Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

KINH NGHIỆM CHỈ đạo LỒNG GHÉP GIÁO dục kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.3 MB, 90 trang )

PHÒNG GD&ĐT QUẬN BẮC TỪ LIÊM
TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂY TỰU B

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIÖM CHØ §¹O

LåNG GHÐP GI¸O DôC KÜ N¡NG SèNG
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

Lĩnh vực/ Môn: Quản lý
Tên tác giả: Nguyễn Thị Mai Hương
Chức vụ: Hiệu trưởng


NĂM HỌC 2013 -2014

2


MỤC LỤC

3


Lời nói đầu
Trong xã hội hiện đại, con người muốn sống tích cực và hòa nhập với
cộng đồng thì cần phải được trang bị những kiến thức và rèn luyện kĩ năng
sống.“Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,


phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).
Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho HS phát triển học tiếp
các bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến
thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm
vốn kinh nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục
tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt
“đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu
mới của xã hội.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi
trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như
vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,... để các em có thể tự tin, chủ động
không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại
lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập
phấn đấu vươn lên.
Trong thực tế hiện nay, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà
trường đã được chú ý đến, song nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ
chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kĩ năng sống cho học sinh.Bên
cạnh đó, công tác chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống của ban giám hiệu các nhà
trường vẫn còn hạn chếvà chưa có chiều sâu.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh,
tôi đã viết sáng kiến với đề tài: “Kinh nghiệm chỉ đạo lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh Tiểu học”.
Đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã nghiên cứu thực hiện, áp
dụng và đạt kết quả khả quan. Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài,
bản thân được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trường sư phạm, bạn
bè đồng nghiệp và sự hỗ trợ của các giáo viên trong trường nhưng không tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong các đồng chí, đồng nghiệp đóng góp ý kiến để

cho đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Người viết
Nguyễn Thị Mai Hương

4


PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục kỹ năng sống (KNS) cho trẻ là việc rất quan trọng, ảnh hưởng
tới quá trình hình thành nhân cách cho trẻ đến tuổi trưởng thành. Việc làm quen
với các môn học về KNS như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm, khả
năng lãnh đạo, tổ chức, thậm chí là giải quyết các vấn đề liên quan đến tệ nạn xã
hội, vấn đề xã hội, hỏa hoạn và nhiều vấn đề khác trong cuộc sống… sẽ giúp các
em tự tin, chủ động và biết cách xử lý mọi tình huống trong cuộc sống và quan
trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh
của các em. Giáo dục KNS có thể bắt đầu từ tiểu học, thậm chí còn có thể ở tuổi
mầm non. Bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và
nhân cách. Giáo dục KNS cho trẻ ở lứa tuổi nhỏ này bao gồm những nội dung
đơn giản, gần gũi như biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước mọi
người, biết trò chyện với cha mẹ và người thân, biết thực hiện các hành vi vệ
sinh, biết bảo vệ mình trước người lạ để không bị xâm hại, lạm dụng…
Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục công bố, có 37% sinh
viên ra trường không tìm được việc làm do thiếu kĩ năng thực hành xã hội (khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo, giao tiếp…); 83% sinh viên ra trường bị các nhà
tuyển dụng đánh giá là thiếu KNS. Nhiều em học giỏi ngoài điểm số cao thì khả
năng tự chủ và khả năng giao tiếp lại rất kém. Các em chưa bao giờ được dạy
cách đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống như cha mẹ li hôn, bạo lực
gia đình, gia đình phá sản, kết quả học tập kém... Các em không được dạy để

hiểu về giá trị của cuộc sống. Do đó, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ
các mặt “đức, trí, thể, mỹ”…
Việc rèn luyện KNS cho thế hệ trẻ ngày nay là trách nhiệm của gia đình
(cốt nõi, cơ bản), của toàn xã hội, nhưng trước hết đó là trách nhiệm các của nhà
trường. Trong các năm qua, nhiều trường cũng chú trọng rèn KNS cho học sinh
nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Nói như ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó trưởng ban
thanh niên trường học:“ Học KNS cũng giống như học bơi, muốn biết bơi thì
phải xuống nước tập bơi chứ không phải đứng trên bờ nhìn mà biết được”. KNS
sẽ được hình thành một cách tự nhiên và hiệu quả trong những môi trường hoạt
động cụ thể chứ không từ những bài giảng trên lớp, không tạo thành môn học
riêng. Bộ GD&ĐT đã chọn phương án lồng ghép giáo dục KNS vào chương
trình học, các môn học, các hoạt động của nhà trường
Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng này tại các trường Tiểu học mới chỉ
dừng lại ở các tiết học và đạo đức, nhiều giáo viên còn hiểu nhầm “môn đạo đức
mới là môn có trách nhiệm giảng dạy KNS” do đó hiệu quả đem lại không cao.
Mặt khác, thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển đã từng nói “Việc đưa kỹ
năng sống trở thành một môn học chính khóa còn còn phụ thuộc vào khung
5


chương trình chung hiện nay. Nếu sau này khung chương trình cho giáo dục
phổ thông có thay đổi thì việc này sẽ được xem xét”. Giải pháp trước mắt là sẽ
lồng ghép giáo dục KNS trong các môn học, từng bài học, chủ đạo là môn đạo
đức sau đó là các môn lịch sử, ngoại ngữ,…Vì KNS là cái có sau những trải
nghiệm thực tế nên việc lồng ghép này sẽ cụ thể hóa thành từng trường hợp,
hoàn cảnh và yêu cầu học sinh xử lý.
Việc Bộ GD & ĐT xem xét và đưa môn kỹ năng sống lồng ghép vào
chương trình giảng dạy là rất cần thiết. Song công tác giáo dục kỹ năng sống
trong trường phổ thông cho các em còn gặp nhiều hạn chế. Bởi “Đối tượng

hưởng lợi của giáo dục KNS trong trường phổ thông chủ yếu là nhóm có nguy
cơ thiếu kỹ năng sống cao, lại thông qua các hoạt động ngoại khóa nhiều nên
chưa đem lại hiệu quả rõ rệt. Nếu thông qua các dự án thì tính bền vững không
cao ”- TS Lê Thu Thủy, viện khoa học Giáo dục Việt Nam . Còn theo bà
Nguyễn Thị Thanh Mai, viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thì “Nội dung các
bài học vốn đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó chèn giáo dục kỹ năng sống vào.
Ngoài ra đội ngũ giáo viên cũng chưa được đào tạo cơ bản để dạy về kỹ năng
sống trong từng môn học, bài giảng ”. Thêm vào đó, chính các em học sinh
cũng chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trau dồi kỹ năng sống, chưa tích cực
chủ động tham gia các hoạt động trải nghiệm để tạo lập, rèn luyện kỹ năng sống.
Trước thực trạng trên, là một cán bộ quản lý chỉ đạo các hoạt động
chuyên môn trong trường Tiểu học, tôi luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp
phù hợp nhằm đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy lồng ghép
trong các môn học và một số hoạt động trong nhà trường. Chính vì vậy, tôi dành
thời gian gần 2 năm triển khai nghiên cứu và áp dụng tại 2 trường Tiểu học
những “Kinh nghiệm chỉ đạo lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Tiểu học”. Đây là nội dung mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất
nhiều đồng nghiệp làm công tác quản lý quan tâm suy nghĩ làm thế nào học sinh
của trường mình có những KNS tốt cho tương lai sau này, trở thành những con
người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết
sức quan tâm.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích: Chỉ đạo nội dung giáo dục lồng ghép KNS cho HS tiểu học, giúp
HS ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp HS hiểu biết
về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn
hoá, hiểu biết và chấp hành pháp luật…;giúp học sinh có đủ khả năng tự thích
ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc
2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu những cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, những thận lợi và khó
khăn của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.


6


- Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng
sống.
- Đưa ra một số kinh nghiệm chỉ đạo lồng ghép giáo dục KNS cho học
sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm sau khi áp dụng đề tài.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp phân tích tổng hợp ( Phân tích nguyên nhân, tổng hợp kết
quả)
- Phương pháp so sánh ( So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài)
- Phương pháp thực hành: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua
các hoạt động, để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và
từ đó hình thành các kỹ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường,
làm tốt công tác xã hội hoá trong việc giáo dục kỹ năng sống.
IV. ĐỐI TƯỢNG -THỜI GIAN - PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng :
Các em học sinh trường tiểu học Tây Tựu A, Tây Tựu B
Các giáo viên giảng dạy tại 2 trường tiểu học Tây Tựu A, Tây Tựu B.
2. Thời gian:
Từ ngày 9/9/2012 đến 19/9/2012: Lập đề cương.
Từ ngày 20/9/2012 đến 30/10/2012: Nghiên cứu và áp dụng thử trường
Tây Tựu A.
Từ ngày 01/11/2012 đến 30/11/2013: Áp dụng rộng rãi 2 trường.
Từ ngày 01/12/2013 đến 15/12/2013: Cùng giáo viên trong trường rút ra bài
học.

Từ ngày 16/12/2013 đến 30/2/2014: Hoàn tất đề tài.
3. Phạm vi:
Các tiết học hàng ngày, các tiết hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khoá,
…của HS ở 2 trường tiểu học Tây Tựu A, Tây Tựu B.

7


8


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN và THỰC TIỄN
1.Cơ sở lí luận:
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống
có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại…Kĩ năng sống đơn
giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với
những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng
giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của
mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập
của trẻ tại trường. Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường TIỂU HỌC áp
dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao
tiếp tích cực với những người khác. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát
triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo

bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống
đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung
sống.
2.Cơ

sở thực tiễn:

Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008
của Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng
trường học thân thiện học sinh tích cực" trong các trường phổ thông giai đoạn
2008 - 2013, trong đó nội dung: Rèn luyện kĩ năng sống phù hợp với lứa tuổi
của học sinh.
Căn cứ nhiệm vụ năm học của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn
luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Rèn luyện KNS cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội,
các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những
kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích
cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước
vào đời tự tin hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế
giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển
9


mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng
đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ
em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo
đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần
tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ
trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu

chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ.
Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có
những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự
sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong
thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân
mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý
người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục
đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám
dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ
là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.
Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự
phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phòng
ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học. Phụ huynh
vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần
thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt
động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống
Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực
tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh
ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan
tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là
ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần
học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho
cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những
suy nghĩ, trăn trở.
Vì vậy, việc Bộ GD&ĐT đưa ra môn kĩ năng sống lồng ghép vào chương
trình giảng dạy là rất quan trọng và rất cần thiết. Việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh ngày càng trở nên thiết yếu nhằm góp phần đào tạo “con người mới”
với đầy đủ các mặt “ đức, trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, “nhân, nghĩa,
trí, chí, dũng, liêm”…
Năm học 2009-2010, lần đầu tiên Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo đưa nội dung

giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào chỉ thị của năm học. Giáo dục kĩ năng
sống là giáo dục cho học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ
xã hội, từ đó từng cá nhân mới có được niềm tin vào bản thân sau đó là cuộc
sống và xã hội. Giáo dục kĩ năng sống sẽ giúp các em phát triển cả về thể chất
và tinh thần từ đó các em biết tự bảo vệ mình, tránh stress và khủng hoảng tâm

10


lí. Như vậy, việc đưa vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào các nhà
trường hiện nay đã giúp phần nào giải quyết được nhu cầu trong xã hội .
Ngạn ngữ có câu “Gieo hành vi, gặt thói quen; gieo thói quen, gặt tính
cách…”. Vì vậy, các hình thức giáo dục KNS cho học sinh phải phù hợp với lứa
tuổi, cấp học, văn học của từng vùng…Điều quan trọng là cách giáo dục cần linh
hoạt sao cho các em thấy gần gũi với cuộc sống, với bản thân, với gia đình, nhà
trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách vở hay những lời nói suông. Vì vậy,
việc giáo dục KNS cho các em phải bắt buộc từ việc định hướng và định hình
cho các em những hành vi tốt đẹp.

11


CHƯƠNG II
TRỰC TRẠNG VẤN ĐỀ QUẢN LÝ và GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ QUẢN LÍ VÀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH

1. Vấn đề giáo dục kĩ năng sống:
Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ là việc rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá

trình hình thành nhân cách cho trẻ cho đến tuổi trưởng thành. Vấn đề này còn bị
bỏ ngỏ trong chương trình của hệ thống giáo dục nước ta. Dường như chương
trình giáo dục bậc phổ thông chỉ tập chung vào việc giảng dạy kiến thức, bỏ
quên việc giáo dục KNS cho học sinh. Tiến sĩ tâm lí học Nguyễn Thị Oanh nói
rằng: “Tuổi trẻ hiện nay phải tự đương đầu với nhiều vấn đề tâm lí xã hội phức
tạp trong cuộc sống. Kĩ năng sống là cái cần trau dồi suốt đời”. Tuy nhiên, việc
giáo dục các kĩ năng sống hiện nay còn đang trong tình trạng mỗi nơi dạy một
kiểu, mỗi nơi dạy kĩ năng sống theo một cách khác nhau và phụ thuộc hoàn toàn
vào giáo viên. Nói một cách khác, trình độ của giáo viên đến đâu thì học sinh sẽ
được dạy kĩ năng sống theo cách của giáo viên đó, chứ không dựa trên một giáo
trình cơ bản nào đó. Hình thức tổ chức và nội dung giáo dục KNS tại nhà trường
hiện nay hầu hết vẫn nặng về thuyết giảng kết hợp hỏi - đáp, giống như sinh
hoạt chuyên đề tập thể hơn là thực hành để rèn luyện và sở hữu kỹ năng. Đặc
biệt, gần đây một số trung tâm, như giao tiếp, thuyết trình, … Nói tóm lại, trong
các trường phổ thông hiện nay chưa có một tài liệu chính thống về môn học này
để giúp các giáo viên, phụ huynh và học sinh hiểu thấu đáo và chính xác hơn về
môn học cần thiết.
2. Quản lý hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh:
Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phổ thông trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng
đồng thì đó là các bậc phụ huynh, ông bà, họ hàng thân thích, những người lớn
tuổi ,…Sở dĩ các hoạt động giáo dục kĩ năng sống diễn ra nhiều, sôi nổi nhưng
chưa tạo nên chuyển biến rõ rệt, sâu sắc trong nhận thức, thái độ , hành vi của
học sinh vì các nhân tố trên chưa thể hiện và đảm nhiệm tốt vai trò của mình.
Đối với người lớn tuổi, những người trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
ngày của học sinh, không hẳn ai cũng có đủ khả năng dạy kĩ năng sống cho con
em mình. Nhiều người lớn tuổi cũng thiếu các kỹ năng sống cơ bản. Vì thế, các
bậc phụ huynh, ông bà, người thân muốn con cái mình hoàn thiện dần các kỹ
năng sống liên tục, bởi “ Kỹ năng sống là cái cần trau dồi suốt đời”. Về phía
các thầy cô giáo, thứ trưởng bộ GD&ĐT - ông Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh:

“KNS của một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều ứng xử của
các thầy cô với học sinh trong môi trường giáo dục còn chưa đạt thì không thể
nói dến những ứng xử ngoài xã hội”.
12


Bên cạnh đó, vì KNS là cái có sau những trải nghiệm thực tế nên việc
lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy sẽ không dừng lại ở mức giảng
dạy lý thuyết mà sẽ phải cụ thể hóa thành từng trường hợp, hoàn cảnh và yêu
cầu học sinh xử lý. Tuy nhiên, tại từng đơn vị, từng địa phương, từng môi
trường học tập khác nhau, yêu cầu về kỹ năng sống sẽ không giống nhau và đặc
biệt là tùy Kinh nghiệm chỉ đạo lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh.
Đối tượng học sinh khác nhau, do đó việc triển khai nội dung giáo dục
KNS cũng phải “Tùy tình hình cụ thể, từng địa phương có thể chủ động khai
thác các kỹ năng sống trọng điểm cho học sinh của địa phương mình.”
Chính vì những lí do trên mà hiện nay, vấn đề quản lí các hoạt động giáo
dục KNS đặc biệt là công tác quản lí của các trường học trong việc chỉ đạo lồng
ghép giáo dục KNS cho học sinh đang là một bài toán khó đối với những nhà
quản lí nhất là những người trực tiếp quản lí các hoạt động chuyên môn trong
nhà trường.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ QUẢN LÍ VÀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂY TỰU A, B:

1.Vài nét về trường Tiểu học Tây Tựu A và Tây Tựu B:
Trong gần hai năm nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi rất may mắn được
làm công tác quản lý ở cả 2 trường TH Tây Tựu A và TH Tây Tựu B. Trong
những năm trở lại đây, hoạt động Dạy và Học ở 2 nhà trường đạt được những
kết quả đáng mừng. Nhiều năm liền 2 trường luôn đạt danh hiệu trường Tiên
tiến, là các trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Học sinh học lực giỏi,

khá tăng hàng năm. Đội tuyển thi viết đẹp, thi giải toán qua mạng luôn đạt thành
tích cao cấp Huyện, cấp Thành phố. Năm học 2008-2009, trường TH Tây Tựu A
được bằng khen của UBND huyện Từ Liêm trong phong trào thi đua xây dựng
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Tất cả những thành tích đó đã tạo đà
thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Tuy nhiên, là trường nằm trên địa bàn của một xã thuần nông, đa phần
học sinh đều là con em làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên
việc đầu tư cho học tập cũng như các hoạt động khác cho con em mình còn hạn
chế. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai thực hiện các phong trào,
hoạt động của nhà trường. Mặt khác, khi tìm hiểu thực trạng các gia đình đã giáo
dục Kỹ năng sống cho con em trẻ ở lứa tuổi Tiểu học như thế nào, tôi dễ dàng
nhận ra điểm yếu xuất phát từ yếu tố trình độ dân trí điều kiện kinh tế, xã hội,
gia đình và nguyên nhân chủ yếu là do các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong
việc quản lý gia đình, thiếu những kiến thức, kỹ năng sống cơ bản cần thiết, ít
gần gũi với con cái khiến trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm, thiếu những hiểu biết
tối thiểu trong việc tự rèn luyện và bảo vệ mình… Bên cạnh đó, nhận thức của
một số phụ huynh học sinh còn phiến diện, họ coi trọng các môn học văn hóa
như Tiếng Việt, Toán… bởi theo chỉ có học giỏi mới có tương lai…Vì vậy, họ
13


coi nhẹ các hoạt động mang tính tập thể và không đầu tư, quan tâm đến hoạt
động này của các em.

2. Vấn đề quản lý, chỉ đạo hoạt động giáo dục KNS cho học sinh
ở trường TH Tây Tựu A, B:
Với một nội dung và chương trình giáo dục Tiểu học hiện nay thì công tác
giáo dục kĩ năng sống có một tầm quan trọng đặc biệt, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp giáo dục xã Tây Tựu. Toàn xã với hơn 1400 học sinh Tiểu học, các em là
những đội viên, thiếu niên, nhi đồng đang học tập và sinh hoạt ở 2 nhà trường.

Đa phần các em đều là những học sinh ngoan, chăm học, có nhiều tiến bộ.
Từ năm học 2007-2008 đến nay bằng việc thực hiện những biện pháp giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh, 2 trường tiểu học đã thu được kết quả đáng khích
lệ: 100% học sinh được đánh giá thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ học tập và vâng
lời cha mẹ, thầy cô giáo có nhiều cố gắng trong học tập và tu dưỡng đạo đức,
tích cực tham gia các hoạt động của trường lớp, các hoạt động nhân đạo, từ
thiện… Điều đó cho thấy công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà
trường được thực hiện có hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả trên thì công tác giáo dục kỹ năng sống cho thiếu
nhi ở 2 trường Tiểu học Tây Tựu vẫn còn một số hạn chế :
Thứ nhất: Chưa đạt được sự liên kết, phối hợp nhuần nhuyễn giữa nhà trường
với hội CMHS và các đoàn thể địa phương để tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong công tác giáo dực kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Thứ hai : Sự eo hẹp về mặt thời gian thông qua các hoạt động là một trở ngại
đáng kể trong việc đẩy mạnh công tác giáo dục kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Thứ ba : Việc giảng dạy và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh vẫn mới chỉ
dừng lại ở những tiết học, bài học, môn học có đặc trưng nổi bật có liên quan
mật thiết đến nội dung giáo dục kỹ năng sống như môn Khoa học, môn Đạo đức
… và hầu như không có một giáo trình hay tài liệu cụ thể nào phục vụ cho nội
dung này.
Thứ tư: Một vài giáo viên nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nên còn coi nhẹ nội dung này trong công tác
giáo dục.
Thứ năm : Đa số gia đình các em đều làm nghề nông nghiệp, trình độ dân trí
thấp. Một bộ phận CMHS không có việc làm ổn định, cá biệt có MCHS rơi vào
tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, … đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng học
sinh. Cũng có nhiều bậc CMHS do mải làm ăn nên không dành thời gian cho
việc trò chuyện và chăm sóc con cái. Một số CMHS có tư tưởng “ trăm sự nhờ
cô ”, khoán trắng cho nhà trường việc giáo dục con cái.
Tất cả những yếu tố trên đã làm cho việc giáo dục kỹ năng sống trong nhà

trường gặp không ít khó khăn.
14


Qua tiến hành khảo sát (lần 1) ở trường TH Tây Tựu A đầu năm học
2012-2013 với chủ đề “ Kĩ năng của em”, kết quả như sau:
Tổng số học
sinh
806

Kĩ năng tốt

Có hình thành kĩ năng

Kĩ năng chưa tốt

SL

%

SL

%

SL

%

128


15,9

257

31,9

421

52,2

Thực hành thảo luận nhóm
Tổng số
học sinh

806

Biết cách lắng nghe, hợp
tác

Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
khỏi nhóm

SL

%

SL

%


311

38,6

495

61,4

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Tổng số học
sinh

806

Biết cách ứng xử hài hòa, khá
phù hợp.

Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi
chơi.

SL

%

SL

%

390


48,4

416

51,6

Do vậy, là người làm công tác quản lí trong nhà trường tiểu học, tôi nhận
thấy cần có những biện pháp tích cực nhằm chỉ đạo có hiệu quả hoạt động giáo
dục kỹ năng sống trong nhà trường.

15


CHƯƠNG III
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
I. BỒI DƯỠNG VÀ NÂNG CAO NHẬN THỨC TƯ TƯỞNG VÀ KIẾN
THỨC CHO CÁN BỘ GIÁO VIÊN VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
Để việc quản lý giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường đạt kết quả, người
cán bộ quản lý cần giúp đỡ cho giáo viên nhận thức được việc giáo dục kỹ năng
sống cho học là một việc làm hết sức quan trọng, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Do vậy, hơn ai hết, người giáo viên phải là người có được những nhận thức
đúng đắn ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Bởi vì, có nhận thức rõ điều đó thì giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm
mới có kế hoạch, biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng học sinh và việc
giáo dục mới mang lại hiệu quả.
Nhận thức được điều đó, trong quá trình chỉ đạo, chúng tôi nhận thấy cần
phải giúp giáo viên hiểu rằng:
Thứ nhất : Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá
nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước

cuộc sống, có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại …Kỹ
năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả
năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng
sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống
và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống một con
người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm,
va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kỹ
năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian
học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc
đời và luôn luôn bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống
biến động. Người trưởng thành cũng vẫn cần học kỹ năng sống.
Thứ hai : Quá trình giáo dục kỹ năng sống là một quá trình lâu dài và có mối
quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học, nó có tác động qua lại và ảnh hưởng
đến sự hình thành phẩm chất, nhân cách của học sinh. Người giáo viên cần
nhận rõ: Giáo dục văn hoá cho học sinh phải kết hợp với giáo dục kĩ năng sống
thông qua các môn học, từng giờ học ; các hoạt động ngoài giờ lên lớp;… Giáo
dục kĩ năng sống giúp các em biết vận dụng hiểu biết của mình vào thực tế hình
thành tình cảm bạn bè, tình cảm gắn bó với trường, với lớp, với tập thể, say mê,
hứng thú học tập, giúp các em hiểu biết sâu sắc hơn về con người Việt Nam, về
truyền thồng dân tộc tạo cho các em tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về
truyền thống dân tộc .
16


Thứ ba : Nêu gương có ý nghĩa to lớn trong giáo dục kĩ năng sống, đặc biệt
trong việc phát triển nhận thức và tình cảm đạo đức của học sinh. Đối với học
sinh tiểu học, hành vi tốt đẹp đáng được biểu dương và học tập phải là hành vi
của con người mà các em phải tín nhiệm, quý mến. Do vậy, hình thức nêu
gương cũng là một khâu quan trọng trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục
kĩ năng sống. Trẻ em nhìn người giáo viên một cách tổng quát. Đối với trẻ em

tiểu học, ngoài cha mẹ, thầy cô giáo có vị trí hết sức quan trọng và có sức tác
động rất lớn đối với trẻ. Có thể trong khoảng thời gian dài những điều cha mẹ
dạy bảo, thuyết phục mà trẻ nhỏ không chịu nghe theo, không chấp nhận nhưng
nếu cũng với những điều đó được thầy cô giáo yêu cầu thì các em lại phục tùng
một cách tuyệt đối. Có thể nói rằng hình ảnh của thầy cô giáo ở bậc tiểu học là
hình ảnh khó phai mờ nhất trong tâm trí học sinh. Điều này xuất phát từ sự
chuẩn mực của thầy cô giáo tiểu học. Nếu thầy cô viết chữ đẹp, học sinh cũng
viết chữ đẹp. Thầy cô yêu môn học nào, học sinh cũng sẽ yêu môn học đó. Nếu
thầy cô quan tâm bảo vệ môi trường, học sinh cũng sẽ quan tâm đến vấn đề đó.
Nếu thầy cô làm việc và sinh hoạt đúng giờ giấc, cẩn thận, có tinh thần trách
nhiệm, học sinh cũng sẽ cố gắng giống như thế. Như vậy, rõ ràng thầy cô giáo
luôn luôn là một hình mẫu lý tưởng, học sinh sẽ dễ dàng bắt chước cô từ hành
động đến lời nói.
Vì vậy, nhân cách người thầy giáo là một nhân tố đảm bảo cho chất lượng
giáo dục. Nhà giáo dục Nga K.D. Usinxki đã từng nhấn mạnh: “Trong giáo dục,
tất cả đều phải dựa vào nhân cách của người thầy giáo, vì sức mạnh của giáo
dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người. Không một điều lệ và chương
trình nào dù được nghĩ ra một cách khéo léo đến đâu cũng không thể thay thế
được nhân cách con người trong sự nghiệp giáo dục” .
Như vậy sự thành công trong việc dạy học và giáo dục học sinh đòi hỏi
người thầy giáo phải có thế giới quan tiên tiến, những phẩm chất đạo đức cao
quý, thái độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp cao, trình độ văn hóa và xu
hướng sư phạm cao. Đặc biệt, đối với người giáo viên tiểu học, đối tượng của
học là trẻ em vừa qua tuổi mầm non, là những thực thể hồn nhiên với tâm hồn
trong trắng sẵn sàng và dễ tiếp thu sự giáo dục của nhà trường. Có thể nói
được rằng, dấu ấn của người giáo viên tiểu học hết mực thương yêu học trò, có
nhiệt tình sư phạm bao giờ cũng sâu sắc ảnh hưởng rất lớn đến cả cuộc đời của
trẻ.
Đối với học sinh tiểu học, người giáo viên là thần tượng, là trí tuệ, là tấm
gương soi lớn nhất, là lý tưởng của các em. Học trò tiểu học là một bản sao của

các thầy cô giáo, trong rất nhiều trường hợp đối với các em điều thầy nói là
chân lí, điều thầy làm là chuẩn mực. Học sinh tiểu học rất tin vào lời dặn dò,
vào việc làm của giáo viên hơn cả điều in trong sách, hơn cả điều cha mẹ dặn
dò, khuyên nhủ.

17


Do đó, giáo viên cần không ngừng tu dưỡng đạo đức, không ngừng rèn
luyện kĩ năng sống cho bản thân. Giáo viên phải là một tấm gương sáng. “Tấm
gương bao giờ cũng giá trị hơn lời giáo huấn”. Điều này nhắc nhở người giáo
viên cần phải trung thực, thẳng thắn trong cách đối xử với học sinh, phải công
bằng và đặc biệt khi đứng trước học sinh, giáo viên phải thực sự gương mẫu từ
cách ăn mặc đến cử chỉ, lời nói.
Tóm lại, nhận thấy việc nâng cao nhận thức cho giáo viên về giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy, trong quá trình
chỉ đạo, quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường, tôi thường xuyên có
kế hoạch cụ thể, bám sát nhiệm vụ năm học của ngành và điều kiện cụ thể của
nhà trương. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tọa đàm, hội thảo …
chúng tôi đã làm cho giáo viên nhận thức được hình ảnh người thầy là một
chuẩn mực về đạo đức, tác phong, lối sống. Người giáo viên phải biết tự hào về
nghề nghiệp của mình, xây dựng cho mình tình cảm yêu nghề, mến trẻ, say mê
công việc, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ cao cả mà nhân dân giao
phó “Chăm lo cho sự nghiệp trồng người”.
Bên cạnh đó, qua kinh nghiệm chỉ đạo, chúng tôi nhận thấy một trong
những yếu tố đảm bảo thành công cho mỗi hoạt động tập thể trong nhà trường
chính là kiến thức, kinh nghiệm sống, khả năng tổ chức và sự nhiệt tình, tâm
huyết của những cán bộ, giáo viên phụ trách. Trao đổi với những giáo viên
chúng tôi được biết, nhiều giáo viên mong muốn cho học sinh được tham gia
nhiều hơn vào các hoạt động tập thể phong phú, có tác dụng giáo dục kỹ năng

sống sâu sắc, song lại gặp khó khăn vì thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm, thiếu
ý tưởng hay thiếu khả năng tổ chức hoạt động hiệu quả. Cho nên, chúng tôi đã tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên : kiến thức, khả năng và lòng nhiệt tình
trong công tác tổ chức hoạt động thông qua các buổi chuyên đề hội thảo như :
“Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh – Nội dung và Biện pháp; … qua đây
phần nào chúng tôi cùng nhau tìm hiểu và nắm vững hơn về “KỸ NĂNG SỐNG
”…
VÍ DỤ: NHỮNG KIẾN THỨC VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG:
* Có nhiều cách phân loại kỹ năng sống:
Dựa vào môi trường sống:
- Kỹ năng sống tại trường học
- Kỹ năng sống tại gia đình
- Kỹ năng sống tại nơi làm việc
Dựa vào các lĩnh vực tâm lý :
- Kỹ năng nhận thức: Kỹ năng ra quyết định, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng giải
quyết vấn đề, kỹ năng tư duy tích cực, kỹ năng tư duy có phê phán …

18


- Kỹ năng xã hội: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng từ chối, kỹ năng quyết đoán, kỹ năng hợp tác, kỹ năng xây dựng
và duy trì các mối quan hệ liên hệ cá nhân, kỹ năng vận động …
- Kỹ năng quản lý bản thân: Kỹ năng chế ngự stress; kỹ năng làm chủ cảm xúc
tình cảm; kỹ năng nâng cao nội lực kiểm soát ...
* Kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Nhóm kĩ năng nhận thức:


Nhận thức bản thân


• Xây dựng kế hoạch
• Xác nhận điểm mạnh, điểm yếu của bản thân
• Khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu
• Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo
Nhóm kĩ năng xã hội:
• Kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ
• Kỹ năng giao tiếp không lời
• Kỹ năng thuyết trình và nói trước đám đông
• Kỹ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi
• Kỹ năng từ chối
• Kỹ năng hợp tác
• Kỹ năng làm việc nhóm
• Kỹ năng vận động và gây ảnh hưởng
• Kỹ năng ra quyết đinh
Nhóm kỹ năng quản lý bản thân :
• Kỹ năng làm chủ cảm xúc
• Phòng chống stress
• Vượt qua lo lắng, sợ hãi
• Khắc phục sự tức giận
• Quản lý thời gian nghỉ ngơi tích cực giải trí lành mạnh Bên cạnh đó,
chúng tôi còn tổ chức sưu tầm, tìm hiểu những tài liệu có liên quan về các tiết
dạy Kỹ năng sống cho học sinh từ những chương trình giáo dục của UNICEF
thông qua mang INTERNET để giáo viên có thể tham khảo và học tập như : các
bài dạy về “BÌNH ĐẲNG”; “TÌNH YÊU THƯƠNG”; “TINH THẦN TRÁCH
NHIỆM ”; “ THÍCH NGHI TRONG CUỘC SỐNG ” …
19


( Nội dung cụ thể ở phần phụ lục )

Tất cả những việc làm kể trên đã góp phần không nhỏ trong công tác bồi
dưỡng đội ngũ, nâng cao nhận thức và kiến thức cho giáo viên về giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học Tây Tựu A, B.
II. CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA
VIỆC LỒNG GHÉP VÀO GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC
Có nhiều cách giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhưng có lẽ trường tiểu học
là nơi có thể làm tốt công tác giáo dục kỹ năng sống. Như đã biết, trẻ tiểu học dễ
dàng học được những điều hay song cũng dễ dàng nhiễm điều xấu.
Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều yếu
tố. Với quan điểm “Giáo dục kỹ năng sống ở mọi nơi, mọi lúc”, ta có thể giáo
dục kỹ năng sống qua việc lồng ghép việc giảng dạy các môn học. Yêu cầu của
bậc tiểu học là phải dạy đủ, có chất lượng 9 môn học. Vì thế trên cơ sở nội dung
chương trình, sách giáo khoa của các môn học, người quản lý phải có kế hoạch
cụ thể chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống
thông qua tất cả các môn học, người quản lý phải có kế hoạch cụ thể chỉ đạo
giáo viên thực hiện tốt việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua tất cả
các môn học. Vì vậy, tôi đã chú ý định hướng cho giáo viên hình thành cho học
sinh những hành vi, những thói quen tốt thông qua việc giảng dạy các môn học
khác một cách linh hoạt sao cho giờ dạy nhẹ nhàng, hấp dẫn, phù hợp với tâm lý
lứa tuổi, giúp học sinh cảm thấy thoải mái, không bị gò ép mà luôn tự giác tham
gia các hoạt động do giáo viên tổ chức.

* Một số giờ học lồng ghép giáo dục kỹ năng sống ở trường TH Tây Tựu B.
Do đó để việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn
học đạt hiệu quả, tôi yêu cầu trong buổi sinh hoạt tổ chuyên môn cần đưa ra bàn
bạc thống nhất các nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp với từng môn học,
qua từng bài dạy, trong mỗi tuần và yêu cầu giáo viên khi soạn bài phải đưa nội
dung giáo dục kỹ năng sống vào ngay mục tiêu của bài học, phải thể hiện trong
giáo án của từng bài. Chúng tôi kiểm tra đánh giá thường xuyên qua tiết dự giờ
thăm lớp, kiểm tra giáo án xem nội dung giáo dục kỹ năng sống đã thể hiện

chưa, nội dung ấy được lồng ghép như thế nào … từ đó tôi có biện pháp nhắc
nhở điều chỉnh kịp thời.

20


1. Các môn học như Tự nhiên xã hội, Thủ công, Khoa học:
Nội dung những bài học này được lựa chọn rất kỹ lưỡng, phủ hợp với lứa
tuổi HS Tiểu học. Trong mỗi nội dung đó đều chứa đựng nội dung giáo dục Kỹ
năng sống cho học sinh thông qua tìm hiểu về thiên nhiên, đất nước, con người
…. Ví dụ môn Tự nhiên và xã hội lớp 1,2,3 hay môn Khoa học ở lớp 4, 5 là
những môn học sinh có khả năng giáo dục kĩ năng sống rất cao và phù hợp.
Cùng với những kiến thức cơ bản về con người, tự nhiên và xã hội, việc giáo
dục kỹ năng sống qua môn học sinh này sẽ giúp học sinh khắc sâu thêm những
kiến thức cơ bản thành thái độ và hành vi tích cực, thích nghi phù hợp, cần thiết
để giúp học sinh có thể xử trí hiệu quả các tình huống thực tế trong cuộc sống.
Ví dụ:
Trong quá trình họp tổ chuyên môn, trao đổi nội dung giáo dục kỹ năng
sống trong môn TNXH ở lớp 1,2,3 và môn Khoa học ở lớp 4,5, qua nghiên cứu
và tìm hiểu, chúng tôi thống nhất một số nội dung và phương pháp giáo dục kỹ
năng sống trong các môn học này như sau:
PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC CÓ
THỂ SỬ DỤNG
- HS tự ra quyết định nên và không nên - Hỏi – đáp.
Làm gì để cơ và làm gì để cơ và xương phát triển tốt; phê - Thảo luận nhóm
xường phát triển phán những hành vi sai như mang, vác - Đóng vai xử lí tình
tốt
nặng …
huống

TN&XH lớp 2 - Có trách nhiệm thực hiện các biện pháp
để cơ và xương phát triển tốt.
- Kĩ năng tự nhận thức vị trí của mình - Thảo luận nhóm
trong gia đình
- Trò chơi
Gia đình
- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm – công
TN & XH lớp 2
việc trong gia đình .
- Phát triển kỹ năng giao tiếp.
- Kỹ năng ra quyết định nên hay không - Thảo luận nhóm;
Phòng tránh ngộ
nên làm gì để tránh ngộ độc khi ở nhà.
cặp, chia sẻ
độc khi ở nhà
- Kỹ năng ứng phó với các tình huống.
- Trò chơi
TN & XH lớp 2
- Phát triển kỹ năng giao tiếp.
- Tìm kiếm và xử lý thông tin quan sát về - Quan sát (Tranh
nghề nghiệp của người dân ở địa phương. ảnh, thực tế …).
Cuộc sống xung
- Phân tích, so sánh về nghề nghiệp của - Thảo luận
quanh
người dân ở thành phố và nông thôn.
TN & XH lớp 2
- Phát triển kỹ năng hợp tác trong quá
trình thực hiện công việc
....................................
......................................................................

..............................
TÊN BÀI
MÔN - LỚP

KỸ NĂNG SỐNG CÓ THỂ GIÁO
DỤC TRONG BÀI

21


- Tư duy phê phán những người hút thuốc. - Thảo luận nhóm
Vệ sinh hô
- Giao tiếp, thương lượng để những người -Sắm vai, giải quyết
TN & XH lớp 3 thân không được hút thuốc nơi có nhiều vấn đề.
người nhất là nơi có nhiều trẻ em.
- Phân tích, xử lý thông tin về các vụ - Quan sát tranh
cháy ;
ảnh.
Phòng cháy khi - Đảm nhận trách nhiệm với bản thân đối - Thảo luận nhóm.
ở nhà
với việc phòng cháy khi đun nấu ở nhà.
- Sắm vai.
TN & XH lớp 3 - Ứng phó nếu có tình huống hỏa hoạn
(cháy).
- Tìm kiếm sự giúp đỡ, ứng xử đúng cách .
- Biết phân tích, phán đoán hậu quả của - Quan sát tranh
Không chơi các những trò chơi nguy hiểm đối với bản thân ảnh.
trò chơi nguy và người khác.
- Thảo luận nhóm.
hiểm

- Có trách nhiệm với bản thân và người - Sắm vai.
TN & XH lớp 3 khác trong việc phòng tránh các trò chơi
nguy hiểm
............................ ...................................................................................................
- Phân tích, xử lí thông tin để biết tác hại - Chuyên gia.
của nước bị ô nhiễm đối với sức khỏe con - Thảo luận, giải
người và các sinh vật khác.
quyết vấn đề tranh
- Có tư duy phân tích, phê phán các hành luận.
vi, việc làm không đúng làm ảnh hưởng - Trò chơi.
tới nguồn nước.
- Sắm vai .
Nước bị ô nhiễm - Đảm nhận trách nhiệm, cam kết thực
Khoa học 4
hiện các hành vi đúng, phê phán và lên án
các hành vi không đúng nhằm đảm bảo vệ
sinh nguồn nước.
............................ ...................................................................................................
- Phân tích và xử lí các thông tin về những - Chuyên gia.
nguy cơ bị xâm hại.
- Thảo luận, giải
Phòng tránh bị - Có trách nhiệm với bản thân và người quyết vấn đề tranh
xâm hại
khác trong việc phòng tránh các nguy cơ luận.
Khoa học 5
bị xâm hại.
- Trò chơi.
- Kĩ năng xử lí các tình huống khi bị xâm - Sắm vai
hại
Phòng tránh tai ...................................................................................................

nạn giao thông
đường bộ
Khoa học 5
............................ ...................................................................................................
22


2. Môn Đạo đức.
Ở Tiểu học, mỗi bài đạo đức là một mẫu hành vi cụ thể dạy trong 2 tiết: 1
tiết lý thuyết, 1 tiết liên hệ thực hành, nên ngay từ đầu năm học chúng tôi tổ
chức chuyên đề môn Đạo đức (cả 2 tiết) nhằm thống nhất phương pháp đồng
thời tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất để lồng ghép có hiệu quả các hành vi tốt đẹp
phù hợp với mỗi bài học: khi dạy cho học sinh các mẫu hành vi, các em phải đặt
mình trong các mẫu hành vi đó để đánh giá, lựa chọn và thực hiện theo các hành
vi chuẩn mực trong từng giờ học trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và
thực hành, lời nói đi đôi với việc làm thì việc giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh mới có hiệu quả. Chẳng hạn như: giáo viên hình thành cho học sinh kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử trong cuộc sống hàng ngày ở lớp, ở nhà hay ở
nơi công cộng.
Ví dụ:
TÊN BÀI
MÔN - LỚP
Gia đình em
Đạo đức lớp 1
............................
Biết nhận lỗi và
sửa lỗi
Đạo đức lớp 2
Lịch sự khi nhận
và gọi điện thoại

Đạo đức lớp 2
............................
Tự làm lấy việc
của mình
Đạo đức lớp 3
Tôn trọng khách
nước ngoài
Đạo đức lớp 3
............................
Biết bày tỏ ý kiến
Đạo đức lớp 4

PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC CÓ
THỂ SỬ DỤNG
- HS có kỹ năng tự nhận thức vị trí của - Hỏi đáp.
mình trong gia đình
- Thảo luận nhóm.
- Phát triển kỹ năng giao tiếp
- Đóng vai xử lí tình
- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm – làm huống.
những công việc vừa sức tại gia đình
....................................................................
...............................
- Kỹ năng nhận thức: kỹ năng ứng phó - Thảo luận nhóm;
với các tình huống xảy ra khi có lỗi.
cặp; chia sẻ.
- Phát triển kỹ năng giao tiếp.
- Trò chơi.
- Phát triển kỹ năng giao tiếp.

- Hỏi đáp.
- Thái độ và hành vi đúng đắn khi nhận - TLN; Sắm vai xử
và gọi điện thoại
lý tình huống.
....................................................................
...............................
-Tư duy nhận xét , đánh giá công việc - Thảo luận nhóm.
phù hợp với khả năng.
- Sắm vai, giải quyết
- Đảm nhận trách nhiệm của bản thân vấn đề.
đối với những công việc của bản thân
- Phân tích, xử lí thông tin về các mối - Quan sát tranh
quan hệ với người nước ngoài.
ảnh;
- Kỹ năng ứng xử các tình huống đơn - Thảo luận nhóm.
giản xảy ra trong giao tiếp với người - Giải quyết vấn đề
nước ngoài.
- Sắm vai
....................................................................
...............................
- Có tư duy phân tích, kỹ năng ứng xử - Thảo luận nhóm.
các tình huống đơn giản xảy ra về các - Giải quyết vấn đề,
sự việc có liên quan đến bản thân trực tranh luận.
KỸ NĂNG SỐNG CÓ THỂ GIÁO
DỤC TRONG BÀI

23


tiếp hay gián tiếp.

- Trò chơi
- Phát triển kỹ năng giao tiếp
- Sắm vai
- Ra quyết định nên hoặc không nên làm - Động não
gì để bảo vệ môi trường sống xung - Thảo luận nhóm,
Bảo vệ môi trường quanh.
chia sẻ.
Đạo đức lớp 4 - Phê phán những hành vi ảnh hưởng - Sắm vai, xử lí tình
đến môi trường tiểu học.
huống.
- Có trách nhiệm thực hiện giữ vệ sinh
môi trường.
- Kĩ năng kiên định, từ chối các hành vi - Động não
sai luật lệ giao thông.
- Thảo luận nhóm,
Tôn trọng luật - Ra quyết định nên và không nên làm chia sẻ.
giao thông
gì khi đi các phương tiện giao thông và - Sắm vai, xử lí tình
Đạo đức lớp 4 gặp một số biển báo giao thông.
huống.
- Có trách nhiệm thực hiện đúng các - Trò chơi
quy định khi đi các phương tiện giao
thông.
............................ ....................................................................
...............................
- Phân tích và xử lý các thông tin về - Thảo luận nhóm.
những tình huống có thể và nên hợp tác - Giải quyết vấn đề.
Hợp tác với
với mọi người xung quanh.
- Trò chơi

những người xung
- Phát triển kỹ năng giao tiếp
- Sắm vai
quanh
- Phát triển kỹ năng hợp tác trong quá
Đạo đức lớp 5
trình thực hiện công việc.
Em tìm hiểu về ....................................................................
...............................
Liên Hợp Quốc
Đạo đức lớp 5
Như vậy, trong giảng dạy, giáo viên cần lồng ghép nội dung giáo dục cho
học sinh sao cho linh hoạt, phù hợp với từng môn học, từng bài học để giúp các
em không những được củng cố, bổ sung kiến thức đã học trong sách vở, trong
nhà trường tiểu học mà còn được thực hành, vận dụng các kiến thức vào thực tế
cuộc sống, tạo cho các em mạnh dạn, tự tin chủ động và biết cách xử lý mọi tình
huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy
sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của bản thân qua mỗi bài học và đặc biệt là qua
ý thức của mỗi học sinh trong giao tiếp, quan hệ hàng ngày ở nhà trường tiểu
học.
Cụ thể: với môn Đạo đức ở Tiểu học: mỗi bài đạo đức là một mẫu hành vi cụ
thể dạy trong 2 tiết: 1 tiết lý thuyết, 1 tiết liên hệ thực hành, nên tôi yêu cầu khi
dạy môn này giáo viên phải biết cách chỉ dạy cho các em mẫu hành vi, các em
phải đặt mình trong các mẫu hành vi đó thì việc giáo dục đạo đức mới có hiệu
quả. Do vậy, trong chương trình dạy môn đạo đức ở nhà trường, tôi đã tổ chức
24


cho các thầy cô giáo được tập huấn đổi mới phương pháp dạy học sinh sao cho
phù hợp lứa tuổi. Đó là các phương pháp giảng giải, nêu gương, tác động, thuyết

phục, khích lệ, … trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết và thực hành, lời nói
đi đôi với việc làm. Chúng tôi thường xuyên tổ chức các tiết chuyên đề, hội
giảng môn Đạo đức nhằm thống nhất phương pháp đồng thời tìm ra biện pháp
hữu hiệu nhất để lồng ghép có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp
với mỗi bài học. Mặt khác, qua môn Đạo đức giúp các em biết đánh giá hành vi
của bản thân và mọi người xung quanh, từ đó sẽ biết cách lựa chọn và thực hiện
theo các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
3. Môn Tiếng Việt.
Bên cạnh môn TN&XH; môn đạo đức như đã nói ở trên thì một môn học
khác cũng có nhiều nội dung và khía cạnh có thể lồng ghép giáo dục kỹ năng
năng sống cho học sinh đó là môn Tiếng Việt - Một môn học sinh có thể nói là
vừa dạy học văn, vừa dạy làm người. Vì vậy, chúng tôi đặc biệt coi trọng nội
dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn học này
trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học.
Nội dung những bài học trong phân môn Tiếng Việt được lựa chọn rất kỹ
lưỡng, phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Trong mỗi nội dung đó đều ít nhiều chứa
đựng nội dung giáo dục kĩ năng sống qua vẻ đẹp của quê hương, đất nước,
truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của cha ông từ đó có ý thức giữ
gìn và phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc….
Ví dụ1: Tiếng Việt lớp 1, 2
TÊN BÀI
MÔN - LỚP

PP DẠY HỌC
CÓ THỂ SỬ
DỤNG
Phân tích và phán đoán những tinh huống - Hỏi – đáp.
xảy ra trong mối quan hệ bạn bè.
- Thảo luận nhóm.
Kĩ năng ứng xử tốt với bạn bè xung

quanh.
Phát triển kĩ năng giao tiếp.
Ra quyết định nên và không nên làm gì
- Thảo luận nhóm;
trong các trường hợp mắc lỗi
cặp; chia sẻ.
Phê phán những hanh vi nói dối làm ảnh - Hỏi đáp.
hưởng và làm mất lòng tin của mọi người.
KĨ NĂNG SỐNG CÓ THÊ GIÁO
DỤC TRONG BÀI

Người bạn tốt
Tập đọc lớp 1
Nói dối hại thân
Tập đọc lớp 1 -

-Kĩ năng nhận thức hanh vi và ứng xử
- Thảo luận nhóm.
Nói lời mời, nhờ,
trong mỗi tình huống – Khi nào và làm
- Sắm vai, giải
yêu cầu – đề nghị
thế nào?
quyết vấn đề.
TLV lớp 2
- Phát triển kĩ năng giao tiếp
............................ ....................................................................
...............................
Mở rộng vốn từ - Kĩ năng nhận thức hành vi, đức tính
25



×