B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------------
QUCH TH NHN
TíCH HợP GIáO DụC ý THứC BảO TồN DI SảN VĂN HóA
CủA CáC DÂN TộC THIểU Số TRONG DạY HọC MÔN GIáO DụC CÔNG DÂN
ở TRƯờNG TRUNG HọC PHổ THÔNG Cù CHíNH LAN,
HUYệN LƯƠNG SƠN, TỉNH HòA BìNH
LUN VN THC S KHOA HC GIO DC
H Ni - 2016
B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------------
QUCH TH NHN
TíCH HợP GIáO DụC ý THứC BảO TồN DI SảN VĂN HóA
CủA CáC DÂN TộC THIểU Số TRONG DạY HọC MÔN GIáO DụC CÔNG DÂN
ở TRƯờNG TRUNG HọC PHổ THÔNG Cù CHíNH LAN,
HUYệN LƯƠNG SƠN, TỉNH HòA BìNH
Chuyờn ngnh: LL&PPGD GIO DC CHNH TR
Mó s: 60.14.01.11
LUN VN THC S KHOA HC GIO DC
Ngi hng dn khoa hc: TS Nguyn Vn Long
H Ni - 2016
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới
TS. Nguyễn Văn Long, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả
trong suốt quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo khoa Lý luận Chính trị
và Giáo dục Công dân, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình truyền đạt
những tri thức quý báu, giúp đỡ tác giả hoàn thành tốt khóa học và luận văn
tốt nghiệp.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ của các cơ quan: Thư
viện Quốc gia, Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội,
Trung tâm Thông tin – Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, …đã giúp
đỡ tác giả trong quá trình tìm hiểu tài liệu, các thông tin có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô, các em học
sinh trường THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, quý bạn
bè đã tạo điều kiện và giúp đỡ tác giả hoàn thành khóa học và luận văn của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2016
Tác giả
Quách Thị Nhàn
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
DIỄN GIẢI
DSVH
Di sản văn hóa
ĐC
Đối chứng
GDCD
Giáo dục Công dân
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
PPDH
Phương pháp dạy học
THPT
Trung học phổ thông
TN
Thực nghiệm
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trải qua quá trình phát triển của
lịch sử, các dân tộc đã tạo cho mình một hệ di sản văn hóa (DSVH) riêng, góp
phần tạo nên nền văn hóa Việt nam thống nhất và đa dạng. DSVH của các tộc
người có tính bền vững nhất định của nó. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay
sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, thông tin và truyền thông…rất mạnh mẽ
nên các yếu tố văn hóa của các tộc người dù có tính bền vững, chứa đựng
những bản sắc riêng vẫn có thể bị mai một, lãng quên, hoặc pha tạp,nhất là
với các dân tộc ít người. Đánh mất các DSVH dân tộc của một dân tộc cũng
đồng nghĩa với việc đánh mất chính dân tộc đó. Việc giáo dục ý thức bảo tồn
và phát huy DSVH các dân tộc thiểu số là chiến lược phát triển bền vững
quốc gia.
Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” đòi hỏi chúng ta
phải xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc. bên cạnh việc phát triển kinh tế
là trọng tâm thì vấn đề xây dựng nền văn hóa được Đảng ta hết sức quan tâm.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: “Vấn đề xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” [8] đã được Đảng ta
xác định là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Thực tiễn phát triển văn hóa nước ta trong thời kỳ đổi mới đang đòi hỏi
cấp thiết phải có sự nghiên cứu, tổng kết và những biến đổi của các giá trị văn
hóa ở nước ta trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống và cách mạng. Vì vậy việc “Xây dựng và thực hiện các chính
1
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu
số” [13; 225] là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29 – NQ/TW) với nội dung đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: “Tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học
tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Xây dựng nền
giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và
phương pháp giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội
hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
XHCN và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [39].
Bộ môn Giáo dục Công dân (GDCD) ở trường trung học phổ thông
(THPT) có vai trò quan trọng cung cấp tri thức và trang bị thế giới quan,
phương pháp luận, giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị cho HS. Do đó, mục
đích của việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn GDCD ở trường
phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo
PPDH tích cực với các kỹ thuật dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính
tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học,
tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác
nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, hứng thú trong học tập.
Trường THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình là một
2
trong những trường đào tạo có trên 90% HS là người dân tộc thiểu số. Vì vậy,
ngoài nhiệm vụ dạy chữ và kiến thức cho HS cần phải giáo dục ý thức bảo tồn
và phát triển DSVH của các dân tộc thiểu số. Xuất phát từ những lý do trên
tác giả chọn đề tài: “ Tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của
các dân tộc thiểu số trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Cù Chính
Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong quá trình tham gia Thập kỷ quốc tế về văn hóa trong phát triển
(1987 – 1996) và chủ trương bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa do Tổ chức
Giáo dục, khoa học và văn hóa thế giới (UNESCO) phát động, Đảng ta đã xác
định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển kinh tế- xã hội”. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan niệm mới về văn hóa trên thế giới mà điểm
cốt lõi là đề cao nhân tố văn hóa trong phát triển, phát huy những giá trị văn
hóa, coi trọng việc bảo vệ DSVH dân tộc, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về văn hóa. Trong đó có những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Nghiên cứu về vấn đề văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta
không phải là vấn đề mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên
cứu với tầm cỡ, quy mô khác nhau. Các công trình, bài viết về mối quan hệ
giữa văn hóa và phát triển như: Trần Ngọc Hiên, “Văn hóa và phát triển – từ
góc độ nhìn Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; Phạm Xuân
Nam, “Văn hóa vì sự phát triển”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Các công trình, bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị
trường như: “Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên), “Xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Nxb Khoa học
xã hội, 2004.
3
- Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học: Vũ Đức Khiển, “Văn
hóa với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa
dân tộc”, Tạp chí Triết học, số 6/2000; Vũ Thị Kim Dung với “Cách tiếp cận
vấn đề văn hóa theo quan điểm của triết học Mác” Tạp trí Triết học số 1,
1988; Lê Thị Ngọc Anh đã nghiên cứu về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” Tạp trí Triết học số 6, 2000.
- Các công trình nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam
như: Ngô Văn Lệ, “Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Nxb Giáo dục
Hà Nội, 1998; Nguyễn Khoa Điềm ,“Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số trong cuộc sống hiện nay”, Tạp chí Văn học nghệ thuật số 7/2007; Trần
Văn Bính đi sâu nghiên cứu về đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số từ đó
đưa ra các giải pháp phát huy văn hóa của các dân tộc Mường, Thái, Mông
trong “Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006; Ngô Đức Thịnh đưa
ra những khái niệm thuyết phục về bảo tồn, phát huy trong nghiên cứu về
“Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
trong đổi mới và hội nhập”, Nxb Khoa học xã hội, 2010.
Trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ vị trí, vai
trò và nhiệm vụ của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng XHCN hiện nay.
Giáo dục việc giữ gìn DSVH dân tộc cho các em HS dân tộc thiểu số là việc
vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả
kế thừa những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa các
dân tộc thiểu số để phục vụ cho đề tài: “Tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn di
sản văn hóa của các dân tộc thiểu số trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình”.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực nghiệm giảng dạy, luận văn đề
4
xuất nội dung, phương pháp giảng dạy môn GDCD phù hợp nhằm nâng cao
hiệu quả nhận thức cho HS trong việc bảo tồn và phát huy DSVH của các dân
tộc thiểu số cho HS trường THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc dạy và học môn GDCD ở trường THPT Cù Chính Lan, huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giảng dạy môn GDCD (Bài 13 GDCD 10: Công dân với cộng đồng;
Bài 13 GDCD 11: Chính sách giáo dục, khoa học và công nghệ, văn hóa; Bài
9 GDCD 12: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước) ở trường
THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
Làm rõ quan điểm về việc giáo dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân
tộc thiểu số trong dạy học GDCD ở trường THPT Cù Chính Lan, huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Đề tài khẳng định sự cần thiết phải tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn
DSVH của các dân tộc thiểu số trong dạy học môn GDCD cho HS trường
THPT Cù chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Khảo sát việc giảng dạy môn GDCD (Bài 13 GDCD 10: Công dân với
cộng đồng; Bài 13 GDCD 11: Chính sách giáo dục, khoa học và công nghệ,
văn hóa; Bài 9 GDCD 12: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước)
ở trường THPT Cù Chính Lan về việc tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn
DSVH của các dân tộc thiểu số.
Đưa ra quy trình, điều kiện, những biện pháp để thực hiện việc tích hợp
giáo dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số trong dạy học môn
GDCD ở trường THPT Cù Chính Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
5
5.2. Đóng góp mới của tác giả
Đề tài: “ Tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân
tộc thiểu số trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Cù Chính Lan, huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình” là một đề tài mới. Thông qua giảng dạy môn
GDCD, GV giáo dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số. Từ đó,
nâng cao giáo dục việc giữ gìn và phát huy DSVH dân tộc cho HS các dân tộc
thiểu số. Thông qua hoạt động này các em sẽ thấy tự hào về dân tộc mình, có
trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn DSVH của dân tộc mình.
Đề xuất một số biện pháp dạy học riêng nhằm nâng cao tích hợp giáo
dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số ở trường THPT Cù Chính
Lan, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phương
pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh và
hệ thống…
Đề tài còn sử dụng các phương pháp: Điều tra xã hội học, thực nghiệm
sư phạm, thống kê toán học…nhằm đạt tới mục đích mà luận văn nêu ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÍCH HỢP GIÁO DỤC
Ý THỨC BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT CÙ CHÍNH LAN,
HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
1.1 Cơ sở lý luận của việc tích hợp giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa
của các dân tộc thiểu số trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
1.1.1. Các quan điểm về tích hợp và dạy học tích hợp
1.1.1.1. Các quan điểm về tích hợp
Tích hợp (tiếng Anh: Integration) có nguồn gốc từ tiếng Latinh, với
nghĩa xác lập lại cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ
phận riêng lẻ.
Integration (n)/ integrate (v) trong tiếng Anh có nghĩa là hợp lại thành
một hệ thống thống nhất, sự bổ sung thành thể thống nhất, sự hợp nhất, sự hòa
hợp với môi trường, (tiếng Anh – Mỹ còn có nghĩa sự hòa hợp chủng tộc, sự
mở rộng cho mọi chủng tộc).
Trong tiếng Việt, tích hợp được ghép từ hai từ tích và hợp. Tích: (danh
từ) là kết quả của phép nhân; (động từ): dồn góp từng ít cho thành số lượng
đáng kể (Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học; tr 981) Hợp:(danh từ): tập
hợp mọi phần tử của các tập hợp khác; (động từ): gộp chung; (tính từ): không
mâu thuẫn, đúng với đòi hỏi. Tích hợp: lắp ráp, kết nối các thành phần của
một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ.
Như vậy, tích hợp có thể hiểu là sự kết hợp, sự hợp nhất, sự hòa nhập
các bộ phận, các phần tử khác nhau thành một thể thống nhất.
1.1.1.2. Các quan điểm về dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp được Unesco định nghĩa là: Một cách trình bày có
khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của
7
tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm giữa các lĩnh vực khoa
học khác nhau. Định nghĩa này nhấn mạnh cách tiếp cận các khái niệm và
nguyên lý khoa học chứ không phải là hợp nhất nội dung.
Theo Hội nghị tại Maryland 4 – 1973, khái niệm dạy học tích hợp còn
bao gồm cả việc dạy học tích hợp với công nghệ học. Bởi có thể thấy khoa
học và công nghệ là hai lĩnh vực hoạt động có đặc trưng và liên quan đến
nhau. Nếu như khoa học đặc trưng bởi quá trình tìm tòi, phát hiện tri thức
mới, đi từ đơn nhất đến cái chung thì công nghệ lại đặc trưng bởi quá trình
nhận định, lựa chọn giải pháp, đi từ nguyên tắc chung để giải quyết từng vấn
đề cụ thể. Như vậy một trong những bài học của dạy học tích hợp là chỉ ra
được sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hiểu biết và hành động.
Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, quan điểm tiếp cận tích hợp đã
ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam và bước đầu thể hiện một phần trong
chương trình và SGK các môn học ở tiểu học và được hiểu là “phương hướng
nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học,
phân môn khác nhau theo những hình thức, mô hình, cấp độ khác nhau nhằm
đáp ứng mục tiêu, mục đích và yêu cầu khác nhau” (Nguyễn Cảnh Toàn).
Và chúng ta có thể hiểu, dạy học tích hợp là sự kết hợp một cách hữu
cơ, có hệ thống các kiến thức trong một môn học hoặc giữa các môn học
thành một nội dung thống nhất.
Dạy học tích hợp có các mức độ sau:
- Lồng ghép/ liên hệ: Ở mức độ này, các môn học vẫn dạy riêng rẽ,
nhưng những nội dung gắn với thực tiễn, gắn với môn học khác được đưa vào
nội dung bài học của một môn học.
- Vận dụng kiến thức liên môn: Ở mức độ này, hoạt động học diễn ra
xung quanh các chủ đề, ở đó người học cần vận dụng các kiến thức của nhiều
môn học để giải quyết vấn đề đặt ra. Các chủ đề khi đó được gọi là các chủ đề
8
hội tụ. Nội dung các môn học vẫn được phát triển riêng rẽ để đảm bảo tính hệ
thống, mặt khác vẫn thực hiện được sự liên kết giữa các môn học khác nhau
qua việc vận dụng các kiến thức liên môn trong các chủ đề hội tụ.
- Hòa trộn: Đây là mức cao nhất trong DHTH. Ở mức độ này, nội
dung chủ đề không thuộc riêng về một môn học mà thuộc về nhiều môn khác
nhau, do đó các nội dung thuộc chủ đề sẽ không cần dạy ở các môn học riêng
rẽ. Mức độ tích hợp này dẫn đến sự hợp nhất kiến thức của hai hay nhiều môn học.
1.1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.1.2.1. Văn hóa
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, trên
thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ
bản đều thống nhất coi, văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình
thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt
động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời
sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện
diện của con người.
Bàn đến văn hóa và sự phát triển của văn hóa, chủ nghĩa Mác thừa nhận,
với tư cách là một hệ giá trị, văn hóa bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử,
bởi năng lực thực hiện “lực lượng bản chất người”. Mác vạch rõ nguồn gốc văn
hóa gắn liền với năng lực sáng tạo của con người, sự sáng tạo đó bắt nguồn từ
lao động. Văn hóa là sự “thăng hoa” của sản xuất vật chất, ông cho rằng người
ta có thể căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác chuyển biến
thành bản chất con người như thế nào để đánh giá trình độ văn hóa.
V.I.Lênin trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các
nguyên lý của triết học Mác. V.I.Lênin đã phân tích sâu sắc thêm về mặt xã
hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế xã hội và cho rằng, văn
hóa theo nghĩa rộng, là những giá trị chung nhất, tồn tại và phát triển qua
9
nhiều chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý nghĩa vĩnh hằng. Vì vậy phải biết kế
thừa có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống.
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã
hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là
yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát
triển của xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định
tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Hồ Chí Minh - Danh nhân văn hóa thế giới - có đưa ra một định nghĩa
ở cấp độ khái quát về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [32; 431].
Nghiên cứu về văn hóa, các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật
chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công
nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một
cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [24; 11]. Định nghĩa này nhấn
mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị,
các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi.
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch
sử của con người và loài người. Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho
con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến
con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi
là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần,
10
là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực
sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực
cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ
có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ
là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần
không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường
được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị
tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất
khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối
sống, phong tục tập quán…
Từ một số khía cạnh đã trình bày trên đây, tác giả đưa ra quan niệm về
văn hóa như sau: Văn hóa là năng lực sáng tạo, là thái độ, phương thức sống,
phương thức hoạt động mang tính nhân đạo của con người nhằm tạo ra các
giá trị vật chất, tinh thần, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
1.1.2.2. Di sản văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
* Di sản văn hóa
Di sản văn hoá là khái niệm chung nhất để chỉ những sản phẩm vật chất
và tinh thần của một tộc người, một quốc gia, một dân tộc còn được lưu
truyền qua các thế hệ.
Để bảo tồn các di sản văn hoá truyền thống của dân tộc, tránh bị mai
một bởi ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và xã hội trong quá trình phát
triển. Luật Di sản văn hoá đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, thì Di sản văn hoá
được quy định tại Điều 1- Chương I như sau: “Di sản văn hoá quy định tại
Luật này bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
11
Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật
thể và di sản văn hóa phi vật thể :
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm :
+ Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học.
+ Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên
nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình
kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.
+ Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.
+ Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử,
văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
+ Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt
quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức khác. Bao gồm:
+ Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam.
+ Ngữ văn dân gian, gồm: Sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu
đố, truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các
biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết.
+ Nghệ thuật trình diễn dân gian, gồm: Âm nhạc, múa, hát, sân khấu và
các hình thức trình diễn dân gian khác.
12
+ Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức,
nghi lễ và các phong tục khác.
+ Lễ hội truyền thống.
+ Nghề thủ công truyền thống.
+ Tri thức dân gian.
Như vậy, ta có thể hiểu, DSVH của các dân tộc thiểu số là toàn bộ
những sản phẩm vật chất và tinh thần của các dân tộc thiểu số được lưu truyền
qua các thế hệ.
* Bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động thực tiễn, ta thường bắt
gặp ba từ: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn.
Bảo quản mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ thuật để gìn giữ,
chăm sóc đối tượng được nguyên vẹn, tồn tại lâu dài. Bảo vệ chứa đựng nội
dung thực hành các hoạt động mang tính chất pháp lý hay nói cách khác là
giữ không để cho bị xâm phạm.
Bảo tồn mang nghĩa rộng hơn, là hoạt động giữ gìn một cách an toàn
khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá hoại, nói cách khác là bảo quản kết
cấu một địa điểm ở hiện trạng và hãm sự xuống cấp của kết cấu đó.
Như vậy, bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số là tất cả những nỗ lực
nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa các DSVH của các dân tộc thiểu
số nhằm bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho DSVH và khi cần đến phải
đảm bảo việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả
năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
1.1.2.3. Ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
* Ý thức
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách
13
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Ý thức
không phải là bản sao đơn giản, thụ động, máy móc hiện thực. Ý thức là ý
thức của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.
Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải
tạo thế giới. Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là
một hiện tượng xã hội bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những
quan hệ
xã hội khách quan.
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố quan hệ với nhau.
Nghiên cứu cấu trúc của ý thức bao gồm các yếu tố: Tri thức, tình cảm và ý
chí. Trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi, là kết quả của quá trình con
người nhận thức thế giới, phản ánh thế giới. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác
nhau như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người,… và
nhiều cấp độ như tri thức cảm tính và tri thức lý tính, tri thức kinh nghiệm và
tri thức lý luận, tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học.
Tuy nhiên, tác động của thế giới đến con người không chỉ đem lại tri
thức về thế giới mà còn đem lại tình cảm cho con người về thế giới. Tình cảm
là những thái độ, cảm xúc của con người đối với sự vật, hiện tượng của hiện
thực khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động và trở thành một
động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức biến thành tình cảm
mãnh liệt thì mới đạt đến độ sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì tri thức
mới biến thành hành động thực tế và mới phát huy được sức mạnh của mình.
Ý chí là điểm hội tụ của tri thức và tình cảm hướng vào hoạt động của
con người. Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện
những hành động có mục đích. Ý chí là hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi
tích cực nhất ở con người ( trong ý chí có cả mặt năng động của tri thức, lẫn
mặt năng động của tình cảm, đạo đức). Nhờ có ý chí mà con người biến đổi
14
được tự nhiên và xã hội, tạo ra được những giá trị vật chất và tinh thần, thực
hiện được những chuyển biến và có được những phát hiện trong khoa học.
* Ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
Ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số là tổng hòa tri thức, tình
cảm và ý chí bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số thông qua các hoạt động
của con người, nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa của DSVH nhằm
bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài cho DSVH và khi cần đến phải đảm bảo
việc giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác khả năng phục
vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.
1.1.2.4. Giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
* Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người, nhờ có
giáo dục mà các thế hệ loài người nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa
của mỗi cộng đồng dân tộc và nền văn minh của cả nhân loại được kế thừa, bổ
sung và từ đó xã hội loài người không ngừng được phát triển.
Giáo dục là khái niệm đa nghĩa, khi phân tích giáo dục với tư cách là
một hiện tượng xã hội, ta thấy: Giáo dục là hiện tượng văn minh chỉ có ở xã
hội loài người, về bản chất đó là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử xã hội của các thế hệ con người. Khi xét giáo dục dưới góc độ là một
hoạt động, ta thấy giáo dục có hai nghĩa:
- Nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình tác động của nhà giáo dục lên các
đối tượng giáo dục nhằm hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách toàn
diện ( trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất, kỹ năng lao động,…). Quá trình
giáo dục theo nghĩa rộng được thực hiện trong nhà trường còn được gọi là quá
trình sư phạm tổng thể, bao gồm hai quá trình bộ phận, đó là quá trình dạy
học và quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp.
15
- Nghĩa hẹp: Giáo dục được hiểu là quá trình tác động của nhà giáo dục
lên các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ ý thức, thái độ và hành vi
ứng xử với cộng đồng, xã hôi. Với nghĩa hẹp, giáo dục được đặt ngang hàng
với khái niệm dạy học. Khái niệm giáo dục nghĩa hẹp đề cập tới quá trình
giáo dục các phẩm chất đạo đức, hành vi, lối sống cho HS, ta vẫn quen gọi là
“ hạnh kiểm”.
Như vậy, ta có thể hiểu, giáo dục là quá trình tác động của nhà giáo dục
lên các đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ các giá trị nhân cách.
* Giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số
Giáo dục ý thức chính là quá trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh
của hiện thực khách quan cho con người. Như giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường, giáo dục ý thức sống,…
Do đó, giáo dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số là quá
trình tác động của các nhà giáo dục lên đối tượng giáo dục nhằm nâng cao
nhận thức, xây dựng tình cảm, động cơ, thái độ, trách nhiệm và ý chí quyết
tâm, nỗ lực bảo tồn các giá trị DSVH của các dân tộc thiểu số.
* Nội dung của giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân
tộc thiểu số
Giáo dục ý thức bảo tồn DSVH nói chung và DSVH của các dân tộc
thiểu số là giáo dục toàn bộ các nội dung cấu thành nó trong một chỉnh thể
thống nhất. Đó là giáo dục tri thức bảo tồn DSVH nhằm nâng cao nhận thức,
trang bị hệ thống kiến thức về DSVH của các dân tộc thiểu số; giáo dục, xây
dựng, củng cố tình cảm, thái độ, niềm tin đối với các giá trị DSVH của các
dân tộc thiểu số cho mọi người; giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm, ý thức
trách nhiệm công dân trong tham gia các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH của các dân tộc thiểu số.
16
Như vậy, nội dung giáo dục ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu
số là toàn bộ các nội dung cấu thành ý thức bảo tồn DSVH của các dân tộc
thiểu số. Các nội dung cơ bản đó cần triển khai thành các nội dung cụ thể, bảo
đảm tính toàn diện, tính chỉnh thể, tính thống nhất về nội dung giáo dục ý
thức bảo tồn DSVH của các dân tộc thiểu số cho HS THPT hiện nay.
1.1.3. Vai trò của việc giáo dục ý thức bảo tồn di sản văn hóa của các dân
tộc thiểu số cho HS trường THPT
DSVH dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong quá
trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là nguồn
cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục.
Bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài liệu về lý
luận dạy học, giáo dục chung, đại cương và tài liệu về lý luận dạy học bộ môn
hầu như chưa đề cập đến điều kiện, phương tiện dạy học là các DSVH. Gần
đây trong phong trào thi đua xây dựng nhà trường thân thiện, HS tích cực,
một trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho HS tham gia chăm sóc
các di sản, chủ yếu là các di tích mang tính lịch sử của địa phương. Việc khai
thác các DSVH ở địa bàn nhà trường đóng như là nguồn tri thức, là phương
tiện dạy học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có thường mang tính
tự phát. Vì vậy, vai trò và thế mạnh của những DSVH phong phú, ở địa
phương chưa được khai thác đúng mức để sử dụng trọng dạy học và các hoạt
động giáo dục của nhà trường.
Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, DSVH nói chung và DSVH của các
dân tộc thiểu số sẽ giúp cho quá trình học tập của HS ở những địa phương có
nhiều dân tộc thiểu số sinh sống trở nên hấp dẫn hơn, HS hứng thú học tập và hiểu
bài sâu sắc hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho
HS. Ý nghĩa, vai trò của các DSVH của các dân tộc thiểu số đối với HS có thể
được thể hiện dưới nhiều góc độ.
17
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá
trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy
học ở trường phổ thông có nhiều HS là dân tộc thiểu số có ý nghĩa toàn diện:
- Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho HS: Các
DSVH của các dân tộc thiểu số được sử dụng trong dạy học, giáo dục đều góp
phần nâng cao tính trực quan giúp HS mở rộng khả năng tiếp cận với đối
tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản của các dân tộc
thiểu số. Tiếp cận với di sản, HS sử dụng hệ thống tín hiệu thứ nhất (sử dụng
các giác quan như mắt - nhìn, tai nghe, mũi – ngửi, tay - sờ,…) để nghe được,
thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu được những kiến thức cần thiết
từ di sản. Những hình ảnh, vật dụng trong bảo tàng sẽ không chỉ giúp các em
có thêm hiểu biết mà còn tác động sâu sắc đến tình cảm của các em. Ngoài ra,
các giá trị có trong di sản còn được GV khai thác bằng cách đặt các câu hỏi
mang tính định hướng hoặc gợi ý cho HS tìm hiểu chúng qua đó di sản được
sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận thức của HS. Những
gợi ý đó giúp cho hoạt động tham quan trở nên có ý nghĩa hơn và làm cho bài
học trở nên sống động hơn.
- Giúp HS phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức: DSVH là
phương tiện quan trọng giúp HS rèn một số kỹ năng học tập như: kỹ năng
quan sát, thu thập, xử lý thông tin qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết thu
được trong quá trình tiếp cận với di sản; kỹ năng vận dụng kiến thức đã học
để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các DSVH, của khu bảo tồn.
HS có thể thu thập thông tin từ những nhân viên chăm sóc khu bảo tồn hoặc
từ các nguồn khác nhau để nhận biết hiện trạng, nguyên nhân và liên hệ với
kiến thức đã học để giải thích sự xuất hiện và tồn tại của khu bảo tồn, liên hệ
với thực tiễn khai thác rừng ở nước ta để tìm hiểu vai trò của khu bảo tồn với
công tác bảo vệ đa dạng sinh học.
18
- Kích thích hứng thú nhận thức của HS: Hứng thú nhận thức là một trong
những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình học tập.
Trong giai đoạn nhận thức cảm tính, sự tri giác các đối tượng, hiện tượng là điều
kiện để phát sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng về chúng và sau đó, nhờ nhận
thức lý tính hình thành nên khái niệm hoàn chỉnh về đối tượng, hiện tượng
nghiên cứu. Trong quá trình tiếp cận với DSVH của các dân tộc thiểu số theo sự
hướng dẫn của GV, các hiện tượng sự vật, các giá trị ẩn chứa trong di sản sẽ
được các em tìm hiểu. Những điều tưởng như quen thuộc sẽ trở nên hấp dẫn
hơn, sống động hơn và HS sẽ có hứng thú với chúng, từ đó các em có được động
cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng
như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ DSVH tốt hơn.
- Phát triển trí tuệ của HS: Trong quá trình học tập, trí tuệ của HS được
phát triển nhờ sự tích cực hóa các mặt khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ
việc tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khác nhau của hoạt
động tâm lý: tri giác, biểu tượng, trí nhớ,….Cho HS tiếp cận di sản đúng mục
đích, đúng lúc với những PPDH phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính
định hướng, kích thích tư duy, GV sẽ giúp HS phát triển khả năng quan sát,
khả năng xử lý thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó
phát triển trí tuệ của các em.
- Giáo dục nhân cách HS: DSVH là một trong những phương tiện dạy
học đa dạng sống động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả
năng tác động mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân cách của
HS. Do đó, khai thác được những giá trị ẩn chứa trong các DSVH của các dân
tộc thiểu số, chuyển giao cho HS để các em cũng nhận thức được những giá
trị đó, GV giúp hình thành ở HS một hệ thống các quan điểm, các khái niệm
về nhận thức thế giới xung quanh, giúp các em nhận thức được bản chất và có
cơ sở giải thích một cách khoa học các sự vật, hiện tượng liên quan đến di
19