Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

GIÁO dục ý THỨC PHÁP LUẬT CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG HUYỆN ĐÔNG ANH TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-------–&—-------

LÊ THỊ HIÊN

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN ĐÔNG ANH
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Chuyên ngành
Mã số

: LL&PP Giảng dạy Giáo dục chính trị
: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Long


HÀ NỘI - 2014


Lời cảm ơn
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn TS.
Nguyễn Văn Long đã trực tiếp hướng dẫn tận tình chu đáo trong suốt quá
trình em làm đề tài luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Lí luận chính trị - Giáo
dục công dân, các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy và các phòng ban liên quan
của trường Đại học sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong
quá trình học tập và làm luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, Ban giám
hiệu nhà trường và các em học sinh khối lớp 12 trường THPT Vân Nội, Trung
tâm GDTX Đông Anh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã động viên,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả

Lê Thị Hiên


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GDCD

: Giáo dục công dân

GDTX

: Giáo dục thường xuyên



: Lao động

PPDH

: Phương pháp dạy học


PL

: Pháp luật

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước pháp quyền là sản phẩm của xã hội văn minh. Trong nhà
nước pháp quyền pháp luật có một vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp luật
không chỉ là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu mà còn tạo môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa đời sống xã hội và
góp phần bồi đắp nên những giá trị mới.
Học sinh THPT - những chủ nhân tương lai của đất nước, các em
đang chuẩn bị cho mình hành trang tri thức, đặc biệt tri thức pháp luật để
bước vào cuộc sống. Chuẩn bị cho các em những hiểu biết về pháp luật,
thái độ đối với pháp luật, khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật sẽ giúp
các em tự tin, vững vàng hơn khi bước vào cuộc sống, đồng thời hạn chế
những tiêu cực cho xã hội.

Thế nhưng hiện nay những biểu hiện về suy thoái đạo đức cũng như
tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh đã dấy lên hồi chuông báo động cho
gia đình, nhà trường và xã hội. Tình trạng học sinh xuống cấp về đạo đức và
vi phạm pháp luật ngày càng tăng trong khi giáo dục lại chưa thể hiện được
vai trò của các môn học trong nhà trường.
Môn Giáo dục công dân ở trường THPT có vai trò hết sức quan trọng.
Những kiến thức môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành kỹ năng
sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ đúng
đắn trong nhận thức và chấp hành pháp luật.
Đông Anh là một huyện ngoại thành của Hà Nội. Nơi đây quá trình đô
thị hóa đang diễn ra rất nhanh. Cùng với đó là sự biến đổi trong đời sống xã
hội: ý thức đạo đức, văn hóa, lối sống, ý thức pháp luật… Tình trạng học sinh
vi phạm đạo đức, ý thức kỷ luật, vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng.
Tuy nhiên, dạy học môn Giáo dục công dân trong các trường THPT ở huyện
Đông Anh chưa phát huy được vai trò của mình trong việc giáo dục ý thức

1


pháp luật cho học sinh.
Là một giáo viên Giáo dục công dân tôi ý thức được vai trò,trách
nhiệm của mình. Vì vậy tôi chọn “Giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh THPT huyện Đông Anh qua dạy học môn Giáo dục công dân lớp
12” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục pháp luật cho học sinh THPT huyện Đông Anh nói riêng và học sinh
THPT nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
Giáo dục ý thức pháp luật là một vấn đề cấp thiết luôn thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học. Ngay từ những năm 1990, nhiều công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố như: “Nâng cao ý thức pháp luật

của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước hiện nay”, Luận án Tiến sĩ
của Lê Đình Khiên, 1993; “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”, Đào
Trí Úc chủ biên, Hà Nội, 1995; “Một số vân đề lý luận và thực tiễn về giáo
dục pháp luật trong công cuộc đổi mới” của Viện nghiên cứu Khoa học pháp
lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995; “Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi
và vùng dân tộc thiểu số”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “Giáo dục
pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
(không chuyên luật) ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Đinh
Xuân Thảo, 1996; “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức
đặc thù của giáo dục pháp luật”, Luận án Tiến sĩ của Dương Thanh Mai,
1996; “Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - thực trạng và
giải pháp”, Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; “Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, của Vụ Phổ biến giáo dục pháp
luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; “Đổi mới giáo dục pháp luật trong
hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999;
“Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện

2


nay”. Các công trình đã khai thác nhiều khía cạnh khác nhau của ý thức pháp
luật: khái niệm, chức năng, cấu trúc, vai trò…và chú trọng đến việc giáo dục
ý thức pháp luật trong thời kỳ đổi mới cho các đối tượng như cán bộ quản lý
nhà nước, cho đồng bào miền núi, cho các trường chính trị, ít có đề tài nghiên
cứu giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh.
Đến những năm 2000 đề tài về ý thức pháp luật vẫn tiếp tục thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở những khía cạnh, chuyên ngành
khác nhau. Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000; “Logic
khách quan của quá trình hình thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt

Nam”, Luận án Tiến sĩ Triết học, tác giả Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2001;
“Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở tỉnh Phú Thọ trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Thủy, 2008; “Giáo
dục ý thức pháp luật cho học sinh THHPT ở thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê Thị Tuyết Thu, 2011; “Giáo
dục pháp luật và ý thức pháp luật cho thanh niên ở Đăk Lak hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Trần Thị Hương Giang, 2011. Nhìn chung
các công trình trên tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về nhiều vấn đề rất cơ bản
cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục ý thức pháp luật trên
nhiều góc độ như khái niệm, cấu trúc, chức năng… của ý thức pháp luật;
những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật Việt Nam, những
giải pháp nâng cao ý thức pháp luật, có một số công trình hướng đến việc
giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh qua nhiều hoạt động…
Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT
qua dạy học môn Giáo dục công dân. Vì thế đề tài mà tác giả chon làm luận văn
không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát lý luận và thực tiễn việc giáo dục ý thức pháp luật

3


cho học sinh THPT qua dạy học môn Giáo dục công dân ở huyện Đông Anh,
luận văn xây dựng quy trình thực hiện, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT huyện Đông Anh
và có thể cho các trường THPT hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng giáo dục ý thức pháp luật qua

dạy học môn Giáo dục công dân tại một số trường THPT huyện Đông Anh
(Trường THPT Vân Nội, Trung tâm GDTX Đông Anh).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giảng dạy phần Công dân với pháp luật cho học sinh lớp 12 trên địa
bàn huyện Đông Anh.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
Khảo sát thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT qua
dạy học Giáo dục công dân lớp 12 tại trường THPT Vân Nội và Trung tâm
GDTX Đông Anh.
Đề tài khẳng định sự cần thiết phải giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh THPT.
Luận văn đề xuất quy trình, điều kiện, những biện pháp để giảng dạy
Giáo dục công dân nhằm giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT.
5.2. Đóng góp mới của tác giả
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý
thức pháp luật cho học sinh THPT qua dạy học môn Giáo dục công dân.
Đánh giá thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở
huyện Đông Anh qua dạy học môn Giáo dục công dân.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo
dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT qua dạy học Giáo dục công dân, có
thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

4


chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống...

Đề tài còn sử dụng các phương pháp: Điều tra xã hội học, thực nghiệm
sư phạm, thống kê toán học và các phương pháp khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
kết cấu của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

5


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH THPT QUA DẠY HỌC GIÁO DỤC CÔNG DÂN
1.1. Cơ sở lý luận của việc dạy học phần Công dân với pháp luật nhằm
giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT
1.1.1. Ý thức pháp luật và vai trò của ý thức pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một bộ phận
của tồn tại xã hội - phản ánh đời sống pháp luật. Ý thức pháp luật xuất hiện
cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình
phát triển của xã hội, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan
điểm, quan niệm trong xã hội như: quan điểm chính trị, đạo đức, tôn giáo…
Đến nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về ý thức pháp luật cả dưới góc
độ nghiên cứu khoa học cũng như trong cuộc sống.
Theo quan niệm thông thường, ý thức pháp luật được hiểu đơn giản là ý
thức chấp hành những quy định của cá nhân, tổ chức hay một tập thể nào đó.
Để đánh giá ý thức pháp luật của một đối tượng nào đó người ta căn cứ vào
thái độ, hành vi của chủ thể trong quá trình tuân thủ các nguyên tắc, quy định
của pháp luật. Cách hiểu này tuy còn đơn giản, cảm tính song nó góp phần
quan trọng trong việc điều chỉnh các hành vi pháp luật trong đời sống xã hội.
Trong nghiên cứu khoa học, ý thức pháp luật cũng được hiểu ở nhiều

phương diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, đối tượng nghiên cứu.
Theo quan điểm triết học, ý thức pháp luật là một hình thức độc lập
tương đối của ý thức xã hội. Nó bao gồm hệ thống các tư tưởng, quan điểm
và các quan niệm của cá nhân hoặc của giai cấp về pháp chế, trật tự pháp
luật và vai trò của chúng trong đời sống xã hội. Khái niệm ý thức pháp luật
cũng bao gồm cả những cảm giác pháp lý, những tình cảm, cảm xúc và việc
đánh giá của con người về các hành vi hợp pháp và hành vi trái pháp luật,

6


đòi hỏi của sự hiểu biết pháp luật và sự cần thiết hoàn thiện hoặc thay đổi
pháp luật hiện hành.
Cách nhìn của triết học cho thấy ý thức pháp luật là một hình thái ý
thức xã hội, chịu sự quy định bởi tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội mà nó
được sinh ra trên cơ sở đó. Quan niệm này mang lại cái nhìn sâu sắc và toàn
diện về bản chất, vai trò của ý thức pháp luật. Đồng thời nó cũng là cơ sở lý
luận để tiếp cận nghiên cứu ý thức pháp luật cho các ngành khoa học cụ thể.
Trong công trình nghiên cứu luật học, có nhiều quan niệm về ý thức
pháp luật được nêu ra: “Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể những
học thuyết, tư tưởng, quan niệm thịnh hành trong xã hội xã hội chủ nghĩa, thể
hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành; pháp luật đã
qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay
không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức
và hoạt động của cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội”.[47; 173]
Khái niệm ý thức pháp luật được xem xét dưới góc độ khoa học pháp lý
là chủ yếu, tiếp thu được quan điểm triết học coi ý thức pháp luật là một hình
thái ý thức xã hội, là tổng thể những học thuyết, quan điểm, tư tưởng thịnh
hành trong xã hội. Đồng thời các nhà luật học cũng nhấn mạnh đến chủ thể
của ý thức pháp luật là các cá nhân, tổ chức xã hội, nhân dân, cơ quan nhà

nước. Nội dung của ý thức pháp luật là sự hiểu biết, đánh giá, thái độ, hành vi
của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua, pháp luật cần
phải có. Cách tiếp cận luật học tạo cơ sở để có thể tìm hiểu, phân tích nội
dung của ý thức pháp luật gắn với từng cấu trúc cụ thể.
Từ những quan điểm nêu trên có thể định nghĩa: Ý thức pháp luật là
toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong
xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, trình độ hiểu
biết pháp luật, thái độ, sự đánh giá về pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã
hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi ứng xử của con

7


người, trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội.
Đặc điểm của ý thức pháp luật:
Thứ nhất, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Do vậy nó
chịu sự quy định của tồn tại xã hội, là kết quả của quá trình tác động qua lại
của các mặt trong đời sống pháp luật. Chẳng hạn, sự hoàn thiện và phát triển
hệ thống pháp luật của một quốc gia chỉ thấy trình độ lập pháp của nhà nước
đó, trong đó hệ thống pháp luật tiến bộ, khoa học phản ánh quan niệm tư
tưởng pháp luật tiến bộ của giai cấp cầm quyền và ngược lại. Trình độ phát
triển của khoa học pháp lý và chương trình giáo dục pháp luật trong hệ thống
giáo dục quốc dân cho thấy ý thức coi trọng khoa học pháp lý trong việc xây
dựng và quản lý xã hội đến mức nào. Trình độ của ý thức pháp luật của xã hội
đến mức nào phụ thuộc vào trình độ phát triển của đội ngũ chuyên gia pháp
lý, số lượng và chất lượng đội ngũ luật gia, luật sư, thẩm phán, những chuyên
gia tư vấn pháp lý trong các nghành, các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp.
Trật tự pháp luật và tình trạng vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm cho thấy
thái độ tôn trọng pháp luật, và tình cảm đối với pháp luật của nhân dân.
Đồng thời ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã

hội. Điều đó thể hiện ở chỗ, ý thức pháp luật thường lạc hậu so với tồn tại xã
hội. Thực tế cho thấy tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung, trong
đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài.
Những tàn dư của ý tưởng quá khứ được giữ lại, nhất là tâm lý pháp luật, nơi
thói quen và truyền thống còn đóng vai trò lớn. Ví dụ, những biểu hiện của
tâm lý pháp luật phong kiến như sự thờ ơ, phù nhận đối với pháp luật hiện
vẫn tồn tại trong xã hội nước ta hiện nay. Mặt khác, tư tưởng pháp luật, đặc
biệt tư tưởng pháp luật khoa học mới có thể sinh ra trong lòng xã hội cũ. Ý
thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó. Những yếu tố
kế thừa có thể được coi là tiến bộ hoặc không tiến bộ. Ý thức pháp luật tác
động trở lại tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thuộc

8


thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà nước và pháp luật. Sự tác động này
phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của ý thức pháp luật đối với thực
trạng và nhu cầu đời sống xã hội, vai trò của giai cấp cầm quyền cũng như
mức độ phổ biến, thâm nhập của tư tưởng pháp luật trong tầng lớp nhân dân.
Thứ hai ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Ý thức pháp luật xuất hiện
cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, các
giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, có lợi ích khác nhau
do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do đó pháp luật của các giai cấp có
nội dung và hình thức phát triển khác nhau. Để duy trì địa vị thống trị, bảo vệ
lợi ích của mình, giai cấp thống trị phải dùng cách hợp thức hoá ý chí của giai
cấp mình thành pháp luật thông qua con đường nhà nước. Chẳng hạn, bản
chất giai cấp của pháp luật tư bản như C.Mac và P.Ănghen nói cũng như pháp
quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được để lên thành luật
pháp, cái ý chí mà nội dung là điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các
ông quyết định. Các giai cấp khác cũng có ý thức pháp luật của họ, song các ý

thức pháp luật này không thể được phản ánh đầy đủ trong pháp luật, vì về
nguyên tắc chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh
đầy đủ trong pháp luật. Ý thức pháp luật của giai cấp thống trị được thể hiện
trong nội dung, trong hình thức, trong quá trình thực hiện pháp luật hiện hành;
thể hiện tư tưởng, quan điểm, các trị của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội;
còn ý thức pháp luật của các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội chủ yếu được
thể hiện thông qua quan điểm, thái độ, hành vi của họ đối với pháp luật hiện
hành và phản ứng của họ trước việc duy trì quản lý xã hội của nhà nước để
bảo vệ quyền lợi của mình.
1.1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của
đời sống xã hội, với pháp luật và một số hình thái ý thức xã hội liên quan.
Ý thức pháp luật tác động đến đời sống xã hội
Sinh ra từ đời sống xã hội nhưng ý thức pháp luật không phải là sự

9


phản ánh thụ động đời sống xã hội mà nó tác động trở lại đối với đời sống xã
hội. Sự tác động đó thể hiện:
Thứ nhất, đời sống xã hội muốn phát triển bền vững, trước hết phải có
ổn định. Ý thức pháp luật thể hiện qua hệ thống pháp luật là nhân tố quan
trọng trong việc tổ chức, quản lý xã hội, duy trì xã hội trong vòng trật tự, ổn
định để phát triển.
Thứ hai, trong sự phát triển của đời sống xã hội thì kinh tế bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định. Sự phát triển của đời sống kinh tế sẽ kéo theo nó sự
phát triển của đời sống xã hội nói chung. Trong quá trình phản ánh đời sống
kinh tế, ý thức pháp luật có thể góp phần khuyến khích phát triển những yếu
tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực trong sự vận hành của cơ chế kinh
tế. Chẳng hạn, để tạo điều kiện cho sự cạnh tranh lành mạnh, phải có tư tưởng

về sự cần thiết phải có đạo luật chống độc quyền; để khuyến khích phát triển
kinh doanh thì phải có luật để bảo vệ người tiêu dùng, để chống khai thác triệt
để tài nguyên thiên nhiên, phải thấy sự cần thiết có đạo luật bảo vệ môi
trường… Qua đó cho thấy, khi ý thức pháp luật phát triển, với một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế ra đời và phát
triển. Mặt khác chính sự ra đời và phát triển của các quan hệ kinh tế lại tạo ra
những nhu cầu khách quan để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra môi
trường pháp lý thuận lợi cho kinh tế và cho xã hội phát triển.
Thứ ba, ý thức pháp luật không chỉ điều chỉnh những quan hệ kinh tế
đang tồn tại, mà với tính vượt trước của nó, ý thức pháp luật còn có thể đón
bắt và điều chỉnh những quan hệ kinh tế sẽ xuất hiện trong hệ thống kinh tế.
Tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng có thể kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế, nếu sự điều chỉnh thông qua pháp luật mâu thuẫn với nội dung, tính chất,
quy luật của các quan hệ kinh tế. Nó có thể làm rối loạn quá trình kinh tế, làm
cho các hoạt động kinh tế và sự phát triển đi ra ngoài quỹ đạo của mình.
Chẳng hạn, trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp,

10


vì chỉ thừa nhận thành phần kinh tế toàn dân và tập thể, nên hệ thống pháp
luật chỉ tập trung vào việc xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ kinh tế trong lĩnh vực này, nó không tính đến sự phát triển của
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể (kinh tế tư nhân). Điều
này làm cho các quan hệ kinh tế tư nhân bị thui chột hoặc không thể phát triển
dẫn đến sự phát triển không toàn diện của hệ thống kinh tế.
Quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau.
Nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ
giữa những hiện tượng của kiến trúc thượng tầng. Trong đó, pháp luật vừa là

đối tượng nhận thức của ý thức pháp luật, vừa là sản phẩm của hoạt động
sáng tạo của ý thức đó. Pháp luật là một hiện tượng khách quan, nhưng sự ra
đời, hình thành và phát triển của nó lại phải thông qua nhân tố chủ quan - đó
là con người, nói cách khác là thông qua ý thức pháp luật của con người. Vai
trò của ý thức pháp luật đối với pháp luật thể hiện trong những lĩnh vực sau:
- Xây dựng pháp luật
Nói đến pháp luật là nói đến ý chí. Ý chí là một phạm trù của ý thức. Ý
chí là năng lực của con người điều chỉnh hành động của mình nhằm đạt được
những mục đích đã định trước trên cơ sở tính toán tới hoàn cảnh thực tế khách
quan. Ý chí thể hiện trong pháp luật, về cơ bản, là ý chí của giai cấp thống trị,
nhưng nó lại quan hệ với ý chí của cá nhân. Mỗi giai cấp thống trị, trong hoàn
cảnh xã hội nhất định, có những lợi ích nhất định và thông qua các đại biểu
của giai cấp mình, nó nhận thức các lợi ích ấy, biến thành ý chí và thông qua
nhà nước trở thành pháp luật. Như vậy, ý chí là tiền đề của pháp luật. Pháp
luật chính là sự thể hiện những nhận thức về các hiện tượng pháp lý tồn tại
trong đời sống xã hội, từ đó đưa ra những cách xử sự chung cho các chủ thể.
Một giai cấp thống trị chỉ có thể xây dựng được một hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn chỉnh, khi ý thức được một cách đầy đủ hiện thực khách quan của

11


đời sống pháp luật. Như vậy, ý thức pháp luật có vai trò là tiền đề tư tưởng
trực tiếp để xây dựng hệ thống pháp luật.
Ý thức là hiện thực được nhận thức, nhưng sự nhận thức ấy không phải
bao giờ cũng đồng nhất với hiện thực. Do đó, hiện thực khách quan cũng có
lúc bị phản ánh sai lệch, không chân thực. Chính vì thế, trong thực tiễn xây
dựng pháp luật có những quy định pháp lý không phù hợp. Điều đó càng
chứng tỏ vai trò to lớn của ý thức pháp luật đúng đắn, đầy đủ trong việc xây
dựng pháp luật. Nó đòi hỏi ý thức pháp luật cũng phải thường xuyên hoàn

thiện và phát triển dựa trên những phương pháp nhận thức khoa học để phản
ánh chính xác, kịp thời các nhu cầu của đời sống hiện thực.
Ý thức pháp luật là nhân tố rất năng động, thường xuyên bám sát thực
tiễn luôn luôn biến đổi để kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị, sửa đổi, ban
hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn.
- Tuân thủ, tôn trọng và áp dụng pháp luật
Sự tuân thủ, tôn trọng và áp dụng pháp luật phụ thuộc nhiều vào trình
độ nhận thức pháp luật và các trạng thái tâm lý pháp luật của con người. Điều
đó nói lên rằng mọi người không có thái độ như nhau đối với pháp luật. Thái
độ đúng đắn đối với pháp luật chỉ có thể hình thành, xây dựng trên cơ sở ý
thức pháp luật đúng đắn - tức là sự nhận thức đúng đắn, chân thực các hiện
tượng pháp lý trong đời sống xã hội. Vì vậy, ý thức pháp luật của các chủ thể
càng được nâng cao, sự tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, chấp hành pháp
luật của họ càng đúng đắn. Do đó việc bồi dưỡng và nâng cao ý thức pháp
luật có ý nghĩa quan trọng trong việc tuân thủ và tôn trọng pháp luật
Muốn pháp luật có chất lượng cao, phù hợp với cuộc sống, trở thành
pháp luật trong hành động thì ý thức pháp luật của chủ thể sáng tạo pháp luật,
của cơ quan thực hiện pháp luật và của mỗi công dân phải được nâng lên
tương ứng. Ngược lại, là đối tượng nhận thức của ý thức pháp luật, pháp luật
cũng tác động tích cực đến việc hình thành, củng cố, phát triển ý thức pháp
luật. Pháp luật có chất lượng, hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh thì càng tạo

12


điều kiện để phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả, nâng cao ý thức pháp
luật trong nhân dân. Khi đó pháp luật với những đặc trưng vốn có của nó,
nhất là tính bắt buộc chung đóng vai trò như là phương tiện truyền bá một
cách hiệu quả ý thức pháp luật xã hội đến ý thức pháp luật của từng cá nhân.
- Văn hoá pháp lý và giáo dục pháp luật

Ý thức pháp luật là một bộ phận của văn hoá pháp lý. Một cá nhân có
văn hoá pháp lý nghĩa là người đó phải có trình độ, kiến thức về các quy
phạm pháp luật hiện, thái độ tôn trọng đối với pháp luật và hình thành những
ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật, có sự đánh giá và phản ứng đúng
đắn đối với các hành vi pháp luật của các cá nhân khác. Văn hoá pháp lý là sự
thống nhất của các yếu tố: tri thức, tình cảm và hành vi đối với pháp luật. Nếu
xét về mặt ngoại diên của khái niệm, thì khái niệm văn hoá pháp lý rộng hơn
ý thức pháp luật. Nếu ý thức pháp luật chỉ gồm tri thức và tình cảm pháp lý
thì ngoài hai yếu tố trên, văn hoá pháp lý còn có cả yếu tố hành vi.
Tuy là một bộ phận của văn hoá pháp lý, nhưng ý thức pháp luật được
coi là bộ phận quan trọng nhất, nó là cơ sở, tiền đề để xây dựng văn hoá
pháp lý. Ý thức pháp luật càng cao thì văn hoá pháp lý càng phát triển. Vì là
cái thể hiện ra bên ngoài của ý thức pháp luật, nên một xã hội có nền văn
hoá pháp lý là xã hội, mà ở đó mọi người có tri thức và tình cảm pháp luật ở
trình độ cao. Và con đường để nâng cao văn hoá pháp lý và ý thức pháp luật
trước hết là giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật ở đây được hiểu là sử
dụng những hình thức khác nhau, tác động có hệ thống và thường xuyên tới
ý thức của con người, nhằm trang bị cho họ những kiến thức pháp lý nhất
định để từ đó họ nhận thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự
theo yêu cầu của pháp luật.
Ý thức pháp luật và ý thức chính trị
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội với nhà nước.
Theo Lênin, chính trị là lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp,
các tầng lớp với nhà nước, là lĩnh vực mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với

13


nhau. Chính trị phản ánh các lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội. Pháp luật suy đến
cùng, cũng phản ánh các lợi ích giai cấp, của xã hội mà trước hết là lợi ích

của giai cấp thống trị. Theo sự phân tích trên đây, khái niệm “quan hệ chính
trị” được dùng để chỉ quan hệ của các giai cấp trong việc giành, bảo vệ và sử
dụng chính quyền nhà nước theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Theo
nghĩa đó, quan hệ chính trị trở thành quan hệ quyền lực nhà nước. Nhà nước
có thể được coi là giao điểm của các quan hệ. Nó là tổ chức quyền lực thống
trị giai cấp và đồng thời là tổ chức công quyền của xã hội, quản lý xã hội.
Như thế, nhà nước vừa là tổ chức chính trị, là công cụ thực hiện lợi ích giai
cấp như các yếu tố chính trị khác; vừa là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội, thực hiện quyền lực công cộng. Từ tính chất đó, chúng ta đã thấy rõ, chỉ
có nhà nước mới là tổ chức chính trị có khả năng và điều kiện sử dụng công
cụ pháp luật, vì thế, pháp luật luôn là dấu hiệu đặc trưng của nhà nước.
Từ những điều trình bày trên cho thấy, ý thức chính trị là sự phản ánh
các mối quan hệ kinh tế giữa các giai cấp cũng như thái độ của giai cấp đối
với quyền lực nhà nước, mà đặc trưng nhất của ý thức chính trị là thể hiện
trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp. Trong mối quan hệ với ý thức
chính trị, ý thức pháp luật có vai trò như là nơi thể hiện, phản ánh những yêu
cầu của chính trị dưới góc độ pháp luật; không có nó thì sự lãnh đạo về mặt
chính trị của giai cấp thống trị khó có thể được chấp nhận và phục tùng trong
xã hội có giai cấp. vì thế, ý thức pháp luật mà sự thể hiện cụ thể là pháp luật
hiện hành có vai trò vừa là biện pháp, phương tiện để thực hiện quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị, vừa là hình thức biểu hiện của quan điểm
thống trị trong xã hội đó.
Ý thức pháp luật với ý thức đạo đức
Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức có chung một mục đích là điều tiết
các hành vi của con người trong xã hội. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và
ý thức đạo đức là mối quan hệ bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong quá

14



trình điều chỉnh hành vi của con người. trong mối quan hệ này, ý thức đạo
đức chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh (bằng
dư luận xã hội) hành vi của con người nên trong một số trường hợp nhất định,
những định hướng đạo đức muốn thực hiện một cách phổ biến trong xã hội,
phải được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Điều đó cho thấy, trong
một số mặt nhất định, ý thức pháp luật có ưu thế trội hơn so với ý thức đạo
đức. Nó không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức, mà còn là công cụ
hữu hiệu bảo vệ đạo đức, lẽ phải bằng những chế tài cụ thể, xác định. Sự phân
tích trên cho thấy, ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, phát
triển và bảo vệ ý thức đạo đức trong xã hội.
1.1.2. Sự cần thiết giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
Xuất phát từ vai trò của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội, giáo
dục ý thức pháp luật cho học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường là rất cần
thiết. Học sinh THPT đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ cả về thể chất
và tinh thần. Các em đang trang bị cho mình những kiến thức khoa học, xã
hội để bước vào cuộc sống. Các em sẽ là những công dân có đủ khả năng
quyết định con đường đi của cuộc đời, chịu mọi hành vi của mình trước pháp
luật. Ý thức pháp luật, năng lực thực hành pháp luật sẽ là hành trang quý báu
để các em bước vào cuộc sống. Sự cần thiết giáo dục ý thức pháp luật còn
xuất phát từ quan điểm giáo dục con người toàn diện, quan điểm xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm hướng tới xã hội Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.1.2.1. Nhà nước pháp quyền với yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao pháp luật,
pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống


15


xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân thể hiện quyền lực nhà nước là thống nhất, vì mục tiêu chung
là phục vụ cho lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Công dân
có quyền tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo
luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương và kiến nghị với các
cơ quan nhà nước. Đó là một mô hình nhà nước tiến bộ mà bất cứ một xã
hội nào cũng cần phải hướng tới.
Nội dung quan trọng của nhà nước pháp quyền là khẳng định cội
nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Ở nước ta để bảo đảm phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để
từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận
thức rằng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu
dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của
xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lập

16


nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ
cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là nhà nước mà mọi tổ chức (kể cả
tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật,
chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây
dựng xã hội công dân. Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách
rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các
cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền
khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là
điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó
là một trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần
chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các

ngành, của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo
của công dân.
- Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp

17


quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp
là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những
nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động lập pháp phải vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát
triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa quy trình lập pháp. Quy trình đó
phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội
trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định
để có sự phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản
dưới luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
Như vậy, nhà nước pháp quyền trong đó nhà nước và nhân dân làm
việc theo hiến pháp và pháp luật. Mọi người đều phải hiểu và tuân theo pháp
luật, phải có ý thức pháp luật. Do vậy ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường
học sinh trung học phổ thông cần được trang bị kiến thức pháp luật, nâng cao
ý thức pháp luật.
1.1.2.2. Quan điểm giáo dục toàn diện
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc
xây dựng con người mới với đầy đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa thì
giáo dục và đào tạo đóng vai trò “then chốt” thực chất là để nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, để phát triển con người Việt Nam - con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức, con người có phẩm chất chính trị, tư tưởng vững vàng,

18


có lý tưởng cao đẹp, biết và luôn phát huy năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, có
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội, mang bản lĩnh và nhân
cách con người Việt Nam, không ngừng phát huy tư cách, nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân.
Trước đây mục tiêu giáo dục toàn diện thường được hiểu đơn giản là:
Học sinh phải học đầy đủ tất cả các môn học thuộc các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, nghệ thuật, thể dục thể thao… Không
những thế, việc thực hiện mục tiêu giáo dục cũng nghiêng về truyền thụ kiến
thức càng nhiều càng tốt; chú trọng dạy chữ hơn dạy người, chú trọng truyền
bá kiến thức hơn đào tạo, bồi dưỡng năng lực của người học; ít yêu cầu người
học vận dụng kiến thức vào thực tế… Tình hình này đã dẫn đến hiện tượng
"quá tải", vừa thừa, vừa thiếu đối với người học và đối với mục tiêu giáo dục.
Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới là: phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú trọng phát triển cả
phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy nghề. Giáo dục
và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực cần thiết
như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hoài bão và lí tưởng phục vụ Tổ
quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng
tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội;
có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả. Mục tiêu giáo

dục con người Việt Nam phát triển toàn diện đã được xác định trong các
chương trình trước đây, nhưng thường được quan niệm đó là nhiệm vụ đào
tạo những con người phát triển hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nghĩa là giáo dục,
đào tạo con người đáp ứng yêu cầu CNH, HÐH đất nước, con người cho xã
hội. Thực hiện công cuộc đổi mới, ngoài việc phát triển con người cho xã hội,

19


×