Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

NGHIÊN cứu kỹ NĂNG xã hội của học SINH TRƯỜNG TIỂU học sơn TRƯỜNG,HUYỆN HƯƠNG sơn, TỈNH hà TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.9 KB, 135 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------

H TH THNG

Nghiên cứu kỹ năng xã hội
của học sinh trờng Tiểu học Sơn Trờng,
huyện Hơng Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
Chuyờn ngnh: Tõm lý hc
Mó s: 60.31.04.01

LUN VN THC S TM Lí HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN TH HU


HÀ NỘI - 2013

2


Lời cảm ơn
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến cô PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ - người đã chỉ dẫn, hỗ trợ em một
cách tận tâm, chu đáo giúp đỡ em hoàn thành luận văn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo khoa Tâm lý –
giáo dục, phòng sau đai học trường Đại học Sư phạm đã hết sức tạo điều kiện
để em có thể học tập và nghiên cứu.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu nhà
trường cùng các em học sinh và cán bộ giáo viên nhân viên trường tiểu học


Sơn Trường, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã hợp tác và tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian điều tra thực trạng tại trường.
Cảm ơn gia đình, anh chị đồng nghiệp, bạn bè đã luôn ủng hộ và giúp
đỡ mọi mặt để tôi có thể hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Stt
1
2
3
9
4
5
6
7
8

Chữ viết tắt
KNXH
HSTH
THPT
TH
SSRS

Chữ viết đầy đủ

Kỹ năng xã hội
Học sinh tiểu học
Trung học phổ thông
Tiểu học
Social Skills Rating System (thang đánh giá

IQ
GD - ĐT
GS
VS

kỹ năng xã hội)
Intelligence Quotient (Chỉ số thông minh)
Giáo dục – đào tạo
Giáo sư
Viện sĩ


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Theo truyền thống, trí thông minh vẫn được đánh giá qua các bài kiểm
tra nhận thức như bài kiểm tra IQ, bài kiểm tra theo tiêu chuẩn và xếp hạng
điểm số. Những nghiên cứu hiện nay lại chỉ ra rằng những khả năng không

liên quan tới nhận thức cũng cần thiết để đạt được thành công trong cuộc
sống. KNXH, khả năng phối hợp làm việc, mức độ tập trung vào các nhiệm
vụ, khả năng tự chủ, và mong muốn khẳng định bản thân là những chỉ số thiết
yếu, thậm chí còn đóng vai trò quyết định hơn cả trí thông minh “ nhận thức”
trong việc dự đoán mức độ thành công.
KNXH là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi lứa tuổi, nó quyết
định đến chất lượng cuộc sống của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung. Đây
là một lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên
thế giới cũng như trong nước. Trên thế giới vấn đề giáo dục KNXH cho lứa
tuổi học sinh được quan tâm khá nhiều, nó trở thành đề tài nghiên cứu của rất
nhiều công trình và trở thành nội dung quan trọng được dạy xen kẽ vào các
tiết học ở trong nhà trường. Trong một số công trình nghiên cứu của mình các
tác giả đã tìm hiểu tầm quan trọng của KNXH đối với sự thành công của cá
nhân trong đường đời. Những thành tựu thu được từ những công trình này đã
cho thấy vai trò hết sức quan trọng của KNXH đối với mọi lứa tuổi.
Giáo dục KNXH là một quá trình lâu dài, nó phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục và có sự kết hợp giữa các yếu tố tác động giữa nhà trường, gia
đình và xã hội. Với sự ảnh hưởng của KNXH đối với cuộc sống của cá nhân và
xã hội, Bộ Giáo dục đã có những chính sách giáo dục phù hợp và tích cực áp
dụng vào chương trình dạy học để nâng cao KNXH cho học sinh.

1


1.2. Về mặt thực tiễn
Ngày nay, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, sự bùng
nổ thông tin và toàn cầu hoá đã kéo theo sự thay đổi không ngừng mọi mặt
đời sống xã hội. Một mặt điều đó đem lại cho con người một cuộc sống tiện
nghi, hiện đại hơn, nhưng mặt khác đòi hỏi các hoạt động của con người phải
đa dạng và phức tạp, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Theo các nhà tâm lý học, hoạt động của con người mang bản chất xã
hội. Những hoạt động cùng hoặc với người khác là một phần không thể thiếu
được trong hoạt động sống của mỗi người. Quá trình lớn lên của mỗi đứa trẻ
chính là quá trình trải nghiệm, tập nhiễm, học các KNXH để giúp chúng ta
thích ứng và thành công trong các hoạt động cùng hoặc với người khác.
Trẻ em ngày nay thường xuyên phải đối mặt với những tình huống mới
lạ, bất ngờ, mà đối với chúng thì đó là các khó khăn. Cách thức ứng xử trong
các tình huống đó sẽ để lại những dấu ấn có tác động tích cực hay tiêu cực
đến sự phát triển nhân cách sau này của trẻ. Do vậy cần phải có những nghiên
cứu cụ thể để tìm ra những biện pháp giúp trẻ phát triển hài hòa cùng sự phát
triển của xã hội trong hoàn cảnh mới với nhiều thách thức.
Sự biến đổi xã hội diễn ra nhanh chóng khiến cho trẻ em thế giới nói
chung và trẻ em Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều áp lực hơn
so với trước. Kết quả của nhiều nghiên cứu xã hội học, giáo dục học, tâm lý
học gần đây đã cho thấy sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực ở trẻ em như: bạo
lực, hành vi xâm kích, biểu hiện trầm cảm...với độ tuổi xuất hiện lần đầu ngày
càng giảm xuống. Các hành vi tiêu cực đó diễn ra ở ngay trên lớp học hoặc ở
ngoài lớp học với các cấp độ quan trọng khác nhau, từ chỗ làm phương hại
đến người khác cho đến tự làm tổn hại bản thân. Ngoài ra, số liệu về các rối
nhiễu tâm lý của trẻ em được thông tin qua các phương tiện đại chúng làm các
nhà giáo dục đặc biệt quan tâm lo lắng...có thể thấy một trong những nguyên
nhân đó thuộc về việc các em bị thiếu hụt kỹ năng xã hội.
Những số liệu nghiên cứu cho thấy không phải mọi trẻ em lớn lên đều
2


phát triển đầy đủ các KNXH và nhiều trẻ em do thiếu hụt những KNXH này
đã dẫn đến gặp khó khăn hoặc thất bại học đường. Vì vậy, phát hiện sớm
những thiếu hụt và huấn luyện, phát triển những kỹ năng này là rất quan trọng
ở trẻ em, đó cũng là một nhân tố thúc đẩy quá trình xã hội, phát triển “cái tôixã hội” ở các em.

Khởi xướng, thiết lập những mối quan hệ hợp tác, đồng cảm, chia sẻ,
chủ động đề nghị người khác giúp đỡ, biết kiềm chế… là những kỹ năng xã
hội tiêu biểu một cá nhân thể hiện trong các hoạt động cùng hoặc với người
khác. Những hành vi đề nghị người khác giúp đỡ, thể hiện sự vui mừng, biết
nói lời cảm ơn khi được người khác giúp đỡ, động viên, thông cảm khi người
khác gặp chuyện buồn, khen ngợi người khác khi họ làm được việc tốt… là
những bằng chứng cụ thể ở người có kỹ năng xã hội tốt. Sớm phát triển các
kỹ năng xã hội này để giúp trẻ thành công trong việc thiết lập, duy trì mối
quan hệ tốt với người khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo
dục, giúp trẻ đạt được sự thành công học đường.
.Giáo

dục tiểu học là bậc học nền tảng, nghĩa là việc xây dựng và phát

triển các mặt tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất cho các em có ý
nghĩa hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách trong
tương lai. Trên thực tế, vấn đề giáo dục KNXH cho học sinh từ lâu đã và đang
được tiến hành trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển
của xã hội hiện đại, thì nội dung giáo dục KNXH cũng cần phải được quan tâm
nghiên cứu bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với trẻ em hiện nay.
Trường Tiểu học Sơn Trường nằm ở một huyện nghèo, cơ sở vật chất
thiếu thốn, nội dung giáo dục trong nhà trường chủ yếu vẫn là dạy chữ, vấn đề
giáo dục KNXH chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến kết quả học tập của
các em chưa thật sự cao.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu kỹ
3


năng xã hội của học sinh trường Tiểu học Sơn Trường, huyện Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh”.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về KNXH của HSTH,
phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển KNXH
của các em, từ đó đề xuất ra một số biện pháp tâm lý sư phạm giúp HSTH
có KNXH tốt hơn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Học sinh trường Tiểu học Sơn Trường, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh và một số giáo viên trực tiếp giảng dạy tại các lớp có học sinh trên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ KNXH của HSTH.
4. Giả thuyết khoa học
Chúng tôi giả định rằng học sinh trường Tiểu học Sơn Trường, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã có một số KNXH cơ bản, tuy nhiên vẫn còn ở
mức độ trung bình, có sự khác biệt giữa các khối lớp, giữa nhóm học sinh có
học lực khá giỏi và học sinh có học lực trung bình. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển KNXH của HSTH như sự phát triển trí tuệ, tính tích
cực hoạt động của cá nhân, môi trường sống… trong đó những tác động sư
phạm trong nhà trường đóng vai trò quan trọng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỹ năng, kỹ năng xã hội, kỹ năng xã hội của
học sinh tiểu học, vai trò của kỹ năng xã hội ….
5.2. Khảo sát thực trạng mức độ về kỹ năng xã hội của học sinh trường Tiểu
học Sơn Trường, huyện Hương Sơn, tĩnh Hà Tĩnh.
5.3. Đề xuất một số kiến nghị góp phần rèn luyện những kỹ năng xã hội cần
thiết cho học sinh tiểu học.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về khách thể
Do điều kiện vật chất và thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ giới hạn
trên những khách thể sau:

4


- 185 học sinh đang học lớp 1, 2, 3, 4, 5 trường Tiểu học Sơn Trường,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp 1, 2
- Nghiên cứu điển hình 2 học sinh có mức độ KNXH khác nhau.
- 20 giáo viên trong trường nhằm thu thập ý kiến về các yếu tố ảnh
hưởng đến KNXH của học sinh.
6.2. Giới hạn về nội dung
Đề tài tập trung nghiên mức độ KNXH của HSTH trong nhà trường
trên cơ sở đo lường các kỹ năng cơ bản sau: kỹ năng hợp tác trong học tập; kỹ
năng tự khẳng định, kỹ năng đồng cảm, kỹ năng tự chủ - tự đánh giá.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đề ra, đề tài sẽ sử dụng đồng bộ các phương
pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Thu thập, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu KNXH của
HSTH làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn.
7.2. Phương pháp quan sát
Trực tiếp quan sát và ghi chép trong điều kiện tự nhiên của lớp học và
trong khi học sinh tham gia các hoạt động khác trong trường học.
7.3. Phương pháp trắc nghiệm
Sử dụng thang đo KNXH để xác định mức độ KNXH của HSTH.
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phỏng vấn một số học sinh có mức độ KNXH cao và một số học sinh
có mức độ kỹ năng xã hội thấp.
- Phỏng vấn một số giáo viên trực tiếp giảng dạy tại các lớp có những
học sinh trên.
7.5. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

Xây dựng bảng hỏi thu thập biểu hiện và các yếu tố chính ảnh hưởng
đến mức độ KNXH của HSTH.
5


7.6. Phương pháp nghiên cứu điển hình và mô tả chân dung
Mô tả một số trường hợp có mức độ KNXH tốt và một số trường hợp
chưa tốt nhằm làm rõ hơn về các tác nhân ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ
KNXH của học sinh.
7.7. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Phương pháp được sử dụng để phân tích, xử lý các dữ liệu thu thập được.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN TÂM LÍ HỌC VỀ KỸ NĂNG XÃ HỘI CỦA
HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Trong Tâm lý học, vấn về KNXH nói riêng và kỹ năng sống nói chung
được nhiều nhà khoa học cả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ đã thành lập một Uỷ ban thư ký về rèn
luyện các kỹ năng cần thiết. Cũng trong thời gian này, tại Úc, Hội đồng Kinh
doanh Úc và Phòng Thương mại và Công nghiệp Úc với sự bảo trợ của Bộ
Giáo dục, Đào tạo và Khoa học và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc đã xuất bản
cuốn “Kỹ năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các
kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có.
Những năm đầu thập niên 90, một số nước Châu Á như: Ấn Độ, Lào,
Campuchia, Indonexia, Thái Lan… đã đưa ra các thiết kế chương trình giáo

dục và trang bị kỹ năng như: Lồng ghép vào chương trình dạy chữ, học vấn,
vào tất cả các môn học và các chương trình ở những mức độ khác nhau. Dạy
các chuyên đề cần thiết cho người học như: Kỹ năng nghề, kỹ năng hướng
nghiệp… và được chia làm ba nhóm chính là: Nhóm kỹ năng cơ bản (gồm các
kỹ năng đọc, viết, ghi chép…), nhóm các kỹ năng chung (gồm các kỹ năng tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề…) và nhóm
kỹ năng cụ thể (gồm các kỹ năng bình đẳng giới, bảo vệ sức khoẻ, nâng cao
đời sống tinh thần…) [30, tr.4].
Vào tháng 6/2005, 20 ngàn trường tiểu học trên khắp nước Anh bắt đầu
áp dụng một chương trình mới của Bộ Giáo dục nhằm dạy học sinh cách hoàn
thiện các KNXH, chẳng hạn như cách kết bạn, cách giải quyết các cuộc cãi

7


cọ, cách chế ngự sự ghen ghét hay các bài học khuyến khích trẻ khen ngợi
bạn bè, tha thứ lỗi lầm của người khác… Bộ Giáo dục nước này cho biết đã
đến lúc các thầy cô giáo phải nhận thức rằng trách nhiệm giúp trẻ phát triển
các kỹ năng về xã hội và tình cảm không chỉ là của gia đình mà còn của nhà
trường. Chương trình trên được giới thiệu trong bối cảnh tình trạng cha mẹ ly
hôn, nuôi con đơn thân, không có thời gian cho con đang rất phổ biến ở nước
Anh. Các nhà giáo dục cũng vừa lớn tiếng cảnh báo về thực trạng học sinh
cấp 2 gặp rắc rối trong hành vi đang gia tăng. Ngay sau đó, hàng trăm trường
tiểu học ở Anh đã áp dụng thử nghiệm chương trình mới, trong đó các em có
thể được hướng dẫn thảo luận về các tình huống cụ thể thường gặp trong xã
hội. Chương trình rất đa dạng với các giờ học khuyến khích các em nói về
cảm xúc của mình, yêu cầu các em xây “ một bức tường tình bạn”, trong đó
viết về giá trị của tình bạn lên các viên gạch… sáng kiến này của Bộ Giáo dục
Anh nhận được nhiều lời khen ngợi từ phía phụ huynh [69, 68].
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam

Tại Việt Nam việc giáo dục cho con trẻ biết đối nhân xử thế, kinh
nghiệm làm ăn để đáp ứng và biến ứng với những rủi ro, sự cố, những điều
không mong muốn… đã được phản ánh khá phong phú qua hệ thống danh
ngôn, ca dao và những lời dạy của người xưa. Còn trong mục tiêu dạy học ở
trường, thì học để làm người hay nói cách khác là học để biết đối nhân xử thế,
học để sống tốt hơn và học để phục vụ bản thân – gia đình và xã hội đã được
quan tâm ngay từ những ngày đầu tiên của giáo dục Việt Nam.
Cùng với “kỹ năng sống”, thuật ngữ “kỹ năng xã hội” bắt đầu được
quan tâm tại Việt Nam vào những năm đầu thập niên 90, khi xã hội bắt đầu có
những chuyển biến phức tạp về nền kinh tế thị trường và việc du nhập các nền
văn hoá từ các nước bên ngoài vào Việt Nam đã tác động rất lớn đến cách
nghĩ và bản chất sinh hoạt lao động của con người. Vì lẽ đó nó đòi hỏi mỗi
người phải học cách thích nghi với những sự thay đổi đang ngày một hiện rõ
8


và lớn dần, từ nay những kỹ năng khác ngoài trình độ học vấn được xem xét
và quan tâm – đó chính là điều kiện để giáo dục Việt Nam quan tâm đến các
KNXH, cho phép thử triển khai giáo dục KNXH trong chương trình giáo dục
và triển khai một số dự án về kỹ năng sống của các tổ chức khác trên thế giới.
Tại Việt Nam đầu những năm 90, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có văn
bản chỉ đạo tại Quyết định 1363/TTG về việc cần rèn luyện kỹ năng xã hội ở
các bậc học, nội dung của quyết định cũng đã có đề cập đến việc trang bị cho
người học những hiểu biết về văn hóa ứng xử, về thái độ sống.
Năm 1996, các nội dung giáo dục KNXH được thông qua trong chương
trình “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS
cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” của UNICEF [4, tr 2, 26].
Năm 2007 – 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phong trào này bắt
đầu được triển khai mạnh mẽ trong hầu hết tất cả các bậc học từ mầm non cho

đến đại học. Ngày 22 tháng 7 năm 2008, một lần nữa Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã chỉ ra Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 –
2013. Kèm với chỉ thị này là một thông báo về hướng dẫn triển khai phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” năm học 2008 –
2009 và giai đoạn 2008 – 2013 với mục tiêu liên quan đến KNXH là: “Rèn
luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và
kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ
sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn
thương tích khác; Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình
phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội” [3].
Ngày 31/08/2011, Nguyên Bộ trưởng Bộ GD – ĐT, GS.VS Phạm Minh
Hạc đó phát biểu về Triết lý giáo dục hiện này tại buổi tọa đàm “Triết lý giáo
dục Việt Nam” do Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức tại Hà Nội.

9


Trong buổi tọa đàm này, Triết lý giáo dục “Giáo dục hệ giá trị bản thân” được
chú trọng. Nhà trường hình thành và phát triển ở người học hệ giá trị của từng
người: Tâm lực, trí lực, thể lực – giá trị học thức, giá trị sống, giá trị tay nghề
và lương tâm nghề, giá trị đóng góp, giá trị tự khẳng định mình; Người học
tạo cho mình có các giá trị để sống và hoạt động, phát huy hệ giá trị bản thân
đem lại cuộc sống cho mình, gia đình và cộng đồng, xã hội.
Tóm lại, cho đến nay KNXH vẫn còn là một trong những vấn đề khá
mới mẻ trong khoa học cũng như trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Nghiên
cứu KNXH tại Việt Nam hay triển khai chương trình rèn luyện KNXH cho
chọ sinh mới thể hiện rõ ở chương trình giáo dục ngoài khung chương trình
đào tạo. Chưa có văn bản, tài liệu khoa học hay giáo trình chuẩn về giảng dạy
KNXH cho học sinh. Đây cũng là một nguyên nhân hạn chế việc giáo dục

KNXH tại Việt Nam hiện nay.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
 Khái niệm
Thuật ngữ “kỹ năng” hiện nay được sử dụng rất rộng rãi. Khi muốn
diễn đạt tình trạng cá nhân biết cách thực hiện có kết quả một hành động, hoạt
động, thậm chí một lĩnh vực hoạt động xã hội, người ta dùng thuật ngữ kỹ
năng. Chẳng hạn như kỹ năng đọc, viết, tính toán… là muốn nói đến một cá
nhân đó biết thực hiện hành động tương ứng. Kỹ năng dạy học, giáo dục, giao
tiếp… là muốn nói đến cá nhân biết thực hiện một hoạt động. Gần đây có tác
giả nói đến kỹ năng sống, bao hàm trong đó mọi năng lực của con người để
thích ứng được với môi trường xã hội. Ở đề tài này chúng tôi chỉ bàn đến
thuật ngữ kỹ năng gắn liền với một hành động hay hoạt động cụ thể.
Kỹ năng được hiểu một cách thông thường là biết thực hiện một hành
động hay hoạt động nào đó có kết quả. Song bản chất kỹ năng là gì lại được
các nhà khoa học nghiên cứu và đề cập đến ở những góc độ khác nhau.
10


Khuynh hướng thứ nhất xem kỹ năng như là mặt kĩ thuật của thao tác,
hành động hay hoạt động. Đại diện cho quan niệm này là các tác giả:
V.A.Crucheski, A.G. Côvaliôp, Trần Trọng Thuỷ…
Theo V.A. Crucheski “kỹ năng là thực hiện một hành động hay một
hoạt động nào đó nhờ sử dụng những kỹ thuật, những phương thức đúng đắn”
[21, tr.88]. Trong cuốn “Tâm lý học cá nhân” A.G. Côvaliôp cũng xem “kỹ
năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện
của hành động” [5, tr.11]. Ở khái niệm này, cũng không đề cập đến kết quả
của hành động. Theo ông kết quả của hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó quan trọng hơn cả là năng lực của con người chứ không đơn giản là
cứ nắm vững cách thức hành động là đem lại kết quả tương ứng.

Khi bàn về kỹ năng, Trần Trọng Thuỷ cũng cho rằng: Kỹ năng là mặt
kỹ thuật hành động, con người nắm được cách hành động tức là có kỹ thuật
hành động có kỹ năng [23, tr.49].
Khuynh hướng khác xem xét kĩ năng ở góc độ rộng hơn khi xem nó như
biểu hiện của năng lực cá nhân và cũng là điều kiện cần thiết để có năng lực
trong một lĩnh vực nhất định. Tiêu biểu là các tác giả: N.D. Levitôv, K.K.
Platônov, G.G.Gôlubep, A.V. Petrôvxki, P.A. Rudic, X.I. Kixêgôp, Nguyễn
Quanh Uẩn, Trần Quốc Thành…. Theo các tác giả này thì kĩ năng là năng lực
của con người khi thực hiện một công việc có kết quả trong những điều kiện
mới, trong một khoảng thời gian tương ứng. Việc xem xét kĩ năng với tư cách
là năng lực hành động của cá nhân yêu cầu ta không chỉ phân tích mặt kĩ thuật
của hành động mà còn gắn kết với kết quả, với khả năng vận dụng tri thức
trong những điều kiện nhất định.
A.V. Petrôvxki cho rằng: Kỹ năng chính là năng lực sử dụng các dữ
kiện, các tri thức hay khái niệm đã có, năng lực vận dụng chúng để phát hiện
những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những
11


nhiệm vụ lý luận hay thực hành xác định.
Các tác giả Paul Hersey và Ken Blanc Hard cho rằng: “Kỹ năng là khả
năng sử dụng tri thức, các phương pháp kỹ thuật và thiết bị cần thiết cho việc
thực hiện các nhiệm vụ nhất định có được từ kinh nghiệm giáo dục và đào
tạo” [12, tr.15].
Tác giả X.I. Kiêgop cho rằng: “Kỹ năng là khả năng thực hiện có hiệu
quả hệ thống các hành động phù hợp với các mục đích và điều kiện của hệ
thống này” [18, tr.18].
Đồng quan điểm này, thì các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh
Tuyết, Trần Thị Quốc Minh cũng quan niệm kỹ năng là một mặt của năng lực
con người thực hiện một công việc có kết quả.

Các nhà Tâm lý học Việt Nam (Ngô Công Hoàn, Nguyễn Thị Ánh
Tuyết, Nguyễn Quang Uẩn) cho rằng: “Kỹ năng là một mặt năng lực của con
người thực hiện một công việc có hiệu quả”.
Trong “Từ điển Tâm lý học” do Vũ Dũng chủ biên thì: “Kỹ năng là
năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đó được chủ
thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [7, tr.132].
Từ những ý kiến trên có thể nhận thấy kỹ năng vừa có mặt kỹ thuật vừa
là mặt biểu hiện của năng lực
Trong nghiên cứu mới đây nhất của tác giả Huỳnh Minh Như Hương
cho rằng: “Kỹ năng là cách thức con người thực hiện một hành động dựa
trên sự hiểu biết và kinh nghiệm của cá nhân trong những hoàn cảnh nhất
định” [10, tr.16].
Tổng hợp các cách tiếp cận về kỹ năng ở trên cho thấy:
- Kỹ năng vừa được xem như là kỹ thuật của hành động vừa được xem
là năng lực cá nhân trong hoạt động cụ thể.
- Để thực hiện kỹ năng, cá nhân cần nắm rõ và vận dụng vào thực tiễn,

12


trong điều kiện cụ thể các tri thức hành động, bao gồm mục đích, yêu cầu
(bao gồm cả thái độ liên quan tới hoạt động), thao tác, kỹ thuật hành động,
phương thức thực hiện.
- Thông qua rèn luyện, kỹ năng được hình thành và phát triển qua từng
mức độ từ thấp đến cao, từ sơ đẳng tới nâng cao, từ đơn lẻ tới tổng hợp.
Từ những phân tích các nghiên cứu trên, chúng tôi đi đến kết luận như
sau: Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động nào đó trên cơ sở vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, thái độ liên quan vào hành động thực
tiễn trong điều kiện cụ thể.
Trong khái niệm này, chúng tôi đề cập đến kỹ năng ở các khía cạnh sau:

- Yếu tố nền tảng của kỹ năng là những kinh nghiệm, hiểu biết về mục
đích, yêu cầu kỹ thuật được cá nhân lựa chọn và vận dụng vào hành động đó
để đi đến mục đích đề ra.
- Kỹ năng được thể hiện qua việc vận dụng những kiến thức, hiểu biết
vào hành động thực tiễn, chịu ảnh hưởng của cách nghĩ, thái độ liên quan tới
hoạt động cụ thể.
- Sự hình thành và phát triển kỹ năng từ thấp tới cao thông qua quá
trình học hỏi và rèn luyện.
 Cơ chế tâm lý hình thành kỹ năng
Tâm lý học Macsxit đã khẳng định: tâm lý người có bản chất là hoạt
động. Nói cách khác, tâm lý, ý thức được nảy sinh, hình thành và phát triển
trong quá trình chủ thể tiến hành hoạt động. Vì vậy, quan điểm đúng về kỹ
năng là phải coi kỹ năng là “các đặc điểm của hành động”.
Theo P.Ia.Galpêrin và các đồng sự của ông thì cơ chế hình thành tri
thức kỹ năng cho học sinh chính là cơ chế hình thành hành động trí óc qua
từng giai đoạn với hai phần không ngang bằng nhau: phần định hướng và
phần thực hiện. Qúa trình chuyển hóa của hành động từ bên ngoài vào bên

13


trong để hình thành tri thức, kỹ năng được xác định bởi các thông số sau đây:
Một là: hình thức hay mức độ thực hiện (có ba hình thức: hành động
với đồ vật – vật thật hay vật chất hóa; hành động với lời nói to và hành động
với lời nói thầm).
Hai là, tính khái quát.
Ba là độ thành thạo.
Bốn là tính rủi ro
Thông số đầu tiên xác định mức độ thực hiện, ba thông số còn lại xác
định chất lượng hành động. Các giai đoạn cụ thể theo quan điểm của Galpêrin

là: thiết lập cơ sở định hướng hành động; hành động với đồ vật hay vật chất
hóa; hành động ngôn ngữ bên ngoài (hình thức nói to hoặc viết); hành động
với lời nói thầm; hành động trí óc.
Như vậy, hành động vật chất đã chuyển thành ngôn ngữ bên ngoài và
cuối cùng trở thành ngôn ngữ bên trong được khái quát và rút gọn.
Tóm lại, hành động chuyển từ bên ngoài vào bên trong là qua từng giai
đoạn. Ở mỗi giai đoạn, cấu trúc của hành động được tổ chức lại ngày một
khái quát và rút gọn hơn nhưng vẫn giữ được nội dung vật chất ban đầu của
hành động. Hay nói cách khác, sau khi chủ thể tiến hành hành động qua đầy
đủ các giai đoạn nói trên thì “tri thức (hay sự hiểu biết về các đồ vật) sẽ được
nảy sinh trong quá trình hành động vật chất với các đồ vật đó, còn bản thân
các hành động này khi được hình thành thì chúng sẽ trở thành các kỹ
năng…”.
Từ những vấn đề nói trên có thể tóm tắt lại mấy điểm cần lưu ý khi
hình thành và phát triển kỹ năng hành động cho học sinh trong quá trình
dạy học như sau:
Thứ nhất: Không được tách rời kỹ năng ra khỏi hành động, ngược lại
phải coi nó là những đặc điểm, những trình độ khác nhau của hành động. Chỉ
14


có dựa trên cơ sở đó mới bộc lộ ra được cơ chế hình thành kỹ năng, cũng
chính là cơ chế hình thành hành động.
Thứ hai: Để đảm bảo sự điều khiển quá trình học tập, lĩnh hội tri thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo với các đặc tính đã đề ra thì cần phải có “hai điều
kiện – thiết lập cơ sở định hướng hành động và sự tuân thủ theo các giai đoạn
hình thành hành động”.
Thứ ba: Hành động không thể bắt đầu từ sự tri giác hay ghi nhớ đối
tượng mà phải bắt đầu tự sự triển khai các thao tác thực tiễn lên đối tượng, cụ
thể là hành động với vật thật hay vật chất hóa. Chính trong quá trình thao tác

đó, một mặt bản chất của đối tượng được bộc lộ và được nhận thức. Mặt khác,
nó được biến đổi qua nhiều lần “ướm thử” với các thao tác để cuối cùng tạo ra
sản phẩm phù hợp với lôgíc các thao tác của hành động.
Thứ tư: Cơ chế của việc hình thành một hành động tâm lý mới nói
chung là tuân theo các bước chuyển hóa từ ngoài vào bên trong như đã nêu
trong lý thuyết của Galpêrin.
Thứ năm: Tiêu chuẩn để đánh giá kết quả luyện tập hành động với các
vật liệu khác nhau là độ thuần thục, khái quát và tính sáng tạo linh hoạt. Sản
phẩm cuối cùng của quá trình này là biến hành động thành các kỹ xảo (với
các hành động đơn giản) và kỹ năng (với các hành động phức tạp), tức là
thành phương tiện hay khả năng để thực hiện một hành động khác.
Như vậy, dưới góc độ của tâm lý học hoạt động, cơ chế hình thành
kỹ năng đã được bộc lộ tương đối rõ ràng và mạch lạc. Đây là điểm tựa của
các nhà sư phạm trong quá trình dạy học và giáo dục khi tiến hành các tác
động sư phạm để hình thành các kỹ năng hành động trong từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể.
1.2.2. Khái niệm kỹ năng xã hội
 Khái niệm
15


Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), KNXH là một cấu
trúc thành phần của kĩ năng sống.
Kĩ năng sống bao gồm 3 nhóm kĩ năng, là:
- Nhóm 1: Các kỹ năng nhận thức. Thuộc nhóm này có các kỹ năng
“Tự nhận thức bản thân”; “Tự đặt mục tiêu và xác định giá trị”; “Tư duy”;
“Sáng tạo”; “Ra quyết định và giải quyết vấn đề”.
- Nhóm 2: Các kỹ năng liên quan đến cảm xúc. Thuộc nhóm này có các
kỹ năng: “Nhận biết và chịu trách nhiệm về cảm xúc của bản thân”; “Kiềm
chế và kiểm soát cảm xúc”; “Tự kiểm soát/tự điều chỉnh cảm xúc bản thân”.

- Nhóm 3: Các kỹ năng xã hội. Thuộc nhóm kỹ năng xã hội có các kỹ
năng: “Giao tiếp truyền thông”; “Chia sẻ”; “Hợp tác”; “Gây thiện cảm”;
“Thích ứng với cảm xúc của người khác”, “Đồng cảm”...
Nhiều tác giả khác của Mỹ và Phương Tây đã đưa ra danh mục các
nhóm kỹ năng xã hội, bao gồm:
a/ Nhóm các kỹ năng tương tác cơ bản/cơ sở (cười, nghe, tiếp xúc
bằng mắt…);
b/ Nhóm các kỹ năng tiếp cận/tham gia (làm thế nào để tiếp cận với
một cá nhân về mặt xã hội hoặc tham gia trong một nhóm);
c/ Nhóm các kỹ năng duy trì (chia sẻ, xoay vòng, theo đuổi các quy
tắc, hợp tác…);
d/ Nhóm các kỹ năng duy trì quan hệ bạn bè/đồng nghiệp (làm thế nào
để thể hiện tình cảm cho phù hợp, thu hút người khác vào việc ra quyết định,
thể hiện là người sâu sắc…);
e/ Nhóm kỹ năng giải quyết mâu thuẫn (làm thế nào để điều khiển
những mối bất đồng theo cách có thể chấp nhận được về mặt xã hội);
f/ Nhóm kỹ năng đồng cảm;
g/ Nhóm kỹ năng thông báo/truyền đạt các nhu cầu và quan điểm;
16


h/ Nhóm kỹ năng hài hước;
i/ Nhóm kỹ năng tự khẳng định (làm thế nào để nói “Không” với các hành
vi nguy hiểm, hoặc với những hành vi chống lại xã hội; đứng một mình…).
Các tác giả của chương trình “Dừng lại và Suy nghĩ” đưa ra một số kỹ
năng được gọi là các kỹ năng xã hội cốt lõi, tức là những kỹ năng thành phần
quan trọng nhất, bao gồm 6 kỹ năng sau đây:
a/ Biết ngồi im trong các tình huống xã hội
b/ Lắng nghe:
c/ Đồng cảm và quan tâm đến hoàn cảnh của những người khác;

d/ Biết làm thế nào để thiết lập quan hệ:
e/ Biết khi nào nói về bản thân, nói như thế nào và nói bao nhiêu/biết
“Tự bộc lộ bản thân”;
f/ Nhìn vào mắt người khác và cười.
Theo Gresham và Elliot (1990), khái niệm KNXH (Social Skills): Là
những mẫu ứng xử tập nhiễm hay học được, được chấp nhận về mặt xã hội,
giúp một cá nhân có thể quyết định hành động và ứng xử một cách có hiệu
quả với người khác, giúp người đó nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh,
tránh được những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Khởi xướng, thiết lập những mối quan hệ hợp tác, đồng cảm, chia sẻ,
chủ động đề nghị người khác giúp đỡ, biết kiềm chế.v.v… là những kỹ năng
xã hội tiêu biểu một cá nhân thể hiện trong các hoạt động cùng hoặc với
người khác. Những hành vi đề nghị người khác giúp đỡ, thể hiện sự vui
mừng, biết nói lời cảm ơn khi được người khác giúp đỡ, động viên, thông cảm
khi người khác gặp chuyện buồn, khen ngợi người khác khi họ làm được việc
tốt.v.v… là những bằng chứng cụ thể ở người có KHXH tốt. Sớm phát triển
các KNXH này để giúp trẻ thành công trong việc thiết lập, duy trì mối quan
hệ tốt với người khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục,
17


giúp trẻ đạt được sự thành công học đường.
Các quy tắc và các quan hệ xã hội được tạo lập, truyền đạt và thay đổi
thông qua con đường ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Quá trình học tập các kỹ
năng như vậy được gọi là quá trình xã hội hóa cá nhân. Đây là một cách tiếp
cận trị liệu, nhằm làm thay đổi hành vi xã hội. Lí do của cách tiếp cận này là
để con người đối mặt với một loạt các vấn đề xã hội, và có thể làm giảm sự
căng thẳng cũng như hình phạt từ việc tính đến càng nhiều càng tốt sự tăng
cường/nỗ lực bằng cách có các kỹ năng đúng đắn.
Những số liệu nghiên cứu cho thấy không phải mọi trẻ em lớn lên đều

phát triển đầy đủ các KNXH này và nhiều trẻ em do thiếu hụt những kỹ năng
xã hội này đã dẫn đến gặp khó khăn hoặc thất bại học đường. Vì vậy, phát
hiện sớm những thiếu hụt và huấn luyện, phát triển những kỹ năng này là rất
quan trọng ở trẻ em, đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên, đó cũng là một nhân tố
thúc đẩy quá trình xã hội hóa, phát triển “cái tôi- xã hội” ở các em.
Qua quá trình phân tích trên thì theo chúng tôi KNXH (Social Skills):
Là những mẫu ứng xử tập nhiễm hay học được, được chấp nhận về mặt xã
hội, giúp một học sinh có thể quyết định hành động và ứng xử một cách có
hiệu quả với người khác, giúp học sinh đó nhanh chóng thích nghi với
hoàn cảnh, tránh được những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội.
Kỹ năng xã hội có thể được đo lường, đánh giá thông qua cách cá nhân
ứng xử và phản ứng với những người xung quanh. Nếu cá nhân nghi ngờ về
hành vi của mình thì các trắc nghiệm có thể sẽ định hướng giúp họ trong việc
xử lý các mối quan hệ với những người xung quanh (Ledesma, 2009).
 Vai trò của kỹ năng xã hội
Do đặc điểm của xã hội hiện đại có sự thay đổi toàn diện về kinh tế,
văn hóa, xã hội. Điều đó đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với con người,
đồng thời làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa từng gặp
18


×