Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

VẬN DỤNG lý THUYẾT KIẾN tạo TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG lê XOAY, TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.25 KB, 99 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
--------

PHAN TH TRANG

VậN DụNG Lý THUYếT KIếN TạO
TRONG DạY HọC MÔN GIáO DụC CÔNG DÂN
ở TRƯờNG TRUNG HọC PHổ THÔNG LÊ XOAY, TỉNH VĩNH PHúC
Chuyờn ngnh

: LL&PP ging dy Giỏo dc chớnh tr

Mó s

: 60.14.01.11

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc: TS. V L HOA

H NI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tôi xin gửi tới TS. Vũ Lệ Hoa là
người hướng dẫn trực tiếp của tôi. Trong suốt thời gian làm luận văn, tôi đã
nhận được sự quan tâm sâu sắc và giúp đỡ tận tình của Cô. Tôi cũng học được
ở Cô tác phong làm việc nghiêm túc và khoa học, những điều này sẽ giúp ích
cho tôi rất nhiều trong công việc sau này. Tôi xin kính chúc Cô và gia đình
luôn mạnh khỏe, hạnh phúc.


Tôi xin chân thành cảm ơn thầy chủ nhiệm khoa TS. Đào Đức Doãn và
cô chủ nhiệm lớp cao học PGS.TS. Đào Thị Ngọc Minh, hai thầy cô đã luôn
giúp đỡ, chỉ bảo, góp ý cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập và làm đề tài.
Tôi xin chúc thầy, cô luôn mạnh khỏe và hạnh phúc.
Tôi xin gửi lời cảm ơn và chúc sức khỏe tới các thầy, cô giáo tổ phương
pháp giảng dạy, khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục công dân, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội. Trong thời gian học tập ở trường, chúng tôi trưởng thành lên rất
nhiều trong lĩnh vực chuyên môn cũng như tác phong làm việc và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn lãnh đạo và tập thể giáo viên trường THPT
Lê Xoay – Vĩnh Phúc và tập thể lớp LL & PPGD GDCT cao học K23, bạn bè
và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập cũng
như trong thời gian làm luận văn.
Trong quá trình làm luận văn, mặc dù đã bỏ nhiều thời gian, công sức
và được sự hướng dẫn nhiệt tình, chi tiết của thầy hướng dẫn nhưng do trình
độ còn hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong muốn
nhận được những góp ý xây dựng từ phía các thầy cô và mọi người quan tâm
đến đề tài này, để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015
Tác giả

Phan Thị Trang


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
ĐC

GDCD
GV
HS
LTKT
PP
PTDH
THPT
TN

Viết đầy đủ
: Đối chứng
: Giáo dục công dân
: Giáo viên
: Học sinh
: Lý thuyết kiến tạo
: Phương pháp
: Phương tiện dạy học
: Trung học phổ thông
: Thực nghiệm


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................2
BIỂU ĐỒ
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, kéo theo tất cả các quốc gia vào
thị trường chung của thế giới. Nó đã mở ra cơ hội phát triển rất lớn cho các
nước nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không hề nhỏ đối với
từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Quá trình hội nhập, đòi hỏi Việt Nam
phải không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động từ
kinh tế - chính trị cho tới hoạt động văn hoá – giáo dục – xã hội.
Trước tình hình chung đó, Đảng ta đã nhận thức rõ mấu chốt và căn nguyên
cơ bản nhất tạo ra sự thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới đó là phải xuất
phát từ vấn đề giáo dục – đào tạo con người. Vì vậy sự nghiệp giáo dục phải
không ngừng đổi mới toàn diện cho phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá.
“ Toàn cầu hoá trong giáo dục đang tạo ra những con người lao động
sáng tạo, giàu trí tưởng tượng có năng lực phát minh, sáng chế có thể làm việc
ở bất kì đâu, bất kì lúc nào và bất kì với ai” [33; tr.53]
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta cũng xác định rõ:
“ Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới cơ bản toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội
nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tổ chức giáo dục, thực hiện khẳng định chất
lượng giáo dục – đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.”
Theo chủ trương trên, ngành giáo dục đã có những đổi mới mạnh mẽ từ
mục tiêu, nội dung và phương pháp. Trong đó đặc biệt là đổi mới về phương
pháp để khắc phục những nhược điểm của phương pháp truyền thống. Bởi
khác với trước đây, hiện nay việc dạy học không chỉ đơn giản là truyền thụ
kiến thức mà quan trọng hơn giúp các em cách tìm ra tri thức đó.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình người học khám phá thế giới
khách quan dưới sự hướng dẫn, tổ chức điều khiển của GV nhằm thực hiện tốt
các nhiệm vụ dạy học. Điều đó có nghĩa là trong dạy học, người học là chủ thể


1


của hoạt động học - tự kiến tạo nên kiến thức trên cơ sở tác động của môi trường
học. Vì vậy, tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh có vai trò quyết định
hiệu quả hoạt động học, quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học.
Giáo dục công dân là môn học quan trọng trong trường THPT nhằm
hình thành phát triển ý thức, năng lực, phẩm chất cần thiết của người công
dân trong xã hội cho học sinh đáp ứng các yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Những năm gần đây, vấn đề giáo dục nhân cách cho người học đang
đặt nặng trên vai môn giáo dục công dân (GDCD). Khi yêu cầu đặt ra của xã
hội là rất lớn đối với môn học thì trong thực tế nó lại bị xem nhẹ từ nhiều
phía. Thực tiễn việc học tập môn GDCD trong nhà trường phổ thông chưa
được học sinh (HS) coi trọng đúng mức, chưa hứng thú, tích cực học tập, kết
quả học tập chưa cao... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên như do
lượng kiến thức môn học quá nhiều và khô khan, trừu tượng, thời lượng lại
ít……. đã khiến giờ giảng của giáo viên mới chỉ chú ý đến việc truyền tải tri
thức mà chưa thực sự phát huy được năng lực của người học, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học môn học chưa phong phú, hấp dẫn, kích thích được
tính tích cực học tập của người học.
Vì vậy, làm thế nào để người học chủ động, tích cực học tập môn
GDCD góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học môn học đáp ứng
được yêu cầu của xã hội đối với môn Giáo dục công dân ở trường THPT.
Một trong những lý thuyết học tập có thể giải quyết những tồn tại của
phương pháp dạy học truyền thống, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi
mới dạy học môn GDCD đó là Lý thuyết kiến tạo. Đây là một quan điểm dạy
học hiện đại, nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của người học trong việc
tiếp thu tri thức mới cho bản thân. Sự chủ động này thể hiện ở chỗ, người học
được đặt trong những tình huống học tập mà ở đó họ thấy có khả năng, có nhu

cầu giải quyết vấn đề đặt ra. Trên cơ sở kiến thức và kinh nghiệm đã có,
người học tìm cách tương thích với những tình huống mới để xây dựng nên
những hiểu biết cho bản thân. Với lý thuyết này, dạy học theo thuyết kiến tạo
cho thấy có nhiều khả năng đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học

2


trong dạy học môn GDCD ở trường THPT.
Từ những lí do trên tôi đã quyết định vận dụng lý thuyết kiến tạo vào
dạy môn giáo dục công dân với đề tài luận văn “Vận dụng lý thuyết kiến tạo
trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông Lê
Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc”
2. Lịch sử nghiên cứu
Thuyết kiến tạo ra đời từ cuối thế kỷ XVIII, xuất phát từ tuyên bố của
nhà triết học Giam Battista Vico cho rằng : “Con người chỉ có thể hiểu một
cách rõ ràng những cái gì mà họ tự xây dựng nên cho mình”[22; tr.17]. Tuy
nhiên người đầu tiên nghiên cứu để phát triển tư tưởng kiến tạo một cách rõ
ràng và áp dụng vào việc dạy học đó là J.Piaget.
Một tác giả khác có nhiều đóng góp cho sự phát triển của LTKT là
L.X.Vygostky.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học giáo dục cũng đã bước đầu nghiên cứu
về LTKT. Đầu năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh một hội thảo quốc tế lần
thứ nhất của các nước Đông Nam Á về dạy học kiến tạo và đào tạo GV các
môn học đã được tổ chức với khoảng trên 100 nhà khoa học đến từ Pháp và
các nước trong khu vực Đông Nam Á tham dự. Tại hội thảo này rất nhiều nhà
giáo dục Việt Nam đã hết sức quan tâm và có nhiều ý kiến về dạy học theo
quan điểm kiến tạo. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu của các tác giả
như: Lý thuyết kiến tạo - một hướng phát triển mới của lý luận dạy học hiện

đại của Bùi Gia Thịnh (1995), phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại
của Thái Duy Tuyên (2008), Lý luận dạy học hiện đại, một số vấn đề về đổi
mới phương pháp dạy học của Nguyễn Văn Cường (2012).
Cho đến nay ở Việt Nam, LTKT đã được vận dụng để tiến hành dạy
học một số nội dung trong chương trình vật lý, toán học, hoá học và cũng đã
có một vài thực nghiệm sư phạm chứng minh khả năng của quan điểm mới
này trong việc tích cực hoá vai trò chủ thể người học. Chúng ta có thể tham
khảo những công trình nghiên cứu của các tác giả như: Dương Bạch Dương,
(2002) nghiên cứu phương pháp giảng dạy một số khái niệm, định luật trong
chương trình vật lý lớp 10 THPT theo quan điểm kiến tạo. Tác giả Cao Thị
Hà (2006) dạy học một số chủ đề hình học không gian lớp 11 theo quan điểm

3


kiến tạo. Tác giả Lương Việt Thái (2006) nghiên cứu tổ chức quá trình dạy
học một số nội dung vật lý trong môn khoa học ở tiểu học và môn vật lý ở
Trung học cơ sở vận dụng tư tưởng của LTKT.
Đó là những công trình nghiên cứu ứng dụng LTKT bước đầu rất có giá
trị. Bên cạnh đó chúng ta phải kể đến một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp
chí giáo dục của các tác giả như: Đào Việt Anh, Đỗ Văn Cường, Đỗ Tiến Đạt,
Nguyễn Quang Lạc……..
Tuy nhiên đến nay các công trình nghiên cứu, vận dụng LTKT vào dạy
học ở nước ta còn hạn chế chỉ tập trung vào các môn khoa học tự nhiên. Đối
với các môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt với việc dạy học môn
GDCD trong nhà trường THPT chúng ta gần như chưa có công trình nghiên
cứu chuyên sâu nào. Theo quan điểm của chúng tôi LTKT không chỉ phát huy
khả năng trong dạy học những môn khoa học tự nhiên như toán, lý hoá…mà
còn trong cả dạy học môn GDCD cho HS. Thông qua quan điểm dạy học này
có rất nhiều tiềm năng cần được xem xét, nghiên cứu.

Trên cơ sơ đó tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Vận dụng lý thuyết
kiến tạo trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông
Lê Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc” để góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học, nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học môn giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông Lê Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn giáo dục công dân ở nhà trường hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Quá trình dạy học môn giáo dục công dân ở
trường THPT Lê Xoay với việc vận dụng lý thuyết kiến tạo.
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu vận dụng lý thuyết kiến tạo
trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 10 phần đạo đức từ tháng 1/2015
đến 18/4/2015 đối với hai lớp 10A1 và 10A3 Trường Trung học phổ thông Lê
Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc .
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu về lí luận
dạy học và quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông.

4


- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia
- Phương pháp điều tra: Điều tra kháo sát tình hình dạy học phần đạo
đức lớp 10 trung học phổ thông hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức dạy một số bài phần đạo
đức có sự vận dụng lý thuyết kiến tạo.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán

học để đánh giá định lượng kết quả nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc vận dụng lý
thuyết kiến tạo trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học
phổ thông.
- Xây dựng quy trình tổ chức dạy học môn giáo dục công dân theo lý
thuyết kiến tạo.
-Tổ chức thực nghiệm sư phạm quy trình tổ chức dạy học môn giáo dục
công dân theo lý thuyết kiến tạo.
6. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
Luận văn góp phần bổ sung, hệ thống hóa, làm sáng tỏ tầm quan trọng
và yêu cầu của việc vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy học môn Giáo dục
công dân trong nhà trường phổ thong.
Đề xuất nội dung, phương pháp, quy trình , điều kiện và một số biện
pháp trong việc vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT Lê Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể áp dụng vào dạy học đối với
môn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT Lê Xoay hoặc làm tài liệu
tham khảo hữu ích đối với những độc giả quan tâm đến vấn đề. Từ đó góp
phần vào việc hình thành nhân cách, phát huy tính chủ động, tích cực của
người học đối với thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc vận dụng lý thuyết kiến tạo trong
dạy học môn giáo dục công dân ở trường THPT.

5


Chương 2: Quy trình vận dụng thuyết kiến tạo trong dạy học môn giáo
dục công dân ở trường THPT Lê Xoay, tỉnh Vĩnh Phúc.

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KIẾN TẠO
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Thuyết kiến tạo được giới thiệu vào những năm 80 của thế kỷ XX, xuất
phát từ tuyên bố của nhà triết học Giam Battista Vico cho rằng: “Con người
chỉ có thể hiểu một cách rõ ràng những cái gì mà họ tự xây dựng nên cho
mình” [21, tr.17]. Tuy nhiên người đầu tiên nghiên cứu để phát triển tư tưởng
kiến tạo một cách rõ ràng và áp dụng vào việc dạy học đó là J.Piaget với
những tư tưởng về hoạt động nhận thức của J.Piaget và lý thuyết về vùng phát
triển gần nhất của L.X. Vygotsky.
Jean Piaget (1896 – 1983), người đặt nền móng cho tâm lí học phát
triển cho rằng “những ý tưởng gần đối với trẻ em không phải được tìm thấy
như một viên sỏi hoặc nhận được từ tay người khác như một món quà. Theo
ông, các cấu trúc nhận thức không phải do bẩm sinh mà chúng có một lịch sử
phát sinh và phát triển được hình thành từ hai cơ chế đồng hoá (assimilation)
và điều ứng (accommodation)”
Đồng hoá là quá trình chủ thể (con người) tiếp nhận và xử lí thông tin
mới từ môi trường xung quanh nhằm đạt được môi trường nhận thức nào đó
nhờ vào những kiến thức và kĩ năng đã có. Trong dạy học, đồng hoá là quá
trình người học vận dụng kiến thức và kĩ năng đã có của mình để giải quyết
tình huống học tập mới. Còn điều ứng là quá trình chủ thể thích nghi với một
sự kiện mới từ môi trường tác động vào và biến đổi nhận thức cũ sao cho phù
hợp với bản chất của sự kiện tác động. Do đó, khi tình huống học tập mới

xuất hiện thì kiến thức mới cũng được hình thành và bổ sung vào hệ thống
kiến thức đã có. Vì vậy, thông qua hai hoạt động đồng hoá và điều ứng bằng

7


các kiến thức và kĩ năng đã có để thích ứng với môi trường học tập với người
học, xây dựng nên những kiến thức cho mình. Đây chính là cơ sở nền tảng
của LTKT trong dạy học
L.X Vygotsky (1896 – 1934) là người có nhiều đóng góp cho tâm lí
học vào dạy học. Hai luận điểm quan trọng trong lý thuyết của ông là giả
thuyết vùng phát triển gần nhất và dạy học hợp tác. Theo ông mỗi cá nhân
đều có một vùng phát triển gần nhất thể hiện tiềm năng phát triển của riêng
mình. Vùng phát triển gần nhất là vùng phát triển tương ứng với trình độ của
trẻ có thể đạt tới được với sự giúp đỡ của người lớn hoặc bạn bè. Do đó nếu
các hoạt động học tập được tổ chức trong vùng này thì sẽ đạt được hiệu quả
cao. Thực tế cho thấy vùng này đã được chuẩn bị từ trước đó do quá trình
phát triển nhận thức nhưng các em còn chưa đạt tới. Nhờ vào các hoạt động
học tập vùng phát triển gần nhất sẽ trở thành vùng hoạt động hợp tác. Và
vùng trước đó là vùng phát triển xa hơn một chút thì bây giờ trở thành vùng
phát triển gần nhất. Quá trình cứ lặp lại như vậy và học sinh cứ leo hết bậc
thang này cho tới bậc thang khác trong quá trình học tập và phát triển. Bên
cạnh đó L.X.Vygotsky cũng khẳng định nếu được đặt trong một môi trường
kích thích tốt thì trẻ em có thể đạt tới một giai đoạn nhận thức nhanh hơn,
hiệu quả hơn. Trong quá trình dạy học vai trò của văn hoá, ngôn ngữ và các
điều kiện tương tác xã hội đã ảnh hưởng tác động đến việc kiến tạo nên tri
thức của mỗi cá nhân, đặc biệt là mối quan hệ tương tác giữa GV và HS, giữa
HS với nhau.
Theo Donaid P.Kauchak và Paul Deggen, LTKT là một quan điểm học
tập trong đó con người học qua sự trải nghiệm của mình tự tích luỹ những

kiến thức có ý nghĩa với bản thân họ hơn là tiếp thu kiến thức có sẵn. Bởi thế
theo quan điểm của LTKT đây là quá trình người học dựa vào kinh nghiệm
của mình giải quyết tình huống học tập để hình thành tri thức mới. Dạy học
theo quan điểm kiến tạo GV không phải là người thực hiện một chiều kiến

8


thức cho học sinh mà là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn các hoạt động
học tập để HS xây dựng kiến thức. Ứng dụng LTKT vào dạy học sẽ phát huy
vai trò chủ động của người học trong việc xây dựng kiến thức mới từ những
kiến thức sẵn có và áp dụng kiến thức mới vào những tình huống thực tế hơn
nữa, từ những hiểu biết trực tiếp vừa mới tiếp thu được trong việc giải quyết
tình huống học tập, trong sự tương tác giữa người dạy và người học, giữa
người học với nhau. Vì thế học tập theo LTKT đã chuyển dịch từ dạy học mà
người dạy đóng vai trò là trung tâm sang coi hoạt động người học là hoạt
động trung tâm.
Dạy học theo LTKT là kiểu dạy học đi sâu vào sự chuyển hoá bên
trong của quá trình nhận thức tìm hiểu cơ chế tiếp nhận của học sinh. Người
học tiếp nhân kiến thức một cách có chọn lọc và phụ thuộc nhiều vào năng
lực nhận thức sẵn có cùng mối quan hệ giữa cái đã có và cái cần tiếp nhận của
họ. Quá trình học tập theo quan điểm kiến tạo là quá trình biến đổi nhận thức
của người học chứ không phải là quá trình truyền thụ tri thức theo một khuôn
mẫu nào đó. Tuy vậy, trong quá trình hình thành tri thức sự tương tác xã hội
đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bởi quá trình biến đổi nhận thức của
người học cần phải diễn ra trong một môi trường học tập thích hợp.
1.2. Cơ sở lý luận của dạy học theo lý thuyết kiến tạo
1.2.1. Lý thuyết học tập kiến tạo
Theo từ điển Tiếng Việt, “kiến tạo” có nghĩa là “xây dựng” [35, tr.940].
Kiến tạo là hoạt động của con người tác động lên một đối tượng nhằm tạo nên

đối tượng mới theo nhu cầu bản thân.
Lý thuyết kiến tạo (contructivism) là một quan điểm mới về dạy học dựa
trên những nghiên cứu tâm lí học về quá trình nhận thức của người học. Học
thuyết này xem hoạt động học tập là quá trình biến đổi nhận thức, chủ động
xây dựng kiến thức từ những khái niệm đã có của người học. Theo các công
trình nghiên cứu chuyên sâu của LTKT có một số đặc điểm cơ bản như sau:

9


Tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức không
phải tiếp thu một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Luận điểm này đã
khẳng định vai trò quyết định của chủ thể trong quá trình dạy học trong môi
trường là quá trình chuyển hoá tri thức khoa học từ bên ngoài vào bên trong ý
thức của học sinh. GV cần làm cho HS thấy được sự cần thiết của những tri
thức đó để các em hứng thú tích cực học tập. Bởi tri thức chỉ thực sự có ý
nghĩa sâu sắc với HS nếu các em tích cực tự lực hoạt động xây dựng nên nhận
thức không phải là quá trình người học thụ động thu nhận những kiến thức
chân lí do người khác áp đặt lên. Nếu người học được đặt trong một môi
trường xã hội tích cực thì ở đó người học có thể được khuyến khích vận dụng
những tri thức và kĩ năng đã có để thích nghi với môi trường mới và từ đó xây
dựng nên tri thức mới. Đây chính là quá trình nhận thức của HS theo quan
điểm kiến tạo. Do đó tư tưởng nền tảng của LTKT là đã đặt vai trò của chủ
thể nhận thức lên vị trí hàng đầu của quá trình nhận thức.
Nhận thức là một quá trình thích nghi và tổ chức lại thế giới quan của
chính mỗi người. Nhận thức không phải là khám phá một thế giới mà chủ thể
nhận thức chưa từng biết tới. Về cơ bản quá trình nhận thức của HS cũng
giống như quá trình nhận thức về tự nhiên và xã hội của các nhà khoa học
nhưng độc đáo vì được tiến hành trong những điều kiện sư phạm nhất định
không nhằm tìm ra cái mới mà là nhận thức cái mới cho bản thân rút ra từ kho

tàng hiểu biết chung của loài người. Quá trình nhận thức của HS chỉ nhằm
mục đích chủ động tái tạo lại tri thức của nhân loại cho chính bản thân mình
hơn nữa quá trình này lại được diễn ra trong môi trường đặc biệt có sự hướng
dẫn của người thầy
Học là quá trình mang tính xã hội trẻ em phải tự hoà mình vào các hoạt
động trí tuệ của những người xung quanh. Trong lớp học HS không chỉ tham
gia vào việc tái tạo tri thức của nhân loại mà còn tham gia vào quá trình hợp
tác với bạn học và với cả GV để giải thích trao đổi, đàm phán và đánh giá

10


vấn đề. Luận điểm này đã khẳng định vai trò quan trọng của sự tương tác giữa
các cá nhân trong quá trình dạy học. Bởi học tập không phải là một hoạt động
chỉ diễn ra trong đầu óc con người, hay là một sự phát triển thụ động về các
hành vi của con người mà còn được hình thành bởi những tác động bên ngoài.
Những tri thức mới của mỗi cá nhân được hình thành từ việc điều chỉnh
lại thế giới quan của họ. Thế giới quan đó cần phải đáp ứng được những yêu
cầu mà tự nhiên và thực trạng xã hội đặt ra. Như vậy, LTKT mặc dù đề cao
vai trò của chủ thể nhận thức nhưng vẫn không được xa rời mục tiêu giáo dục
phổ thông phù hợp với lứa tuổi, kiến thức khoa học và những yêu cầu mà thực
tiễn xã hội đặt ra.
Bên cạnh những luận điểm cơ bản trên những nhà nghiên cứu vận dụng
LTKT vào dạy học các môn khoa học tự nhiên nhất là môn toán học đã sơ đồ
hoá chu trình hình thành tri thức của HS như sau:
Tri thức đã có -> dự đoán ->kiểm nghiệm -> thất bại -> thích nghi ->
tri thức mới. Quá trình dạy học trên đã phán ánh sự sáng tạo không ngừng và
vai trò chủ động tích cực của HS trong quá trình học tập. Việc học một tri
thức mới phải xuất phát từ tri thức đã có xây dựng và giải quyết những tình
huống học tập dần dần hình thành tri thức mới.

Từ hai quá trình đồng hoá và điều ứng của quá trình nhận thức, dạy
học theo LTKT có các loại hình kiến tạo cơ bản (radical constructivism) và
kiến tạo xã hội (social constructivism)
• Kiến tạo cơ bản
Kiến tạo cơ bản (còn gọi là kiến tạo nội sinh) là lý thuyết về nhận thức
nhằm miêu tả cách thức cá nhân xây dựng tri thức cho bản thân. Trong quá
trình học tập tri thức là kết quả hoạt động của chính chủ thể. Kiến tạo cơ bản
lấy kinh nghiệm đã có của cá nhân làm nền tảng để hình thành thế giới quan
khoa học, đồng thời quan tâm đến quá trình chuyển hoá nhận thức bên trong
của mỗi người học. Kinh nghiệm kiến thức đã có chính là vật liệu thô để người
học xây dựng nên kiến thức mới. Do vậy, trong quá trình dạy học phải tạo điều
kiện cho cho HS khai thác vốn kinh nghiệm, kiến thức đã có của mình từ đó

11


các em thấy hứng thú hơn, chủ động hơn trong các hoạt động học tập.
Vì vậy người học sẽ trở thành người sở hữu những tri thức mà mình đã
tự xây dựng nên. Thông qua các hoạt động đồng hoá và điều ứng tri thức mới
được hình thành bao gồm cả quá trình kế thừa phát triển các quan niệm đúng
sẵn có. Đồng thời loại bỏ những quan niệm chưa đúng của người học.
Kiến tạo cơ bản có mặt mạnh là đã chỉ ra cách thức người học xây
dựng nên tri thức mới cho mình trong quá trình học tập nhưng nếu đề cao quá
mức vai trò chủ động của mỗi cá nhân thì người học sẽ bị đặt trong tình trạng
cô lập và kiến thức xây dựng nên sẽ thiếu tính xã hội.
• Kiến tạo xã hội
Kiến tạo xã hội (còn gọi là kiến tạo ngoại sinh) chú ý tới mối quan hệ
chặt chẽ cụ thể giữa chủ thể nhận thức với môi trường xã hội bên ngoài trong
quá trình hình thành tri thức mới. Theo L.X.Vygotsky việc học của con người
không chỉ dừng lại ở quá trình kiến tạo cơ bản mà đồng thời được thực hiện

thông qua sự tương tác trong cộng đồng. Bởi vậy kiến thức được kiến tạo nên
đều mang tính xã hội. Kiến tạo xã hội đã nhấn mạnh vai trò của các yếu tố
văn hoá, các điều kiện xã hội và sự tác động của các yếu tố đến sự hình thành
kiến thức. Kết quả của kiến tạo xã hội ở tầm cao nhất là sự hình thành hệ
thống tri thức khoa học mà con người xây dựng nên đã được xã hội thừa
nhận. Tương tác xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc kiến tạo tri
thức. Vì vậy việc tăng cường hợp tác giao tiếp giữa HS với nhau và với GV là
điều kiện để các em tự mình kiến tạo nên kiến thức. Trong phạm vi lớp học,
GV tổ chức cho HS trao đổi tranh luận, hợp tác với nhau cùng giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Đây cũng là những hình thức học tập phù hợp với yêu cầu
của nền giáo dục hiện đại. Do vậy, điểm mạnh của kiến tạo xã hội là nhấn
mạnh đến vai trò của các yếu tố xã hội bên ngoài chủ thể nhưng cũng có
những nhược điểm là chưa đề cao, phát huy vai trò của chủ thể tích cực trong
quá trình nhận thức.
Nếu kiến tạo cơ bản đề cao vai trò của cá nhân trong quá trình xây

12


dựng kiến thức thì kiến tạo xã hội nhấn mạnh đến tác động của các điều kiện
xã hội trong quá trình nhận thức. Do đó trong quá trình dạy học phải kết hợp
hài hoà giữa hai loại hình kiến tạo này vì coi trọng quá mức vai trò của cá
nhân hay các yếu tố xã hội tác động đến chủ thể nhận thức sẽ rất phiến diện.
Bởi người học thông qua các hoạt động học tập sẽ tự tìm ra kiến thức cho
mình. Nhũng kiến thức mới được hình thành phải đảm bảo tính khách quan và
tính khoa học, phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Vì vậy người học không
những học tập cá nhân mà phải hợp tác với bạn học và cả người dạy.
Với môn GDCD khi vận dụng LTKT vào dạy học phần “Công dân với
đạo đức” một mặt GV phải chú ý đến việc nhận thức, đánh giá và ý kiến chủ
quan của các em về các hiện tượng diễn ra xung quanh cuộc sống hàng ngày.

Mặt khác, cũng cần quan tâm đến hoạt động hợp tác của các em trong quá
trình học tập. Vì vậy coi trọng, phát huy tính tích cực chủ động trong việc
kiến tạo kiến thức của mỗi HS đồng thời, phát huy vai trò của sự hợp tác giữa
cá nhân là yêu cầu cơ bản của dạy học phần đạo đức môn GDCD theo LTKT.
1.2.2. Dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo
1.2.2.1. Khái niệm dạy học, dạy học theo thuyết kiến tạo
Theo từ điển Tiếng Việt “dạy học” là “ dạy văn hoá theo những chương
trình nhất định” [35, tr.515]. Ngày nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về
LTKT, theo kết quả của những công trình nghiên cứu này thì dạy học theo
LTKT là dạy học phát huy tính tích cực của HS.Tác giả Nguyễn Hữu Châu có
khẳng định “cả quan điểm kiến tạo cơ bản và kiến tạo xã hội đều nhấn mạnh
vai trò trung tâm của người học trong quá trình dạy học”. [9; tr.20] Trong đó,
người học chủ động lĩnh hội kiến thức thông qua các hoạt động do GV tổ
chức. Các em được khuyến khích các hoạt động tìm kiếm, khám phá, giải
quyết các tình huống có vấn đề để tìm ra tri thức mới cho bản thân, biết liên
hệ kiến thức mới với thực tiễn cuộc sống. Quá trình học tập thông qua làm
việc độc lập, làm việc hợp tác HS sẽ chủ động xây dựng kiến thức cho bản

13


thân, qua đó tìm kiếm phát hiện ra những cách giải quyết khác nhau về cùng
một vấn đề hay tìm ra cách giải quyết độc đáo. Hơn thế có sự chia sẻ, cởi mở
giữa HS với HS, giữa HS với GV trong một môi trường thân thiện sẽ tạo
hứng thú cũng như động lực học tập và hình thành những kĩ năng sống cơ bản
của người lao động hiện đại sau này.
Dựa trên bản chất của dạy học theo LTKT cũng như bản chất, đặc điểm
của dạy học tích cực có thể đưa ra khái niệm về dạy học kiến tạo như sau:
“Dạy học theo thuyết kiến tạo là cách tổ chức dạy học trong đó HS là
chủ thể tích cực xây dựng nên kiến thức mới cho bản thân dựa trên những

kiến thức hoặc kinh nghiệm đã có từ trước và sắp xếp kiến thức vừa nhận
được vào cấu trúc hiện có dưới sự tổ chức, cố vấn của GV khi cần thiết”
Dạy học theo quan điểm kiến tạo là kiểu dạy học đi sâu vào sự chuyển
hoá bên trong của quá trình nhận thức tìm hiểu cơ chế tiếp nhận của HS.
Người học tiếp nhân kiến thức một cách có chọn lọc và phụ thuộc nhiều vào
năng lực nhận thức sẵn có cùng mối quan hệ giữa cái đã có và cái cần tiếp
nhận của họ. Quá trình học tập theo quan điểm kiến tạo là quá trình biến đổi
nhận thức của người học chứ không phải là quá trình truyền thụ tri thức theo
một khuôn mẫu nào đó. Tuy vậy, trong quá trình hình thành tri thức sự tương
tác xã hội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bởi quá trình biến đổi nhận
thức của người học cần phải diễn ra trong một môi trường học tập thích hợp.
Dạy học theo thuyết kiến tạo là cách tổ chức dạy học trong đó HS là
chủ thể tích cực xây dựng nên kiến thức mới cho bản thân dựa trên những
kiến thức hoặc kinh nghiệm đã có từ trước và sắp xếp kiến thức vừa nhận
được vào cấu trúc hiện có dưới sự tổ chức, cố vấn của GV khi cần thiết”
Dạy học theo quan điểm kiến tạo là kiểu dạy học đi sâu vào sự chuyển
hoá bên trong của quá trình nhận thức tìm hiểu cơ chế tiếp nhận của HS.
Người học tiếp nhân kiến thức một cách có chọn lọc và phụ thuộc nhiều vào
năng lực nhận thức sẵn có cùng mối quan hệ giữa cái đã có và cái cần tiếp
nhận của họ. Quá trình học tập theo quan điểm kiến tạo là quá trình biến đổi

14


nhận thức của người học chứ không phải là quá trình truyền thụ tri thức theo
một khuôn mẫu nào đó. Tuy vậy, trong quá trình hình thành tri thức sự tương
tác xã hội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bởi quá trình biến đổi nhận
thức của người học cần phải diễn ra trong một môi trường học tập thích hợp.
1.2.2.2. Đặc điểm của dạy học theo thuyết kiến tạo
Tri thức là sản phẩm của hoạt động phát hiện và sáng tạo của chính

người học. Học là quá trình phát hiện và sáng tạo một cách tích cực của chủ
thể nhận thức, không phải là sự tiếp thu một cách thụ động từ GV. Đặc điểm
này hoàn toàn phù hợp
Nhận thức là quá trình tổ chức lại thế giới quan của chính người học
thông qua hoạt động trí tuệ và thể chất. Với vốn kinh nghiệm và hiểu biết của
mình có được qua thực tế cuộc sống thì HS có thể có được những quan niệm
đúng hoặc sai về một sự vật, hiện tượng nào đó. Dù quan niệm đó là đúng hay
sai nó đều có tác dụng kích thích HS tư duy nếu biết sử dụng chúng một cách
đúng đắn. Do đó, cần quan tâm xử lý đặc biệt với từng loại quan niệm của các
em, tạo điều kiện cho HS sử dụng chúng để xây dựng nên kiến thức mới, góp
phần bổ sung, phát triển những kiến thức vốn có của HS cũng như có tác
động, điều chỉnh những quan niệm sai ban đầu của HS.
Dựa trên đặc điểm này, khi tổ chức dạy học theo LTKT, GV phải tổ
chức được các hoạt động học sao cho các em được hoạt động, được tư duy
sáng tạo một cách tích cực thông qua giải quyết các nhiệm vụ học tập nhằm tổ
chức lại sự hiểu biết của mình đặc biệt là HS sẽ tự điều chỉnh hiểu biết, quan
niệm để tạo nên thế giới quan cho chính mình.
Học là một quá trình có tính chất xã hội, thể hiện ở hai khía cạnh: Học
là một quá trình đáp ứng yêu cầu của xã hội và quá trình nhận thức của trẻ
chịu ảnh hưởng của những tương tác xã hội. “Phải tổ chức việc dạy học ở nhà
trường như thế nào để cung cấp cho HS một nền học vấn hiện đại, một trình
độ phát triển và chuẩn bị cho các em đi vào lao động, nhằm đáp ứng yêu cầu

15


của cuộc sống trong thời kì cách mạng khoa học kĩ thuật trong điều kiện
những tri thức khoa học không ngừng được mở rộng và đổi mới” [17, tr.5]
Bởi mục tiêu giáo dục không phải là bất biến, không xê dịch mà luôn thay đổi
phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội. Xã hội đặt ra các yêu cầu đối với con

người với các kĩ năng thiết yếu của người lao động hiện đại, vì thế quá trình
học của con người là phải đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Hơn thế nữa nhận
thức của người học có được là do các em tự hoà mình vào các hoạt động trí
tuệ với những người xung quanh. Các kiến thức có được đều do các thành
viên trong một nền văn hoá hợp tác tạo thành. Bên cạnh đó, nhân loại cùng
nhau khám phá và xây dựng nên kho tàng tri thức. Vì vậy tri thức là sản
phẩm của con người và được kiến tạo cả về mặt xã hội mỗi người làm cho nó
trở nên có tác dụng, có ý nghĩa thông qua sự trao đổi tương tác với người
khác, với môi trường mà họ đang sống. Tri thức là khách quan mang tính xã
hội, nó tồn tại trong việc chia sẻ của các cá nhân trong môi trường tương tác,
từ đó tri thức khách quan không ngừng được sáng tạo và trở thành tri thức chủ
quan trong tư duy của con người. Chính vì vậy, trong dạy học GV cần tổ chức
các hoạt động học tập sao cho HS được làm việc, được hợp tác và chia sẻ
trong môi trường học tập thân thiện, nhằm giúp HS tự xây dựng nên kiến thức
cũng như trang bị cho mình các kĩ năng cần thiết của người lao động hiện đại
sau này.
*Vai trò của người học trong dạy học theo thuyết kiến tạo
Thực chất của dạy học theo LTKT là quá trình người học xây dựng nên
những kiến thức cho bản thân thông qua các hoạt động đồng hoá và điều ứng
các kiến thức và kỹ năng sẵn có để thích ứng với môi trường học tập mới. Do
đó người học không học bằng cách thu nhận một cách thụ động những tri thức
do người khác truyền dạy một cách áp đặt, mà bằng cách đặt mình vào một
môi trường tích cực, phát hiện ra vấn đề, giải quyết vấn đề bằng cách đồng

16


hoá hay điều ứng những kiến thức và kinh nghiệm đã có cho thích ứng với
những tình huống mới, từ đó xây dựng nên những hiểu biết mới cho bản thân.
Cụ thể vai trò trung tâm của người học thể hiện ở những điểm sau:

- Người học phải chủ động, tích cực trong việc đón nhận tình huống
học tập mới, chủ động trong việc huy động những kiến thức, kỹ năng đã có
vào khám phá tình huống học tập mới.
- Người học phải chủ động bộc lộ những quan điểm và những khó khăn
của mình khi đứng trước tình huống học tập mới.
- Người học phải chủ động và tích cực trong việc thảo luận, trao đổi
thông tin với bạn học và GV. Việc trao đổi này phải xuất phát từ nhu cầu của
chính họ trong việc tìm ra những giải pháp để giải quyết những tình huống
mới hoặc khám phá sâu hơn các tình huống đó.
- Người học phải tự điều chỉnh lại kiến thức của bản thân mình sau khi
đã lĩnh hội được các tri thức mới thông qua việc giải quyết các tình huống
trong học tập.
*Vai trò của người dạy trong dạy học theo thuyết kiến tạo.
Dạy học theo LTKT không phải chỉ nhấn mạnh vai trò chủ động sáng
tạo của người học mà làm “mờ nhạt” vai trò của người dạy. Ở đây người dạy
cũng rất quan trọng bởi vì người dạy là người tổ chức, hướng dẫn người học
thông qua các hoạt động phù hợp có định hướng cụ thể để giúp người học
phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của mình trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức mới. Nói cách khác trong dạy học theo LTKT người dạy
thay vì việc cố gắng truyền thụ kiến thức cho HS thông qua thuyết trình,
giảng giải hay vấn đáp bằng việc chuyển các tri thức cho HS thông qua việc
xây dựng các tình huống dạy học để các em chủ động tham gia nhằm chiếm
lĩnh tri thức mới một cách chủ động, tự nhiên không gò bó, áp đặt tạo ra môi
trường học tập mang tính xã hội cao.
Như vậy dạy học theo LTKT sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho người học được
học tập với những trải nghiệm phong phú mà giáo viên là người định hướng

17



cho các em xây dựng nên tri thức cho bản thân cũng như cách thức và con
đường tìm ra tri thức đó.
1.2.2.3. Phân biệt dạy học kiến tạo và dạy học truyền thống
Ngày nay, trước yêu cầu đặt ra của xã hội, các PP dạy học đang có sự
chuyển mình mạnh mẽ. Đó là sự chuyển đổi từ dạy học lấy GV làm trung tâm
(dạy học truyền thống) sang dạy học lấy HS làm trung tâm. Và việc dạy học
theo thuyết kiến tạo cũng thay đổi theo hướng đó. Vậy sự thay đổi đó có khác
gì so với dạy học truyền thống?
Dưới đây là bảng so sánh giữa dạy học theo LTKT và dạy học
truyền thống:

18


Bảng 1.1. Bảng so sánh giữa dạy học theo thuyết kiến tạo
và dạy học truyền thống
Bản chất

Dạy học truyền thống
Lấy người dạy làm trung tâm
Cung cấp kiến thức cho người

Mục đích

học, người học chiếm lĩnh kiến
thức mới một cách thụ động,
máy móc.

Dạy học theo thuyết kiến tạo
Lấy người học làm trung tâm

Kiến thức mới được chiếm
lĩnh dựa trên nền tảng kiến
thức và kinh nghiệm vốn có
của người học một cách chủ
động
Tổ chức các hoạt động dựa

Truyền thụ cho người học theo
Người dạy một chương trình mang tính
chủ quan của mình

trên vốn kiến thức, kinh
nghiệm sẵn có của người học.
GV hướng dẫn, gợi ý HS một
cách hợp lý để HS chủ động
lĩnh hội tri thức
Chủ động chiếm lĩnh tri thức
thông qua các hoạt động học.
Từ đó HS được kích thích sự
tìm kiếm, khám phá, liên hệ

Người học

Tiếp nhận thụ động, máy móc,

giữa kiến thức cũ và kiến thức

kém sự sáng tạo

mới, giữa kiến thức mới và

thực tế cuộc sống. Tăng
cường kĩ năng sống như hợp
tác, chia sẻ hay khả năng làm

Đánh giá

việc độc lập
Cả GV và HS đều tham gia

GV là người đánh giá

vào quá trình đánh giá
Qua bảng so sánh ở trên ta có thể thấy rằng dường như giữa PP dạy học

truyền thống với PP dạy học theo LTKT không có gì liên quan đến nhau. Tuy

19


nhiên, trên thực tế trong quá trình người học xây dựng nên kiến thức mới dựa
trên nền tảng kiến thức sẵn có của mình hầu như phải cần đến sự tổ chức,
hướng dẫn, can thiệp kịp thời của GV. Do đó tất yếu diễn ra sự trao đổi, thảo
luận…… giữa GV và HS để đi đến kết luận chung thống nhất. Như vậy, các
PP dạy học truyền thống được sử dụng trong quá trình dạy học theo LTKT ở
mức độ nhất định, phù hợp vẫn sẽ khuyến khích được HS khi chủ động xây
dựng nên các tri thức mới. Việc sử dụng phối hợp các PP dạy học hợp lý giữa
PP dạy học truyền thống và PP dạy học khác khi dạy học theo LTKT sẽ tạo ra
hiệu quả khả quan trong dạy học.
1.2.2.4. Ưu và nhược điểm của dạy học theo thuyết kiến tạo
Mỗi một quan điểm dạy học đều mang tính chất hai mặt, và không có

một quan điểm dạy học nào là tối ưu. LTKT về học tập cũng vậy nó cũng
chứa đựng những ưu và nhược điểm như sau:
* Ưu điểm
Với việc lấy người học làm trung tâm, “người học tự xây dựng kiến
thức mới, sự hiểu biết dựa trên kinh nghiệm, vốn kiến thức sẵn có của bản
thân, để tạo dựng vốn kiến thức vững chắc hơn cho mình” [9; tr.42]. Cách tiếp
cận này sẽ giúp HS chủ động làm việc, độc lập giải quyết các vấn đề học tập.
Từ đó, sẽ làm cho các em năng động và sáng tạo hơn từ trong hoạt động học
tập cho đến giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Trong quá trình học tập theo quan điểm dạy học của LTKT, ngoài làm
việc cá nhân HS còn được tham gia trao đổi với bạn bè thầy cô theo nhóm,
lớp trong môi trường mà chính mình làm trung tâm. Qua đó sẽ hình thành
được nhiều kĩ năng tốt cho các em như: kĩ năng hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, sự tự
tin dám khẳng định bản thân trước tập thể.
Ngoài ra học tập theo LTKT, HS sẽ được tăng cường kĩ năng thực
hành, được học qua thực tiễn cuộc sống. Với những kiến thức được tự mình
xây dựng các em sẽ nhớ lâu hơn và kích thích được sự hứng thú, tìm tòi ham

20


×