sau thời kỳ của Linne, số lƣợng các công trình nghiên cứu về côn
trùng đƣợc phát triển bổ sung hoàn thiện nhƣng Côn trùng học vẫn chỉ là
một bộ phận của Động vật học chứ chƣa trở thành một lĩnh vực riêng.
Từ năm 1801 đến 1897 các công trình nghiên cứu về côn trùng trong
Lâm nghiệp và Nông nghiệp đƣợc xây dựng nhƣ của J.T.C. Ratzeburg và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




4
H.Nordlinge [9]. Cũng trong giai đoạn này các công trình nghiên cứu về
côn trùng phát triển mạnh mẽ ở các nƣớc phát triển nhƣ: Đức, Mỹ, Canada,
Pháp...sau đó lan rộng sang các nƣớc trên toàn thế giới.
Ngày nay công trình nghiên cứu về côn trùng đã có những bƣớc tiến
vƣợt bậc, có trên 135 tạp trí chuyên khảo về côn trùng với các đội ngũ đông
đảo các nhà khoa học chuyên sâu [4]
1.1.2. Nghiên cứu về côn trùng cánh cứng và các loài mọt
Bộ cánh cứng (Coleoptera) là một trong những bộ có các loài côn
trùng gây hại nguy hiểm cho ngành Nông Lâm nghiệp. Các loài gây hại
không chỉ cho loài cây lá rộng, là kim mà cả các loại cây công nghiệp.
Trong số đó Mọt là những loài cánh cứng gây hại nhiều nhất, theo các nhà

Khoa học trên thế giới đã xác định rất nhiều loài Mọt hại vỏ cây sống làm
ảnh hƣởng đến sự phát triển của cây, thậm trí còn làm trên cây và gây ra
thành dịch trong đó có 06 loài chủ yếu nhƣ: Ips calligraphus Germar, Ips
grandicollis Eichhoff, Ips avulsus Eichhoff, Dendroctonus frontalis
Zimmerman, Dendroctonus terebrans Olivier và Dendroctonus pondesae
Hopkins (Albert E.M, 2005; Clyde S.G, 1999; Hiratsuka Y và cộng sự,
2004; Jame R.M và cộng sự, 2000; Jeffrey M.E và Albert E.M, 2006;
Micheal D.C và Robert C.W, 1983). Từ năm 1973 đến 1979 có 03 loài Mọt
thuộc chi Ips gây hại hơn 3 triệu m 3 gỗ Thông ở miền Nam nƣớc Mỹ. Sự
gây hại và trở thành dịch của loài Mọt Dendroctonus pondesae Hopkins
cho loài Thông ở Vƣờn quốc gia Banff thuộc bang Alberta năm 1940-1944
và miền Tây Nam bang Alberta Canada vào năm 1977-1985. Phần lớn các
loài Mọt này tấn công chủ yếu vào những cây bị tổn thƣơng cơ giới hoặc
những cây sinh trƣởng và phát triển kém. Gần đây loài Mọt Tomicus
piniperda đang trở thành mối nguy hiểm cho loài Thông ở các nƣớc Châu
Âu. Cho nên các loài Mọt gỗ nói chung ngày càng đƣợc quan tâm nghiên
cứu bởi những tác hại do chung gây ra cho ngành Lâm nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




5
Loài Mọt chân dài Platypus quercivorus là một loài Mọt điểm hình
thuộc nhóm Mọt không ăn gỗ. Con cái của loài Mọt này sau khi vũ hóa từ
các loài cây chủ thuộc họ Dẻ đã bị chết, bay đến cây chủ ƣa thích thuộc họ
Dẻ (Fagaceae) đào hang thẳng từ vỏ vào phần gỗ giác của thân cây, cuối
đƣờng hang con cái đào thêm 1 đến 2 đƣờng nhánh theo đƣờng vòng năm
để đẻ trứng. Trong quá trình đào hang, bào tử nấm bám trên cơ thể của Mọt
và ở các lỗ trên tấm ngực trƣớc nảy mầm và xâm nhiễm vào thân cây. Mọt

sử dụng sợi nấm này làm thức ăn. Gỗ phát triển mạnh trong thân cây ở
phần gỗ giác làm gỗ bị biến màu và sợi nấm làm tắc các ống mạch dẫn
nƣớc làm cây chủ bị héo và chết. Khi cây chết Mọt cái trƣởng thành vũ hóa
và xâm nhiễm cây chủ khác. Đối với loài Mọt Platypus quercivoru có phổ
cây chủ rất rộng, gây hại các loài thuộc họ Dẻ sau: Castanea crenata,
Castanopsis cuspidata, Castanopsis sieboldii, Quercus acuta, Quercus
myrsinaefolia, Quercus serrata, Quercus mongolica, Quercus acutissima,
Quercus phillyraeoides, Quercus crispuloserrata, Quercus sessilifolia, Quercus
salicina, Lithocarpus glaber, Lithocarpus edulis (Erica E. et al., 2005).
Platypus quercivorus là loài Mọt gây hại rất nguy hiểm đới với rừng
tự nhiên ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tại Nhật Bản loài Mọt này
mang loài nấm Raffaelea quercivora đã làm chết 100.000 đến 200.000 cây
dẻ mỗi năm bắt đầu từ năm 1980. Loài cây bị tấn công nhiều nhất là 2 loài
Quercus serrata và Q. mongolica var. grosseserrata (Ito et al. 2003a, Ito et
al. 2003b).
Esaki và cộng sự (2005) điều tra lâm phần có các loài dẻ phân bố bị
Mọt Platypus quercivorus gây hại và có nhận định rằng loài Mọt này chỉ
gây hại những cây có đƣờng kính trên 15cm và chỉ gây hại ở độ cao của
thân dƣới 1,5m. Mọt không tấn công những cây có đƣờng kính nhỏ hơn
8cm. Khi đẽo vỏ cây ở xung quanh các lỗ Mọt thấy gỗ bị biến màu do sợi
nấm Mọt cấy làm thức ăn. Một nghiên cứu khác tại Nhật Bản cho thấy các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




6
loài dẻ mọc ở rừng lá rộng thƣờng xanh thì ít bị hại hơn so với các loài dẻ
mọc ở rừng lá rộng rụng lá.
1.1.3. Những nghiên cứu về chất dẫn dụ côn trùng và bẫy côn trùng

bằng chất dẫn dụ
Đầu thế kỷ XX, các nhà côn trùng học đã tiến hành các thí nghiệm
nghiên cứu trên một số đối tƣợng côn trùng nhằm đƣa ra cơ sở khoa học để
giải thích cho hiện tƣợng vận động của côn trùng dƣới ảnh hƣởng của các
yếu tố hoá học. Barrows (1907) đã mô tả tập tích của ruồi Dropsophila
melanogaster Mg dƣới tác động của chất hấp dẫn [27]. Những nghiên cứu
của Kellog (1907) về phản ứng của ngài đực Bombyx mori L đối với mùi
thơm hấp dẫn của con cái [27]. Đến năm 1909 Freiling đã tiến hành nghiên
cứu phản ứng trên hai con đực ở hai giống Danais và Euploea
(Lepidoptera) với mùi thơm hấp dẫn từ con cái. Một thời gian sau đó việc
nghiên cứu này lại bị gián đoạn cho mãi đến năm 1932 khi Bethe tìm hiểu
về đặc tính sinh hoá học của các chất thơm gây ra hiện tƣợng hấp dẫn và
xua đuổi ở một số côn trùng cánh cứng và đã gọi các chất này với tên
ektohormon [27], tiếp sau đó là các công trình nghiên cứu của Kaltofen
(1951), Hass (1952), Kalmus (1955), Kohler (1955) tiến hành trên ong mật
Apis mellifera và hàng loạt những nghiên cứu của Sengun (1954),
Schwinek (1955), Ander (1959)…về tác động lôi cuốn của con cái đối với
con đực ngài Bombyx mori L. Trong số những công trình nghiên cứu phải
kể đến công trình của Kullenberg, năm 1953 ông đã tiến hành các thí
nghiệm về tác dụng sinh học của của các chất thơm của con cái đối với con
đực của 8 loài của họ Sphecidae; 21 loài của họ Apidae và các họ
Chrysididae, Mutillidae, Vespidae và Ichneumonidae mỗi họ nghiên cứu
đại diện một loài. Ông đã so sánh các chất thơm này với tác dụng kích thích
của hormon và nhận thấy giữa chúng có những điểm chung là đều có hoạt
tính sinh học cao, đều gây ảnh hƣởng đối với các tập tính của con vật và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





7
ông đã gọi chất thơm này là parahormon. Sau hàng loạt các tên gọi đƣợc
đƣa ra cho loại chất thơm kể trên đƣợc đông đảo các nhà khoa học thống
nhất gọi một cái tên là pheronmone [27]. Pheromone theo định nghĩa của
Peter Karlson và Martin Lüscher công bố vào năm 1959 là một chất đƣợc
tiết ra môi trƣờng bên ngoài từ một cá thể và đƣợc nhận biết ở một cá thể
thứ hai cùng loài. Sau nhiều công trình nghiên cứu các nhà khoa học đã
chứng minh rằng pheromone có thể đƣợc tiết ra từ các tuyến khác nhau của
cơ thể động vật chứ không phải chỉ đƣợc tiết ra ở một tuyến nhất định nhƣ
trƣớc đây ngƣời ta nghĩ vậy. Ở một số loài côn trùng, ngoài các pheromone
đƣợc tiết ra từ các tế bào biểu bì của lớp phôi ngoài còn có các pheromone
đƣợc tiết ra từ các tế bào tuyến biểu bì ở phần nếp gấp gian đốt cơ thể [27].
Theo tính chất tác động, pheromone đƣợc chia làm nhiều loại khác nhau
nhƣ: pheromone tập hợp (aggregation pheromones) chỉ tạo ra bởi một giới
trong cùng một chủng loài và chúng có tác dụng hấp dẫn đến cả hai giới;
pheromone báo động (alarm pheromones) một vài loài khi bị tấn công bởi
động vật ăn thịt, một vài loài tiết ra những hợp chất bay hơi để các thành
viên khác bay đi (nhƣ ở con rệp vừng) hoặc tụ lại (nhƣ ở ong). Ngoài ra
pheromone cũng tồn tại trong cây cỏ. Một số loại cây tỏa ra pheromone khi
chúng bị trầy xƣớc khiến những cây khác tăng hàm lƣợng tannin (có vị
đắng) trong cây khiến cho cây trở nên kém ngon miệng đối với động vật ăn
cỏ; pheromone đánh dấu lãnh địa (territorial pheromones), những loại
pheromone này đƣợc phóng thích vào trong môi trƣờng để đánh dấu biên
giới giữa những vùng lãnh thổ của động vật; pheromone đánh dấu lãnh địa
chỉ dùng cho con cái (epideictic pheromones), côn trùng cái dùng những
loại pheromone này đƣợc nhận dùng để đánh dấu lãnh địa của chúng và
nhận biết đƣợc bởi những con khác. Ông Fabre, nhà côn trùng học ngƣời
Pháp, trong nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã phát hiện ra những
con cái đẻ trứng trên trái cây cùng với những hợp chất huyền bí quanh tổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




8
của chúng để gửi tín hiệu đến những con cái khác cùng loài để chúng khác
phải làm tổ ở nơi nào đó khác; pheromones dẫn dụ (releaser pheromones)
đây là những hợp chất hấp dẫn cực mạnh mà một vài loài dùng để hấp dẫn
bạn tình trong khoảng cách hai dặm hoặc xa hơn. Loại pheromone này
đƣợc đáp trả nhanh chóng nhƣng rất mau suy giảm. Trái lại những
pheromone theo mùa (primer pheromone) có tác dụng chậm hơn nhƣng lại
lâu hơn rất nhiều; pheromone báo hiệu mùa (primer pheromones) đây là
loại pheromone gây ra sự thay đổi của những giai đoạn phát triển của động
vật; pheromone dẫn đƣờng (trail pheromones) loại này rất phổ biến trong
hoạt động xã hội của côn trùng; pheromne sinh dục (sex pheromones) ở
động vật, pheromone sinh dục thể hiện con cái đã đến lúc sẵn sàng cho việc
sinh sản. Những con đực cũng tiết ra pheromones để truyền tải thông tin về
chủng loài và loại gien. Nhiều loại côn trùng có thể tiết ra pheromone sinh
dục có sức hấp dẫn bạn tình. Các loài thuộc bộ Lepidoptera có thể phát hiện
ra con cái ở cách xa đến 10 km. Ở loài lƣỡng tính, pheromone đƣợc dùng
để dẫn dụ con khác giới đến để thụ tinh. Các loại pheromone khác chƣa
đƣợc phân loại pheromones một cách chủ quan dựa trên trên ảnh hƣởng của
chúng đến hành vi của động vật. Pheromone có thêm nhiều chức năng phụ
nhƣ loại pheromone hƣớng dẫn về tổ ở loài ong, pheromone của ong chúa,
pheromone làm cho khuây khỏa. Pheromone yếu tố truyền tin bằng hóa học
đƣợc xem nhƣ là dạng cổ sơ nhất trong các nguyên tắc cơ bản của thông tin
và tồn tại đặc biệt phong phú trong lớp côn trùng [27]. Ngƣời ta đã tìm thấy
pheromone ở 350 loài côn trùng thuộc 12 bộ khác nhau (Hinhiclo) và theo
phỏng đoán của Hall (1965) trong tƣơng lai ngƣời ta có thể tìm thấy tác

dụng pheromone ở tất cả các bộ của côn trùng. Còn theo Wright (1960) cho
biết đã có trên 400 chất có tác dụng hấp dẫn đối với côn trùng tuy nhiên
không phải tất cả cá chất đó đều là Pheromone. Ngoài ra pheromone còn
đƣợc tìm thấy ở nhiều loài động vật khác nhƣ Giáp xác, Nhện, Cá, Rắn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




9
Sơn Dƣơng, Chuột… Mặc dù động vật có xƣơng sống có sử dụng
pheromone để trao đổi tín hiệu nhƣng côn trùng mới là kẻ sử dụng
pheromone một cách thiện nghệ nhất. Nhƣ pheromone của bọ Nhật bản và
bọ gypsy có thể dùng để điều khiển nhiều hành vi khác nhau nhƣ theo dõi,
kiểm soát số lƣợng qua việc kết đôi và đẻ trứng, tiết ra chất Bombykol để
hấp dẫn bạn tình. Tốc độ và khối lƣợng các công trình nghiên cứu về
pheromone ở côn trùng cũng nhƣ ở các nhóm động vật khác ngày càng
đƣợc quan tâm nhiều hơn chỉ tính riêng nhóm nghiên cứu của giáo sƣ
Kuwahara ở trƣờng Đại học tổng hợp Kyoto Nhật Bản trong vòng 31
năm (1967-1998) đã có 250 công trình liên quan đến Pheromone đƣợc
công bố [27]. Nhƣ vậy có thể nói pheromone đã trở thành chủ đề hấp
dẫn cho các nhà nghiên cứu trên thế giới, nó đã trở thành dòng suy nghĩ
mới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Sau những quá trình nghiên cứu về pheromone con ngƣời đã tìm ra
đƣợc bản chất của loại hợp chất này và bắt đầu sản xuất các dạng
pheromone nhân tạo khác nhau để ứng dụng vào công tác phòng trừ sâu hại
của một số tác giả: Burkholder (1979); Levinson (1979); Hodges (1984) và
một tác giả khác. Cũng đã có một số phƣơng pháp phòng trừ các loài sâu
hại nhƣ: sử dụng các loại bẫy đèn, bẫy hố, mồi nhử và cả sử dụng thuốc trừ
sâu đã diễn ra khá phổ biến trƣớc đây, tuy nhiên hiệu quả phòng trừ của

chúng chƣa cao mà còn ảnh hƣởng đến các sinh vật khác và môi trƣờng
xung quanh. Trong những năm gần đây con ngƣời đã nghiên cứu chi tiết
hơn về pheromone của một số loài sâu hại thì việc phát triển ứng dụng các
loại bẫy đơn giản với mồi nhử pheromone nhân tạo để hấp dẫn các loài này
đã giúp chúng ta xây dựng đƣợc nhiều loại chất dẫn liệu sinh học quan
trọng trong việc phòng trừ có hiệu quả, hạn chế tối thiểu việc sử dụng thuốc
trừ sâu, ngăn ngừa kịp thời sự xâm nhiễm và nguy cơ gây hại của các loài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not

read....



data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....



data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....



×