Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Bài tiểu luận địa lý kinh tế phan vung kinh te dong bang song cuu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.17 KB, 2 trang )

“THẾ” VÀ “LỰC” CHO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG CẤT CÁNH HỘI NHẬP
Theo đồng chí Huỳnh Phong Tranh, Phó trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ, tình hình kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL vẫn còn nhiều hạn chế thể
hiện ở 4 lĩnh vực bức xúc là cơ sở hạ tầng yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực, các
chỉ số về giáo dục, đào tạo dạy nghề trong vùng đều thấp hơn so mức bình quân cả
nước. Kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào khai thác các tiềm năng
sẵn có là chính, tăng trưởng chưa ổn định và vững chắc, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm và doanh nghiệp trong vùng còn thấp, thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài còn hạn hẹp; tầm nhìn chiến lược và công tác chỉ đạo phát triển đối
với vùng còn nhiều lúng túng, thiếu tập trung.
Quy hoạch đồng bộ tạo sức liên kết vùng
Tại diễn đàn kinh tế ĐBSCL năm 2007 vừa được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh
ngày 1/6, đại biểu các tỉnh trong khu vực đều thống nhất cần quy hoạch và phân vùng
kinh tế tạo điều kiện cho ĐBSCL phát triển hiệu quả và bền vững. Đây là yêu cầu cấp
thiết trong tình hình hội nhập kinh tế, nhằm xây dựng tầm nhìn và chiến lược phát triển
cho vùng, mối liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh để phát huy tiềm năng, thế mạnh, nắm bắt
cơ hội và hạn chế tối đa cạnh tranh cục bộ theo kiểu “mạnh ai nấy làm”.
Thực tế cho thấy việc quy hoạch các vùng sản xuất, vùng nguyên liệu, quy hoạch ngành
công nghiệp chế biến phải đứng ở góc độ khu vực, tăng cường mối quan hệ hợp tác, liên
kết phát triển giữa các tỉnh trong vùng, giữa vùng ĐBSCL với thành phố Hồ Chí Minh và
các vùng trong cả nước. Việc quy hoạch ĐBSCL phải đồng bộ bao gồm quy hoạch tổ
chức sản xuất, phân vùng quy hoạch sản xuất, quy hoạch ngành kinh tế kỹ thuật, quy
hoạch các khu kinh tế kỹ thuật ( khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu dịch vụ...);
quy hoạch tổ chức dân cư, tổ chức hệ thống đô thị, thị trấn, khu dân cư đô thị hóa; quy
hoạch tổ chức hệ thống hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và đời sống xã hội.
Từ đặc điểm là vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, quy hoạch phát triển nông
nghiệp ĐBSCL cần theo hướng công nghệ cao và sinh thái bền vững. Hiện nay, sự
chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp đang diễn ra sôi động với
việc chuyển từ sản xuất lúa sang nuôi tôm, chuyển rừng sang nuôi thuỷ sản một cách tràn
lan, thiếu quy hoạch đồng bộ dẫn đến nguy cơ phá huỷ môi trường tự nhiên. Vì vậy cần
xác định quy hoạch và phân vùng dựa trên điều kiện sinh thái đặc thù của vùng, từng tiểu


vùng, điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, xác định sản xuất lúa đến mức nào để đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, phát triển thuỷ sản đến đâu để đảm bảo môi trường sinh thái và gắn
kết với phát triển công nghiệp chế biến để tránh cảnh “thừa nguyên liệu”. Riêng cây ăn
quả là một tiềm năng lớn của ĐBSCL, dự kiến đến năm 2010 diện tích cây ăn quả đạt
425.000 ha, sản lượng 3,7 triệu tấn và năm 2020 diện tích đạt 450.000 ha, sản lượng 4,5
triệu tấn đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, thực hiện quy hoạch các vùng
trồng cây ăn quả ổn định tại các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre và Đồng Tháp.
Trong lĩnh vực thương mại và du lịch, ĐBSCL tiếp tục đẩy mạnh kết nối với các khu
kinh tế cửa khẩu, các chợ đường biên giới Campuchia, quy hoạch phát triển mạng lưới
chợ đầu mối ở góc độ toàn vùng thuận lợi về giao thông đường bộ và đường sông tạo
điều kiện cho tiêu thụ sản lượng nông sản hàng hóa.
Với mục tiêu hiện đại hóa- công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển công
nghiệp là giải pháp để ĐBSCL giàu lên trong đó ưu tiên là công nghiệp chế biến nông sản
- thuỷ sản dựa vào thế mạnh vùng nguyên liệu, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để
huy động nguồn vốn, nguyên vật liệu và lao động địa phương đồng thời phát triển một số


ngành công nghiệp truyền thống, công nghiệp hiện đại như đóng tàu, công nghệ điện tử viễn thông, công nghệ năng lượng, công nghệ sinh học. Việc đầu tư hình thành các khu,
cụm công nghiệp cần tính đến quy mô phù hợp, vị trí, thị trường, ngành nghề..., hướng
đến thành lập Hiệp hội các khu, cụm công nghiệp vùng ĐBSCL thực hiện kêu gọi thu hút
đầu tư trong và ngoài nước, hạn chế tình trạng trùng lặp và cạnh tranh không cần thiết
giữa các tỉnh trong khu vực. Các doanh nghiệp cần thực hiện liên kết ngành, nghề, xây
dựng hình ảnh thương hiệu riêng cho từng lĩnh vực, hướng đến thành lập các hiệp hội, tập
đoàn kinh tế trong vùng để nâng cao sức mạnh trong quá trình hội nhập.
Cần một “nhạc trưởng” cho phát triển vùng
Cùng với thực hiện các quy hoạch đồng bộ về sản xuất, từng lĩnh vực, ĐBSCL còn giải
quyết nhiều vấn đề cấp bách khác như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn
nhân lực... Điều cần thiết là vai trò của một “nhạc trưởng” trong phát triển kinh tế khu
vực. Hiện nay các tỉnh đã từng bước xây dựng các chương trình liên kết như chương trình
liên kết Vĩnh Long– thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long - Cần Thơ trong phát triển kinh

tế- xã hội, chương trình hợp tác phát triển du lịch An Giang- Cần Thơ– Kiên Giang...
Việc liên kết sẽ phát huy hiệu quả mạnh mẽ khi có một “nhạc trưởng” chuyên trách toàn
vùng, chủ động tổ chức các chương trình dự án kinh tế cấp vùng và liên tỉnh, tạo ra “thế”
và “lực” mới cho ĐBSCL trong hội nhập kinh tế, phát huy cao tiềm năng và thế mạnh, để
ĐBSCL làm tốt vai trò là vùng trọng điểm an ninh lương thực của cả nước và là “đầu tàu
nông nghiệp ASEAN”./.



×