Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

HỎI đáp KINH tế CHÍNH TRỊ mác – LÊNIN(Dùng cho học viên các hệ đào tạo lý luận chính trị và sinh viên các trường đại học, cao đẳng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.32 KB, 141 trang )

HỎI & ĐÁP KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
HỎI & ĐÁP
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
(Dùng cho học viên các hệ đào tạo lý luận chính trị
và sinh viên các trường đại học, cao đẳng)
(Tái bản lần thứ hai)
PGS. TS HOÀNG THỊ BÍCH LOAN
- TS VŨ THỊ THOA
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế chính trị Mác-Lênin, một trong những học phần quan trong cấu
thành bộ môn khoa học Mác-Lênin, được coi là môn khoa học khó đối với các
bậc học thuộc các hệ đào tạo chuyên và không chuyên về kinh tế. Để giúp
bạn đọc tiếp cận và giải quyết được những khó khăn trong quá trình học tập
và nghiên cứu môn học, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính tổ chức xuất
bản cuốn sách Hỏi & đáp Kinh tế chính trị Mác-Lênin.
Cuốn sách giới thiệu những nội dung cơ bản nhất, hệ thống hóa, khái
quát hóa toàn bộ kiến thức trừu tượng, khó hiểu của môn học Kinh tế chính trị
Mác-Lênin thành những vấn đề đơn giản, dễ hiểu. Từ những vấn đề về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đến những quan điểm
mới nhất về kinh tế được Đại hội đại biểu toàn quốc toàn quốc lần thứ X của
Đảng thông qua. Vấn đề kinh tế tập thể, kinh tế cá thể... đến các quan điểm
của Đảng, Nhà nước về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân... tất cả được
hệ thống hóa, cô đọng trong 101 câu hỏi kèm theo phần giải đáp được giới
thiệu rõ ràng, mạch lạc và dễ hiểu. Cuốn sách được biên soạn theo tinh thần:
- Căn cứ theo chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục - Đào tạo, giáo
trình phục vụ các hệ đào tạo lý luận chính trị cao cấp, cử nhân và trung cấp.


- Kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu trước đây về môn khoa học
Kinh tế chính trị Mác – Lênin; lĩnh hội những tri thức mới nhất về kinh tế học
và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


- Giới thiệu những quan điểm mới nhất của Đảng, Nhà nước về kinh tế
và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cuốn sách sẽ cung cấp
cho các bạn sinh viên, học viên các hệ đào tạo cử nhân, cao học, nghiên cứu
sinh, các hệ đào tạo lý luận chính trị toàn bộ những kiến thức của môn học
ngay từ khi bắt đầu tiếp cận. Trong quá trình học tập và nghiên cứu từng bài
cụ thể, cuốn sách giúp bạn dễ dàng nắm bắt được nội dung cơ bản nhất,
quan trọng nhất phục vụ cho các kỳ kiểm tra kiến thức môn học. Mặt khác,
đây sẽ là cuốn cẩm nang phục vụ cho việc học tập và ôn luyện trong suốt quá
trình học tập môn học Kinh tế chính trị Mác- Lênin của các bạn.
Mặc dù các tác giả cố gắng tìm tòi trong quá trình nghiên cứu và biên
soạn, song chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
sự góp ý quý báu của đông đảo bạn đọc, các nhà nghiên cứu để cuốn sách
được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
TẬP THỂ TÁC GIẢ

Câu 1. Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác - Lênin là
gì? Vì sao phải nghiên cứu quan hệ sản xuất trong sự tác động
qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng?
1.1 Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-Lênin
- Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội. Danh từ “kinh tế chính
trị” do một nhà kinh tế Pháp theo chủ nghĩa trọng thương Antoine
Montchretien (A.Mong Crechien) đưa ra vào năm 1615. Sau đó nó được các
nhà kinh tế học cổ điển, nhất là W.Petty (1623- 1987), A.Smith (1723-1790),
D.Ricardo (1772-1823) phát triển. Vào nửa cuối thế kỷ XIX, C.Mác (18181883) và Ph.Ăngghen (1820- 1895) đã thực hiện một cuộc cách mạng trong


khoa học này, sáng lập ra kinh tế chính trị mácxít; và được Lênin (1870-1924)
bổ sung và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX làm ra đời kinh tế chính trị Mác - Lênin.

- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ xã hội của con người
hình thành trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và vạch rõ
những quy luật điều tiết sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của
cải đó trong những trình độ nhất định của sự phát triển xã hội loài người. Tóm
lại, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nghiên cứu các quan hệ sản
xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với lực lương sản xuất và kiến
trúc thượng tầng.
1.2 Phải nghiên cứu quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại
với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng vì:
- Các quan hệ sản xuất phải phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi của
quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất,
đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc thượng tầng và kiến trúc
thượng tầng, nhất là quan hệ chính trị, pháp luật... tác động trở lại quan hệ
sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ nhất
là vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội hiện đại.
Câu 2. Quy luật kinh tế là gì? Nêu đặc điểm hoạt động của quy luật
kinh tế. Phân biệt quy luật kinh tế với chính sách kinh tế
2.1. Quy luật kinh tế là những mối liên hệ nhân quả bản chất, tất yếu,
có tính ổn định, thường xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình
kinh tế.
2.2. Đặc điểm hoạt động của quy luật kinh tế
- Quy luật kinh tế có tính khách quan, không lệ thuộc vào ý chí và nhận
thức chủ quan của con người.


- Quy luật kinh tế chỉ xuất hiện trong quá trình hoạt động kinh tế của
con người.
- Quy luật kinh tế có tính lịch sử, nó chỉ tồn tại trong những điều kiện

lịch sử nhất định.
=>Trong một phương thức sản xuất thường có ba loại quy luật kinh tế
hoạt động:
+ Quy luật kinh tế chung tồn tại trong mọi phương thức sản xuất như
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, quy luật tiết kiệm thời gian, quy luật tăng năng suất lao
động xã hội...
+ Quy luật tinh tế chung tồn tại trong một số phương thức sản xuất nhất
định như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ...
+ Quy luật kinh tế đặc thù chỉ tồn tại và tác động trong phạm vi một
phương thức sản xuất nhất định như quy luật giá trị thặng dư (m).
Các phương thức sản xuất khác nhau được phân biệt bởi các quy luật
kinh tế đặc thù, nhưng chúng liên hệ với nhau bởi những quy luật kinh tế
chung.
2.3. Phân biệt quy luật kinh tế với chính sách tinh tế
Quy luật kinh tế phản ánh mối liên hệ tất yếu, biện chứng, thường
xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Còn chính sách
kinh tế là tổng thể các biện pháp kinh tế của nhà nước nhằm tác động vào
các ngành kinh tế theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất
định. Nó là một khái niệm thuộc hoạt động chủ quan của nhà nước.
Câu 3. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là gì? Hãy nêu ví dụ
về vận dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học trong kinh tế chính
trị.
3.1 Phương pháp trừu tượng hóa khoa học đòi hỏi gạt bỏ khỏi quá
trình và hiện tượng được nghiên cứu những yếu tố đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm


thời để tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định, trên cơ sở ấy nắm
được bản chất của hiện tượng, hình thành những phạm trù và những quy luật
phản ánh những bản chất đó.

3.2 Ví dụ vận dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học trong
kinh tế chính trị
Để vạch ra bản chất của CNTB hoàn toàn có thể và cần phải trừu
tượng hoá sản xuất hàng hóa nhỏ, mặc dù nó thực sự tồn tại với mức độ ít
hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không được trừu
tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Bởi vì tư bản lấy quan hệ
hàng hoá - tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình. Và càng không được trừu
tượng hoá việc chuyển hóa sức lao động thành hàng hoá, bởi vì không có
hàng hoá sức lao động thì CNTB không còn là CNTB nữa.
Câu 4. Các chức năng của Kinh tế chính trị Mác - Lênin. Sự cần
thiết phải học tập môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
4.1. Chức năng của KTCT Mác - Lênin: có 4 chức năng chủ yếu:
- Chức năng nhận thức: Chức năng này giúp cho người học nhận thức
đúng đắn những nguyên lý cơ bản, những luận điểm khoa học của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua việc nắm vững hệ
thống các khái niệm, phạm trù, quy luật kinh tế khách quan. Những tri thức do
KTCT cung cấp là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chính sách kinh tế định
hướng cho sự phát triển kinh tế và cũng là cơ sở khoa học giúp người học
nhận thức đúng các hiện tượng và quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực
tiễn, thực hiện tốt đường lối, chính sách kinh tế.
- Chức năng thực đến: KTCT phát hiện ra những quy luật và những xu
hướng phát triển chung, cung cấp những tri thức để giải quyết tốt những vấn
đề cụ thể mà thực tiễn đặt ra. Đồng thời nắm vững những lý luận khoa học nó
sẽ là lực lượng vật chất giúp quyết định hành động thực tiễn của người học
nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn.


- Chức năng phương pháp luận: Là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các
khoa học kinh tế, trong đó có các khoa học kinh tế ngành và một loạt khoa
học kinh tế nằm giáp ranh giữa các tri thức ngành khác nhau.

- Chức năng tư tưởng: KTCT Mác - Lênin góp phần đắc lực xây dựng
thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc của người học với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân, của dân tộc, làm cho niềm tin có một căn
cứ khoa học vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, thử thách.
Ý nghĩa của việc học tập KTCT Mác - Lênin.
- Khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận
với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới.
- Những tri thức mà KTCT cung cấp không chỉ cần thiết đối và quản lý
kinh tế vĩ mô, mà còn cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư.
- Giúp người học hiểu được sự phát sinh và phát triển của nền sản xuất
xã hội, có niềm tin sâu sắc vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã
lựa chọn - đó là CNXH nhằm đạt mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 5. Tại sao nói sự sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội và lao động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất của
loài người?
- Sản xuất của cải vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động tác động vào tự nhiên, khai thác hoặc chế biến các dạng vật chất của tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
- Sản xuất của cải vật chất là yêu cầu khách quan đối với bất cứ xã hội
nào. Đời sống xã hội loài người có nhiều mặt hoạt động khác nhau và có
quan hệ với nhau như: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, kỹ thuật, công
nghệ... trước khi tiến hành các hoạt động đó con người phải có thức ăn, quần
áo, nhà ở... Để có những thứ đó cần phải sản xuất ra chúng. Vì vậy, sản xuất


của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội và lao động sản xuất là hoạt
động cơ bản nhất của con người và xã hội loài người.

Câu 6. phân tích các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản
xuất. Phân biệt sức lao động và lao động.
6.1 Các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất
Bất kỳ một quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của
ba yếu tố: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
- Sức lao động là “toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” (1). Sức lao động là
khả năng lao động của con người. là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình
sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nó được đưa
vào sản xuất thông qua lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm
biến đổi những vật chất tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Đây là hoạt động cơ bản nhất, riêng có của con người và xã hội loài người.
- Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động
vào nhằm biến đổi nó cho phù hợp nhu cầu của mình. Đối tượng lao động có
thể phân thành hai loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên, loại này thường là đối tượng lao động của
các ngành công nghiệp khai thác.
+ Loại đã qua lao động, được cải biến ít nhiều (gọi là nguyên liệu - loại
này là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến).
Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển làm cho vai trò của đối
tượng lao động thay đổi, nhiều loại đối tượng lao động mới được tạo ra và có
chất lượng ngày càng tốt hơn. Người ta có thể phân loại: Vật liệu có nguồn
gốc tự nhiên và vật liệu nhân tạo. Tuy vậy, cơ sở của mọi đối tượng lao động
vẫn là đất đai, tự nhiên.


Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi

đối tượng lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động gồm:
+ Công cụ lao động hay công cụ sản xuất giữ vị trí là hệ thống “xương
cốt và bắp thịt” của sản xuất.
+ Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động.
+ Tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất.
Đối tượng lao động với tư liệu lao động hợp thành tư liệu sản xuất. Sự
kết hợp tư liệu sản xuất với sức lao động gọi là lao động sản xuất.
6.2 Phân biệt sức lao động và lao động
Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cá thể
sống của con người mà con người có thể sử dụng trong quá trình lao động
sản xuất. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động. Còn lao động là sự
tiêu dùng sức lao động trong hiện thực.
Câu 7. Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Phân tích
sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
7.1 Lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người
với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
- Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri
thức và phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Trong đó người lao động là chủ thể, là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định
nhất của xã hội.
7.2 Quan hệ sản xuất


- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối
quan hệ giữa người với người trên ba mặt cơ bản:

+ Quan hệ sở hữu: Là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm
hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
+ Quan hệ quản lý: Là quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức
quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau.
+ Quan hệ phân phối: Là quan hệ giữa người với người trong phân
phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
7.3. Sư thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất
biện chứng này, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không phải
hoàn toàn thụ động, mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, còn ngược lại, nếu nó không phù hợp
với lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Câu 8. Tái sản xuất là gì? Nội dung cơ bản của tái sản xuất xã hội.
8.1. Tái sản xuất
- Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại thường xuyên và
phục hồi không ngừng.
- Có thể phân loại tái sản xuất theo những tiêu chí khác nhau:
+ Theo phạm vi: Có tái sản xuất cá biệt là tái sản xuất diễn ra trong
từng đơn vị kinh tế, từng xí nghiệp và tái sản xuất xã hội là tổng thể của tái
sản xuất cá biệt trong mối liên hệ hữu cơ với nhau.


+ Theo quy mô: Có tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như
cũ, chưa có sản phẩm thặng dư hoặc nếu có thì rất ít và phần thặng dư đem
tiêu dùng hết cho cá nhân. Tái sản xuất giản đơn thường gắn liền với nền sản

xuất nhỏ, năng suất thấp và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn
hơn trước, do quy mô và chất lượng của các nguồn lực sản xuất năm sau
phải tăng lên, nên một phần thặng dư phải được tích lũy để tăng nguồn lực
sản xuất. Tái sản xuất mở rộng thường gắn liền với nền sản xuất lớn, năng
suất cao và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.
Tái sản xuất mở rộng gồm hai hình thức:
+ Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản
xuất, tăng thêm sản phẩm làm ra nhờ sử dụng nhiều hơn các nguồn lực của
sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên...).
+ Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sự tăng lên của sản phẩm chủ
yếu do tăng năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
8.2 Nội dung cơ bản của tái sản xuất (4 nội dung)
- Tái sản xuất của cải vật chất là quá trình tái tạo ra tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong đó
việc tái sản xuất tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tái sản xuất tư
liệu tiêu dùng. Việc tái sản xuất tư liệu tiêu dùng lại có ý nghĩa quyết định đối
với tái sản xuất sức lao động của con người.
Việc đánh giá kết quả tái sản xuất của cải vật chất được phản ánh qua
các chỉ tiêu như: Tổng sản phẩm xã hội, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và
tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Ngày nay, việc đánh giá kết quả tái sản xuất được nhiều nước dùng hai
chỉ tiêu là GNP và GDP. Sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội hay GNP, GDP


phụ thuộc vào các nhân tố tăng quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực
sản xuất, trong đó tăng năng suất lao động là yếu tố vô hạn.
- Tái sản xuất sức lao động là quá trình tái tạo ra số lượng và chất
lượng sức lao động đảm bảo cho tái sản xuất xã hội được tiếp diễn liên tục.
Tái sản xuất sức lao động về mặt số lượng chịu sự chi phối bởi các

nhân tố tốc độ gia tăng dân số và lao động, xu hướng thay đổi công nghệ, cơ
cấu, số lượng và tính chất của lao động, năng lực tích lũy vốn để mở rộng
sản xuất của một quốc gia... Tái sản xuất sức lao động về mặt chất lượng thể
hiện ở việc tái sản xuất ra thể lực và trí lực người lao động qua các chu kỳ
sản xuất. Nó phụ thuộc vào các nhân tố như: Mục đích của nền sản xuất, chế
độ phân phối sản phẩm, địa vị của người lao động, trình độ phát triển khoa
học và công nghệ, chính sách giáo dục và đào tạo của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ.
- Tái sản xuất quan hệ sản xuất là quá trình củng cố, phát triển và hoàn
thiện quan hệ sản xuất trên cả ba mặt: Quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và
quan hệ phân phối làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tái sản xuất môi trường sinh thái là quá trình bảo vệ và tái tạo các
điều kiện tự nhiên cho sản xuất và đời sống của con người (khôi phục và tăng
thêm độ màu mỡ của đất đai, làm sạch nguồn nước và không khí...) để đảm
bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững của mỗi quốc gia, của cả loài
người.
Câu 9. Thế nào là tăng trưởng kinh tế? Các nhân tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
9.1 Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng tốc độ
và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Để tính mức tăng trưởng kinh tế của một nước, thước đo tiện lợi nhất là
mức gia tăng GNP và GDP năm sau so với năm trước.
[(GNPI – GNPo) : GNPo] x 100%


Hoặc
[(GDP1 – GDP0) : GDPo] x 100%
Trong đó:
GNPO và GDP0: Là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc

nội thời kỳ trước.
GNP1 và GDP1: Là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội
thời kỳ sau.
9.2 Các nhân tô ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
- Vốn: Là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích lũy lại
và những yếu tố tự nhiên... được sử dụng vào quá trình sản xuất. Nói khái
quát, vốn là toàn bộ tài sản được sử dụng để sản xuất kinh doanh. Vốn tồn tại
dưới hai hình thức: Tiền tệ và hiện vật.
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra mối liên hệ giữa tăng GDP với tăng vốn
đầu tư (Harod Domar) đã nêu công thức tính hiệu suất sử dụng vốn sản phẩm
gia tăng (ICOR). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP.
- Con người: Có sức khỏe, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt
tình, được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền
vững.
Khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Nhờ ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ làm cho chi phí về lao động,
vốn, tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Sự phát triển khoa học
và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu,
làm xuất hiện nhiều ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao.
Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau
cả về quy mô và trình độ giữa các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng,
các lĩnh vực của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ có tác dụng to lớn trong
việc phát huy các thế mạnh, tiềm năng và các yếu tố sản xuất của đất nước
một cách có hiệu quả, là yếu tố tạo tiền đề, cơ sở cho sự tăng trưởng kinh tế.


- Thể chế chính trị và vai trò của nhà nước
Thể chế chính trị ổn định và tiến bộ cùng với vai trò của nhà nước trong
việc hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, hệ thống chính
sách đúng đắn, sẽ tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh, đúng hướng

giữa các vùng, khắc phục nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, sử dụng
và phát huy có hiệu quả các nguồn lực, hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường, khuyến khích tích luỹ, tiết kiệm, kích cầu...

Câu 10. Phát triển kinh tế là gì? Hãy nêu nội dung của phạm trù
phát triển kinh tế.
10.1. Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn
thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm
công bằng xã hội.
10.2. Nội dung của phát triển kinh tế gồm:
- Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người.
- Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thể hiện ở tỷ trọng các
ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn tỷ
trọng nông nghiệp ngày càng giảm xuống.
- Mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự
tăng lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế... mà mỗi người dân
được hưởng.
=> Phát triển kinh tế bao hàm các yêu cầu cụ thể:
- Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số.
- Sự tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ để
đảm bảo tăng trưởng bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội.


- Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù hợp với sự biến đổi nhu
cầu của con người và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Câu 11. sản xuất hàng hoá là gì? Phân tích điều kiện ra đời và tồn
tại của sản xuất hàng hoá? Ưu thế của sản xuất hàng hoá so với kinh tế
tự nhiên.

11. Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản xuất được
sản xuất ra để trao đổi hoặc bán trên thị trường.
11.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá (có 2 điều
kiện).
Phân công lao động xã hội: Là sự phân chia lao động xã hội thành các
ngành, nghề khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Nó tạo ra sự chuyên môn
hoá lao động, chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau,
tức là mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất
định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần nhiều loại sản phần khác nhau.
Để thoả mãn nhu cầu đó đòi hỏi họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
- Sư tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất do
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quy định.
Người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
Chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người
sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân
công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Do
vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự
mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.
=> Sản xuất hàng hoá ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu
thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm
lao động không mang hình thái hàng hoá.
11.3. Ưu thế của sản xuất hàng hoá so với kinh tế tự nhiên


- Mục đích của sản xuất hàng hoá là để thoả mãn nhu cầu của người
khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là
một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển trên cơ sở phân công lao động
xã hội, tạo ra tính chuyên môn hoá cao và dưới tác động của cạnh tranh là cơ
sở nâng cao năng suất lao động, số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra

đáp ứng nhu cầu xã hội tốt hơn.
- Sản xuất hàng hoá tạo điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá
giữa các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển,
tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của người
dân, làm nền kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả hơn.
Câu 12. Hàng hoá là gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá? Vì
sao hàng hóa có hai thuộc tính? Vì sao nói giá trị biểu hiện quan hệ sản
xuất xã hội?
12.1 Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào
đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi hoặc mua
bán.
12.2. Hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có thể thoả
mãn nhu cầu nào đó của con người. (Ví dụ:Gạo để ăn, vải để mặc, xe đạp để
đi...).
Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá quy
định, nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng của hàng hoá không
phải cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là cho người khác, cho xã
hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là
vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị của hàng hoá: Muốn hiểu giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị
trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi giữa các giá trị
sử dụng khác nhau. Hai sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao


đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định vì chúng đều là sản phẩm của lao
động, đều có cơ sở chung là sự hao phí sức lao động của con người. Lao
động hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở
để trao đổi. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá

trị là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là
cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Giá trị là
thuộc tính xã hội của hàng hoá. Giá trị hàng hoá biểu hiện mối quan hệ kinh tế
giữa những người sản xuất hàng hoá.
Hai thuộc tính của hàng hoá vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhau:
Thống nhất hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại đồng
thời trong một hàng hoá, tức một vật phẩm phải có đầy đủ hai thuộc tính này
mới trở thành hàng hoá. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính trên thì vật phẩm
không phải là hàng hoá.
Mâu thuẫn: Nếu đứng về mặt giá trị sử dụng thì các hàng hoá không
đồng nhất về chất, nhưng với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất
về chất (đều là lao động kết tinh trong nó). Quá trình thực hiện giá trị sử dụng
và giá trị không đồng thời về cả không gian và thời gian. Giá trị được thực
hiện trước trong lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong tiêu
dùng.
12.3. Hàng hoá có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là do tính
chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quy định. Đó là lao động cụ thể
tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá và lao động trừu tượng tạo ra giá trị của
hàng hoá.
12.4. Giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội vì giá trị là lao động
xã hội của những người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Nên nếu
không kể đến tính chất có ích của hàng hoá, thì mọi hàng hoá đều giống
nhau, đều không có sự phân biệt. Điều này làm cho giá trị của hàng hoá biểu
hiện quan hệ sản xuất xã hội. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người


sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất
của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình
chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ xã hội giữa

những người sản xuất hàng hoá.
Câu 13. Lượng giá trị hàng hoá được đo bằng đơn vị gì? Phân tích
mối quan hệ giữa lượng giá trị hàng hoá và năng suất lao động.
13.1. Lượng giá trị hàng hoá là số lượng lao động của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.
Lượng giá trị hàng hoá là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thời gian lao động, nhưng
không phải thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết, là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình
thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo
trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất
định. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết từng hợp với thời gian
lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá nào đó
trên thị trường.
13.2. Mối quan hệ giữa lượng giá trị hàng hoá và năng suất lao
động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được
tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số
lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược
lại, năng suất lao động xã hội càng giảm thì thời gian cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều.
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết
tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Như vậy muốn giảm giá trị của 1
đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động.


Năng suất lao động phụ thuộc vào các nhân tố, trình độ khéo léo người
lao động, sự phát triển khoa học - kỹ thuật - công nghệ và trình độ ứng dụng

tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư
liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
Câu 14. Trình bày nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Vì sao tiền tệ
là một hàng hoá đặc biệt?
14.1 Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất
và trao đổi hàng hoá. Để hiểu nguồn gốc và bản chất của tiền tệ, phải nghiên
cứa sự phát triển của các hình thái giá trị (4 hình thái).
Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị.
Phương trình trao đổi: aH1 = bH2. Ở đây giá trị của H1 biểu hiện ở H2
trong đó H1 là hình thái giá trị tương đối, còn H2 là hình thái vật ngang giá.
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng. Khi lực lượng sản xuất phát triển
hơn, số lượng hàng hoá nhiều hơn thì 1 hàng hoá có thể trao đổi với nhiều
hàng hoá khác.
Phương trình trao đổi:
aH1 = bH2 hoặc = cH3 hoặc =…
Như Vậy, hình thái vật ngang giá được mở rộng ở nhiều hàng hoá khác
nhau nhưng vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
Hình thái chung của giá trị: Khi sản xuất hàng hoá phát triển và trao đổi
trở nên thường xuyên hơn, thì yêu cầu có một hàng hoá tách ra làm vật
ngang giá chung.
Phương trình trao đổi:
aH1 hoặc bH2 hoặc cH3 hoặc … = xH5 (H5 là vật ngang giá chung)
- Hình thái tiền của giá trị: Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển
hơn, thị trường mở rộng thì đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá


chung thống nhất. Vai trò vật ngang giá chung dần dần được cố định ở kim
loại quý, mới đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng cuối cùng được
cố định ở một vật độc tôn và phổ biến đó là vàng. Vậy phương trình trao đổi:

aH1 hoặc bH2 hoặc cH3 hoặc … = xgr (Vàng trở thành vật ngang giá
chung)
=> Bản chất của tiền: Tiền tệ là vật ngang giá chung cho tất cả các
hàng hoá, là sự thể hiện chung của giá trị và thể hiện lao động xã hội, đồng
thời biểu hiện quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá.
14.2 Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt vì tiền tệ cũng là hàng hóa có
giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của tiền (vàng) cũng như giá trị của hàng hoá
khác, do lao động trừu tượng của người sản là sản xuất ra vàng tạo nên.
Nhưng tiền tệ không phải là hàng hóa thông trường mà là hàng hóa đặc biệt
đóng vai trò vật ngang giá chung cho tất cả hàng hoá. Giá trị sử dụng của tiền
(vàng) khác với các hàng hoá thông thường ở chỗ nó không chỉ thoả mãn nhu
cầu sử dụng của con người mà còn làm vật ngang giá chung, làm thước đo
giá trị của tất cả các hàng hoá khác.

Câu 15. Trình bày nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ. Ý nghĩa
thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật đó.
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền tệ cần thiết
cho lưu thông hàng hoá ở mỗi thời kỳ nhất định.
15.1. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ xác định số tiền phát hành
cần thiết cho lưu thông trong từng thời kỳ. Nó được tính theo công thức:
M = P.Q/V
Trong đó:
M: số lượng tiền cần thiết cho lưu thông
P: mức giá cả
Q: khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem ra lưu thông trên thị trường


V: số vòng chu chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ
Khi tiền vừa làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán thì lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:

M = [PQ – (PQb + PQk) + PQd]/V
Trong đó: PQ: tổng giá cả hàng hoá
PQb: tổng giá cả hàng hoá bán chịu
PQk: tổng giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau
PQd: tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán
V: số vòng lưu thông của đơn vị tiền tệ
15.2 ý nghĩa
- Lý luận về quy luật lưu thông tiền tệ là căn cứ khoa học để chính phủ
phát hành lượng tiền cần thiết cho lưa thông trong từng thời kỳ.
- Là căn cứ giúp chính phủ, ngân hàng nhà nước và các ngân hàng
thương mại thực hiện việc điều hòa lưu thông tiền tệ, khống chế và kiểm soát
lạm phát tiền tệ.
- Việc điều tiết lưu thông tiền tệ có hiệu quả sẽ góp phần ổn định tiền tệ,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Câu 16. Phân tích nội dung (yêu cầu) và tác dụng của quy luật giá
trị. Biểu hiện của quy luật giá trị qua các giai đoạn phát triển của CNTB.
16.1. Nội dung (yêu cầu) của quy luậtgiá trị
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng
hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của
quy luật giá trị. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa
trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết. Cụ thể là:


+ Trong sản xuất, quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải điều chỉnh
làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội
chấp nhận được (giá trị cá biệt hàng hoá < giá trị xã hội hàng hoá).
+ Trong lưu thông, trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả
hàng hoá. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Trên

thị trường giá cả hàng hoá phụ thuộc vào các nhân tố giá trị của hàng hoá,
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền... Giá cả hàng hoá biến động
lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị trường của
hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy
luật giá trị.
16.2. Tác dụng của quy luật giá trị (3 tác dụng)
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
+ Điều tiết sản xuất: Là điều hòa, phân bố các yếu tố sản xuất giữa các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Dựa vào sự biến động của giá cả thị
trường, người sản xuất biết được hàng hoá nào đang thiếu, bán chạy, có giá
cao và nhiều lãi, hàng hoá nào ế thừa, giá thấp. Để từ đó họ sẽ mở rộng sản
xuất những mặt hàng đang thiếu bán chạy, nhiều lãi và ngược lại thu hẹp sản
xuất, thậm chí đóng cửa không sản xuất những mặt hàng ế thừa, không tiêu
thụ được. Như vậy, các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động và
tiền vốn được chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác, làm quy mô sản
xuất ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp.
+ Điều tiết lưu thông: Dưới tác động của quy luật giá trị, hàng hoá được
di chuyển từ nơi giá thấp đến nơi giá cao thông qua sự biến động giá cả thị
trường.
- Kích thích cải tiên kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao
động... thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Trong nền kinh tế hàng hoá, các hàng hoá được sản xuất ra trong
những điều kiện khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, ai có hao


phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá thì sẽ có
lợi, có nhiều lãi. Ngược lại thì sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong
cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản họ phải hạ thấp hao phí lao động
cá biệt của mình hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy họ
phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao

động.
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá
thành kẻ giàu người nghèo.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào có giá trị cá biệt của
hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá thì người đó sẽ thu nhiều lãi,
nhanh chóng trở nên giàu có, ngược lại thì ở thế bất lợi, trở nên nghèo khó,
phá sản.
16.3. Biểu hiện của quy luật giá trị qua các giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản.
- Trong giai đoạn tư do cạnh tranh, quy luật giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả được xác định bằng chi phí tư
bản cộng với lợi nhuận bình quân.
(GCSX=K+ P)
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị biểu hiện
thành quy luật giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả vượt xa giá cả
sản xuất. Trong giai đoạn này, các tổ chức độc quyền áp dụng cơ chế giá cả
độc quyền thấp khi mua và cao khi bán để thu được PĐQ cao.
Giá cả độc quyền bằng chi phí tư bản cộng với lợi nhuận độc quyền
cao.
(GCĐQ - K + PĐQ cao)
Câu 17. Công thức vận động của tư bản và công thức lưu thông
hàng hóa giản đơn khác nhau như thế nào? Vì sao Mác gọi công thức T
– H – T’ là công thức chung của tư bản.


171. Sự khác nhau giữa hai công thức
Công thức vận động của tư bản là: T - H – T’ (1)
Công thức lưu thông hàng hoá giản đơn là: H - T - H (2)
Công thức (1) và (2) khác nhau ở chỗ:
Trình tự hai giai đoạn, công thức (1) bắt đầu bằng mua, sau đó mới bán

(chứ không phải bán rồi mới mua); trong công thức (1) điểm mở đầu và kết
thúc đều là tiền, hàng hoá chỉ là trung gian trong trao đổi, tiền được ứng trước
để thu về số lượng lớn hơn T’ > T hay T’ = T + ∆t (∆t chính là số tiền trội hơn
số tiền ứng ra, C.Mác gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m).
Mục đích của trao đổi, công thức (1) mục đích không phải là giá trị sử
dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị thặng dư (chứ không phải giá trị sử dụng
như ở công thức (2)).
Giới hạn của sự vận động, công thức (1) sự vận động của tư bản là
không có giới hạn. Còn công thức (2) sự vận động là có giới hạn.
17.2 Công thức T - H – T’ được gọi là công thức chung của tư bản
vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này, dù là tư bản thương nghiệp,
tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.
Câu 18. Sức lao động là gì? Phân tích điều kiện biến sức lao động
thành hàng hoá.
18.1. Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực, trí lực tồn tại trong cơ
thể sống của con người mà con người có thể sử dụng trong quá trình lao
động sản xuất. Sức lao động là khả năng của lao động.
Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Nó chỉ trở
thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
18.2. Điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá (2 điều kiện)
- Thứ nhất, người có sức lao động được tự do về thân thể, tự do chi
phối sức lao động của mình, tự do đem bán sức lao động của mình như một
hàng hoá, nhưng chỉ bán trong một thời gian nhất định.


- Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để kết hợp
với sức lao động của mình, buộc phải bán chính sức lao động tồn tại trong cơ
thể sống của anh ta.
Sức lao động trở thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến tiền
thành tư bản. Sức lao động biến thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai

đoạn mới trong lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá - nền sản xuất hàng hoá
tư bản chủ nghĩa.
Câu 19 Phân tích hai thuộc tính của hàng hoá - sức lao động. Hàng
hoá - sức lao động có đặc điểm gì khác so với hàng hoá thông thường?
19.1 Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động.
- Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất sức lao động quy định. Nó được xác định bằng giá trị
của những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để duy trì đời
sống bình thường của công nhân và gia đình anh ta, cộng với những phí tổn
đào tạo để người công nhân có một trình độ nhất định.
Giá trị hàng hoá sức lao động còn phụ thuộc vào ngành nghề và lĩnh
vực làm việc của công nhân trong nền kinh tế và phụ thuộc vào các yếu tố
tinh thần, lịch sử, tức là ngoài yêu cầu về vật chất người công nhân còn có
nhu cầu về tinh thần, văn hoá... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh
lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó và
mức độ thoả mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào trình độ văn
minh đã đạt được của mỗi nước.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là thỏa mãn nhu cầu của
người mua, tức là mua để tiêu dùng vào quá trình lao động. Nhưng khác với
hàng hoá thông thường, quá trình sử dụng hàng hoá sức lao động có thể tạo
ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó chính là đặc điểm đặc
biệt của hàng hoá sức lao động, là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn công
thức chung của tư bản.


19.2. Điểm khác biệt của hàng hoá sức lao động so với hàng hoá
thông thường biểu hiện ở:
- Giá trị của hàng hoá sức lao động bao gồm yếu tố tinh thần và lịch sử.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động khi tiêu dùng sản sinh ra
một lượng giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, đó là giá trị thặng dư.


Câu 20. Quá trình sản xuất TBCN là gì? Giá trị thặng dư được sản
xuất ra như thế nào?
20.1. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa
quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng
dư.
C.Mác viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và
quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng
hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm
tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất TBCN, là hình thái
tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”1.
20.2. Giá trị thặng dư được sản xuất trong nền tinh tế hàng hoá
TBCN. Để sản xuất, nhà tư bản phải mua các yếu tố sản xuất gồm tư liệu sản
xuất và sức lao động. Giả định việc mua này đúng giá trị. Ví dụ, để sản xuất
20kg sợi trong 12giờ chia làm 2 lần.
Trong 6 giờ đầu, để sản xuất 10kg sợi, nhà tư bản ứng trước để:
- Mua 10kg bông hết 10 USD.
- Đểchuyển 10kg bông thành sợi, chi phí về hao mòn máy móc hết 2
USD.
- Mua sức lao động trong cả ngày (12 giờ) là 3 USD.
Giả sử trong 6 giờ đầu, bằng lao động cụ thể, người công nhân chuyển
hết 10kg bông thành sợi và bằng lao động trừu tượng tạo thêm lượng giá trị
mới là 3 USD. Kết quả sản xuất tạo ra 1 lượng sợi với giá trị là 15 USD. Như
vậy nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm bù đắp lại giá trị - sức lao


×