Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

XUNG đột tâm lý TRONG QUAN hệ với CHA mẹ của học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.52 KB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-------- ♣♣--------

ĐẶNG THỊ HẠNH

XUNG §éT T¢M Lý TRONG QUAN HÖ VíI CHA MÑ
CñA HäC SINH TRUNG HäC PHæ TH¤NG
CHuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.04.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỖ THỊ HẠNH PHÚC

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, em xin được gửi lời
cảm ơn đến PGS.TS. Đỗ Thị Hạnh Phúc người đã trực tiếp hướng dẫn, tận
tình chỉ bảo, động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn Thạc sĩ.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Khoa Tâm lý – Giáo dục
Trường Đại học Sư phạm Hà nội đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ em hoàn
thành khóa học này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo nhà trường, các thầy cô giáo,
các bậc phụ huynh và các em học sinh Trường THPT Nguyễn Du – Nam
Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ em trong quá trình điều tra và
nghiên cứu tại trường.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài do điều kiện và năng lực còn hạn chế


nên đề tài của em còn nhiều thiếu sót. Em kính mong nhận được sự bổ sung,
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 08 tháng 07 năm 2014
Tác giả

Đặng Thị Hạnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt
ĐLC
ĐTB
NXB
p
r
R2
SL
TB
THPT
TLH
TNHS

XĐTL

Chữ viết đầy đủ
Độ lệch chuẩn
Điểm trung bình
Nhà xuất bản
Mức ý nghĩa

Hệ số tương quan peason
Hệ số hồi quy
Số lượng
Thứ bậc
Trung học phổ thông
Tâm lý học
Thanh niên học sinh
Xung đột
Xung đột tâm lý


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Gia đình là tế bào của xã hội, nó giữ một chức năng vô cùng quan trọng
đó là chăm sóc và giáo con cái. Sự hình thành và phát triển nhân cách đứa trẻ
như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ của chúng với các thành
viên trong gia đình, đặc biệt là bố mẹ chúng. Thực tế, trong triết học duy vật
biện chứng đã chỉ ra rằng: Nguồn của của sự phát triển chính là sự thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập.Vậy có nghĩa là, trong quá trình phát triển
thì không thể tránh khỏi những xung đột và xung đột thường mang lại những
hậu quả mang tính tiêu cực,chẳng hạn như: bầu không khí tâm lý căng thẳng,
khoảng cách giữa các thành viên càng xa, cảm giác hụt hẫng, buồn chán…
Đặc biệt là quan hệ giữa học sinh THPT với bố mẹ lại càng phức tạp

hơn, khi các em đang bước vào giai đoạn có nhiều chuyển biến về tâm lý.
Chính vì vậy, ở các em nảy sinh nhiều mong muốn với cha mẹ như là:
mong muốn cha mẹ chỉ là người cố vấn, các em muốn được độc lập… Tuy
nhiên thực tế cuộc sống lại không như các em mong muốn, các em vẫn phải
phụ thuộc, chịu sự chế ước từ bố mẹ… Điều đó làm nảy sinh xung đột
trong quan hệ của các em với cha mẹ. Xung đột đó có thể xảy ra ở nhiều
lĩnh vực như: học tập, giao tiếp ứng xử, lựa chọn nghề , tình cảm bạn bè,
hay các vấn đề xã hội…
Khi xung đột tâm lý xảy ra trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
nó có ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng sức khỏe, kết quả hoạt động, giao tiếp
của cả cha mẹ và con cái. Nếu XĐTL được giải quyết ổn thỏa, tốt đẹp sẽ tạo
ra động lực cho quá trình phát triển nhân cách của các em học sinh nói riêng
và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái nói chung. Ngược
lại, nếu không được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để sẽ ảnh hưởng rất

1


tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động của cha mẹ và con cái.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay dưới sự phát triển mạnh mẽ của đất nước cũng như sự tác
động của nhiều yếu tố đã làm cho suy nghĩ và quan điểm của mỗi người ngày
càng thay đổi, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Các em đang sống trong thời đại
mới – thời đại của sự bùng nổ công nghệ thông tin. Chính vì vậy các em
nhanh nhạy hơn, nhạy bén hơn trong việc tiếp xúc, nắm bắt thông tin. Điều
này đẫn đến cách nhìn nhận, suy nghĩ thậm chí là quan điểm của các em về
những vấn đề trong cuộc sống cũng mạnh dạn và tự tin hơn thanh niên thời
trước. Trước sự thay đổi đó, đã tạo nên tâm lý đối nghịch giữa các em và cha
mẹ, giữa một bên là muốn tự khẳng định mình, tự tin trải nghiệm cuộc sống
còn bên là băn khoăn lo lắng, luôn muốn kiểm soát và điều khiển con cái.

Chính điều này đã tạo nên khoảng cách tâm lý giữa hai thế hệ, nảy sinh những
mâu thuẫn và xung đột trong gia đình.
Xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT tưởng
như rất bình thường, nhưng thực tế thì những xung đột tâm lý đó lại ảnh
hưởng rất nhiều đến sự phát triển nhân cách của các em, thậm chí là đem lại
những hậu quả khôn lường mà chúng ta chưa nghĩ tới. Thực tế cuộc sống cho
thấy, có nhiều em học sinh bỏ nhà đi lang thang hay sa ngã vào các tệ nạn xã
hội,chỉ vì những xung đột tâm lý nảy sinh với cha mẹ chưa được giải quyết.Vì
vậy, việc nghiên cứu xung đột tâm lý trong quan hệ vớiTHPT là rất cần thiết,
có ý nghĩa to lớn giúp các bậc cha mẹ hiểu biết rõ hơn về suy nghĩ, mong
muốn của con cái về các vấn đề tâm lý nảy sinh của lứa tuổi cũng như các vấn
đề các em gặp phải trong cuộc sống.Từ đó biết cách điều chỉnh, khắc phục
các xung đột tâm lý nảy sinh trong quan hệ với các em. Xuất phát từ những lý
do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của
học sinh THPT”
2. Mục đích nghiên cứu
2


Tìm hiểu thực trạng xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học
sinh THPT và nguyên nhân cơ bản dẫn đến xung đột đó. Trên cơ sở đó đề
xuất một số biện pháp khắc phục và hạn chế các xung đột tâm lý trong quan
hệ với cha mẹ của học sinh THPT.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT
3.2. Khách thể nghiên cứu
- 160 học sinh trường THPT Nguyễn Du – Nam Định (học sinh khối 11
và khối 12)
- 160 phụ huynh của các em học sinh được nghiên cứu.

4. Giả thuyết khoa học
Xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT thường
biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày và diễn ra ở các mức độ khác nhau. Có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học
sinh THPT. Nếu tìm ra biện pháp tác động tích cực sẽ góp phần nâng cao sự
hiểu biết lẫn nhau từ hai phía, sẽ giúp hạn chế những XĐTL nảy sinh trong họ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xung đột tâm lý nói chung và xung
đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT.
5.2. Khảo sát thực trạng xung đột tâm lý trong quan hệ với cha mẹ của học
sinh THPT.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tác khắc phục, hạn chế những xung đột tâm lý
trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
XĐTL là một vấn đề rộng và phức tạp. Vì vậy đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu một số biểu hiện của XĐTL trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT
Nam Định trong năm học 2013- 2014 như:
+ Ở lĩnh vực học tập
+ Ở lĩnh vực sinh hoạt
+ Ở lĩnh vực giao tiếp ứng xử

3


+ Ở lĩnh vực định hướng giá trị (nghề nghiệp, lối sống..)
6.2. Địa bàn nghiên cứu
Trường THPT Nguyễn Du – huyện Nam Trực – Nam Định
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.3. Phương pháp phỏng vấn và phỏng vấn sâu
7.4. Phương pháp quan sát
7.5. Phương pháp chuyên gia
7.6. Phương pháp thống kê toán học
8. Dự kiến của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xung độ, xung đột tâm lý và xung đột tâm
lý trong quan hệ với cha mẹ của học sinh THPT
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT, XĐTL VÀ XĐTL TRONG
QUAN HỆ VỚI CHA MẸ CỦA HỌC SINH THPT
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về vấn đề xung đột tâm lý
Trong triết học xung đột được hiểu như là sự biểu hiện của mâu thuẫn
vốn luôn được tồn tại trong các sự vật hiện tượng mà nếu giải quyết nó được
bằng “sự đấu tranh”, giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập của “mâu thuẫn
đó”, thì sẽ tạo ra được sự vận động và phát triển. Ở đây xung đột được xem
xét, nghiên cứu ở tất cả các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Trong TLH và xã hội học: Xung đột luôn được nghiên cứu, xem xét ở
những con người cụ thể, những mối quan hệ liên nhân cách, liên nhóm cụ thể.
Chính vì vậy phạm vi nghiên cứu xung đột trong tâm lý học hẹp hơn trong
triết học và xung đột có những sắc thái đặc trưng riêng hết sức độc đáo.

Trong TLH có hai hướng nghiên cứu chủ yếu về XĐTL.
- Hướng thứ nhất đi sâu nghiên cứu XĐTL bên trong nhân cách với các
tác giả tiêu biểu như: S.Freud, N.Miller, Erich Fromn…
- Hướng thứ hai lại quan tâm nghiên cứu XĐTL liên nhân cách và
XĐTL giữa các nhóm xã hội mà tiêu biểu là các nhà TLH: K.Leewin, L.Coser,
E.Mayo, J.P.Chaplin, Watson Goodwin, A.V.Petrovxki, L.U.Umanxki,
B.F.Lomov, A.G.Kovaliop…Có nhiều trường phái quan điểm khác nhau về
vấn đề XĐTL liên nhân cách nhưng nhìn chung, các nhà TLH đều cho rằng:
nguyên nhân sâu xa của quá trình XĐ là dó có sự khác biệt, đối lập về nhiều
mặt giữa các thành viên đang sống, hoạt động trong các loại nhóm khác nhau.
Chính từ sự khác biệt, đối lập về nhận thức, động cơ, thái độ, nhu cầu, hứng
thú, hành vi…như vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột khi có sự va chạm về

5


mục đích, quyền lợi, danh dự giữa các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên còn
ít tác giả quan tâm nghiên cứu đến các giai đoạn của một quá trình XĐTL liên
nhân cách và một số cách chia cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý. Nhiều tác
giả đã tìm kiếm các biện pháp giải quyết XĐTL nhưng ở từng loại nhóm khác
nhau, các biện pháp này là không giống nhau.
Sau đây xin đề cập đến một số trường phái và tác giả tiêu biểu đã
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của XĐTL nói chung và XĐTL trong một số
nhóm nhỏ nói riêng.
a. Các nghiên cứu về những vấn đề cơ bản của XĐTL
- Theo S.Freud thì: Xung đột chủ yếu do những xung lực bản năng vấp
phải thực tế không thể thỏa mãn trực tiếp và đầy đủ. Đó là nguồn gốc của mọi
hành vi, mà mọi hành vi là do thỏa hiệp giữa các xung năng và thực tế. [15]
- Theo J.Piaget (1997) thì sự phát triển tâm lý ở trẻ em là sự phát
triển của những sơ đồ nhận thức:Sự phát triển nhận thức bắt nguồn từ sự

đan xen thường xuyên giữa đồng hóa và điều ứng. Đồng hóa duy trì và bổ
sung cho các năng lực hữu hiệu và các bài học đã học được. Còn điều ứng
thì bắt nguồn từ những vấn đề mới là môi trường đặt ra. Nhưng sự không
thống nhất giữa những ý tưởng cũ với những trải nghiệm mới của đứa trẻ là
một tác nhân, động lực quan trọng tạo thành những thay đổi trong quá trình
phát triển nhận thức. [15]
- Một số nhà TLH Phương Tây thuộc trường phái “động thái nhóm”
cho rằng cấu trúc của nhóm là một sự cân bằng tương đối. Cuộc sống của
nhóm biểu hiện qua quá trình lần lượt thay đổi các trạng thái cân bằng và phá
hủy sự cân bằng đó. Đặc biệt các nhóm không chính thức ít có tính bền vững,
không có tính cân bằng tương đối và ổn định trong hoạt động. Tác giả
K.Lewin(1953) nhấn mạnh: Nhóm không bao giờ ở trang thái cần bằng, ổn
định mà ở trạng thái “không ngừng thích nghi lẫn nhau”. Còn xung đột nhóm

6


là trạng thái thay đổi cơ bản, gây rối loạn về tổ chức đối với sự cân bằng trước
đó của nhóm, XĐ nhóm là động lực, là nguyên nhân dẫn đến thay đổi cấu trúc
của nhóm.
- Trường phải tâm lý học nhận thức ở Phương Tây mà A.Kauzer (1956)
đại diện cho rằng: nguyên nhân của xung đột là sự không tương hợp trong
nhận thức, quan niệm, tri thức của các chủ thể tham gia xung đột. Trường
phái này cho rằng, XĐ chỉ xảy ra khi nó được các thành viên tham gia tiếp
nhận và hiểu rõ. A.Kauzer cho rằng: XĐ là một bộ phận không thể tách rời
của tồn tại xã hội và của sự tác động qua lại giữa các cá nhân và các nhóm.
Một số tác giả tiêu biểu khác như:
- L.Coser cho rằng: XĐ theo đúng nghĩa của từ này chính là “sự đấu
tranh”. Nguyên nhân dẫn đến xung đột là do có “sự thiếu hụt quyền lực, vị trí
hay công cụ cần thiết để thỏa mãn những đòi hỏi, kỳ vọng” và một khi cuộc

tranh đấu đó diễn ra sẽ làm cô lập, lấn át, dập tắt, ý đồ, mục đích của đối
phương.
- K.Frink thì nhấn mạnh đến “ hình thức đối kháng tâm lý và đối kháng
hành động” giữa các bên tham gia xung đột ở các tình huống cụ thể nào đó.
Những trạng thái cảm xúc: bực bội, khó chịu, phẫn nộ… chính là sự đối
kháng tâm lý. Còn sự tác động qua lại nhằm xâm nhập, can thiệp vào các
công việc của đối phương được gọi là đối kháng hành động.
- Một tác giả đã bỏ nhiều công đi sâu tìm hiểu nguyên nhân gây ra xung
đột giữa các nhóm và các cá nhân trong nhóm đó là E. Mayo[8]. Chính sự bất
hòa, nghi ngờ, đố kị, căm ghét và thù địch giữa các bên tham gia đã làm bùng
nổ xung đột. Chính vì vậy chúng ta phải luôn chú ý đặc biệt đến đời sống và
hoạt động của nhóm để thay thế sự bất hòa bằng sự hợp tác.
- Còn Follet thì cho rằng không nên xem như một tranh chấp, mà nên
xem như sự khác biệt ý kiến và lợi ích, do vậy tự bản thân mâu thuẫn không

7


xấu mà cũng chẳng tốt.. Follet đã đưa ra một ví dụ rất hình tượng rằng: mâu
thuẫn giống như ma sát của con người và không phải tất cả các ma sát đều có
hại. Về những phương pháp giải quyết mâu thuẫn trong nhóm, nhà nghiên
cứu đã đưa ra ba phương pháp chủ yếu là: áp chế, thỏa hiệp và thống nhất.
Tuy nhiên muốn thống nhất thì cần có sự nhạy cảm, trí thông minh cao độ
cùng với khả năng xem xét, phán đoán tuyệt vời. “ trên tất cả, nó đòi hỏi tính
sáng tạo lỗi lạc”.
- A.V.Petrovxki [18] cho rằng nhóm luôn được hình thành tồn tại, phát
triển trên cơ sở của hoạt động chung. Trong quá trình hoạt động chung, nhóm
cũng thay đổi, trải qua các giai đoạn phát triển trở nên ổn định, bền vững. Ông là
người có những công trình nghiên cứu cụ thể về XĐTL trong nhóm. Khi nghiên
cứu về XĐTL giữa học sinh trung học cơ sở với cha mẹ, ông khẳng định rằng

các em thường không tuân thủ những yêu cầu mà trước đây nó vẫn chấp hành
một cách tự nguyện. Ở tuổi này các em rất hay tự ái và phản kháng lại khi người
lớn không hiểu và hạn chế nhu cầu độc lập của chúng. Chính vì vậy người lớn
cần phải hình thành mối quan hệ mới với học sinh trung học cơ sở.
- L.U.Umanxki và A.G.Kirpitrnhich, [18] khi nghiên cứu về nhóm, sự
phát triển của các mâu thuẫn trong nhóm đã quan tâm đến mâu thuẫn giữa
những khả năng ngày một tăng trong nhóm cũng như hoạt động hiện tại của
nó. Theo các nhà nghiên cứu sự cố gắng của các thành viên tự thể hiện, tự
khẳng định mình và khuynh hướng ngày càng mạnh mẽ hơn của họ muốn hòa
nhập nhân cách vào cấu trúc nhóm cũng là mâu thuẫn cần chú ý. Chính việc
giải quyết các mâu thuẫn ngày càng căng thẳng này sẽ tạo ra chuyển biến từ
cấp độ phát triển này sang cấp độ khác, một cách nhảy vọt.
b. Các nghiên cứu về XĐTL trong những nhóm nhỏ
- Các nghiên cứu về XĐTL trong quan hệ vợ chồng:
Ở đây chúng ta phải kể đến các tác giả tiêu biểu như: M.Zamses,

8


J.Gonmen, B. Herring, H.Wessel,Jacques, Gauthier, Todor Ghêghisanop….
Trong các nghiên cứu của mình họ đã phân tích và chứng minh: tính phổ biến
của XĐTL trong quan hệ vợ chồng, các nguyên nhân gây ra nó cũng như
cách giải quyết hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt này. Bằng nhiều phương
pháp tiếp cận và nghiên cứu khác nhau, mỗi tác giả đều có cách phân tích và
lý giải riêng về quá trình XĐTL liên nhân cách giữa người vợ với người
chồng. Tuy nhiên chúng ta dễ dàng nhận thấy các nhà nghiên cứu đều thống
nhất cho rằng nguyên nhân sâu xa của quá trình XĐ chính là sự khác biệt, đối
lập giữa hai người về nhiều mặt từ nhận thức, quan điểm, thái độ, hành vi cho
đến nhu cầu, hứng thú, tính cách, khí chất, giới tính, tình dục…Từ đó, họ
khuyên mọi người để tránh xung đột trước hết cần phải hiểu rõ chính bản thân

mình để có thể tiến tới hiểu được người bạn đời của mình. Còn một khi xung
đột xảy ra thì phương cách giải quyết tốt nhất là giảng hòa bằng đối thoại sau
khi hai người đã bình tâm hơn.
- Những nghiên cứu về XĐTL trong các nhóm trẻ em:
D.E.May [7] đã đi sâu nghiên cứu về trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo.
Những nhóm trẻ em ở lứa tuổi này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình
thành những phẩm chất đạo đức nhân cách của từng thành viên.Trong quá
trình giao lưu, tiếp xúc cùng hoạt động trong nhóm thường nảy sinh xung đột.
Nguyên nhân gây ra XĐ rất đa dạng và những biểu hiện của hành vi XĐ của
trẻ cũng rất phong phú. XĐ được biểu hiện ra ngoài thông qua các hành vi,
song có thể nhiều hành vi khác nhau lại là biểu hiện của cùng một nguyên
nhân nào đó mà thôi.Tính ích kỉ ở trẻ là một nguyên nhân rất quan trọng
thường gây ra XĐ trong nhóm. Khi quan sát, nghiên cứu chúng ta thấy, nó
thường bộc lộ ở thái độ thù địch hay gây gổ và chỉ biết đến mình, tuy nhiên
nhiều khi nó lại thể hiện ở sự xa lánh bạn bè, không tham gia hoạt động và

9


luôn coi mình là nhất.
- Những nghiên cứu về XĐTL giữa cha mẹ và con cái:
Các tác giả tiêu biểu về lĩnh vực này là: Montemayo và Hanson,
Steinberg, Caplow, Hill và Hombeck, Galambos và Almeida, Patterson….
Bằng những kết quả nghiên cứu cụ thể, các nhà nghiên cứu đã đi sâu phân
tích nguồn góc, bản chất, nguyên nhân dẫn đến XĐTL giữa các bậc cha mẹ
với con cái. Đặc biệt nhiều nhà TLH đã tập trung nghiên cứu về XĐTL giữa
trẻ em giai đoạn thiếu niên với các bậc phụ huynh. Theo họ, học sinh lứa tuổi
thiếu niên dễ xảy ra XĐ với cha mẹ về nhu cầu độc lập. Thực ra, những
nguyên nhân cụ thể dẫn đến XĐ không có gì là to tát, nguy hiểm mà thường
chỉ là do các em tham gia vào việc nhà như thế nào? Có nghe lời người lớn

hay không? Bài tập về nhà làm ra sao? Các em đã lựa chọn hoạt động, bạn bè
như thế nào? Có đánh nhau với anh chị em hay không?...Tuy nhiên những
hành vi, thái độ vi phạm vào yêu cầu, đòi hỏi này của cha mẹ nhiều khi làm
cho các bậc phụ huynh không thể chịu nổi và xảy ra XĐ.
Như vậy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về xung đột tâm lý. Đặc
biệt trong nhóm các nghiên cứu về XĐTL trong những nhóm nhỏ như: nghiên
cứu về XĐTL trong quan hệ vợ chồng; nhóm trẻ em; cha mẹ và con cái.
Trong đó, kết quả của những nghiên cứu về XĐTL trong quan hệ giữa cha mẹ
và con cái thực sự có ý nghĩa và là nguồn tài liệu quan trọng giúp chúng tôi
nghiên cứu về XĐTL trong quan hệ với cha mẹ ở học sinh THPT
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về vấn đề xung đột tâm lý
Cùng các nhà khoa học trên thế giới, các nhà tâm lý học Việt Nam cũng
quan tâm rất nhiều đến vấn đề xung đột và đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, vấn đề XĐTL đã được các nhà TLH
Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Những tác giả tiêu biểu là: Phạm Tất Dong,
Trần Trọng Thủy, Đỗ Long, Vũ Dũng, Bùi Văn Huệ, Mai Hữu Khuê, Trần

10


Hiệp. Từ năm 2000 đến nay, do tính cấp thiết của nó nên đã có 4 luận án tiến
sĩ tập trung nghiên cứu vấn đề XĐTL liên nhân cách ở các loại nhóm khác
nhau của các tác giả: Cao Thị Huyền Nga, Nguyễn Văn Tuân, Đinh Thị Kim
Thoa, Đỗ Hạnh Nga.
- Những nghiên cứu về XĐTL liên nhân cách ở các laoi nhóm cụ thể
(nhóm gia đình, tập thể, trẻ em…)
+ Tác giả Trần Trọng Thủy [24] với công trình nghiên cứu: “ Xung đột
và không khí tâm lý trong tập thể” đã chỉ rõ: xung đột là một hiện tượng nảy
sinh trong hoạt động cùng nhau giữa các cá nhân trong tập thể. Nó liên quan
đến bầu không khí tâm lí trong tập thể.

+ Tác giả Lê Thị Bừng [5] khi khẳng định tầm quan trọng của sự cần
thiết phải giáo dục lòng nhân ái cho trẻ em từ trong gia đình, đã cảnh báo về
những XĐTL và bạo lực trong các mối quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha
mẹ với con cái…Tác giả đã dẫn ra những thống kê của các cơ quan hình sự,
thì từ 5 đến 7 năm gần đây chuyện vợ chồng, bố con, anh em trong nhà vì
nhiều lý do đã giết hại, đánh đập tàn bạo lẫn nhau đang có xu hướng gia tăng.
Trước thực trạng đó nhà nghiên cứu khẳng định: muốn ngăn chặn và
loại bỏ vấn đề XĐ, vấn đề bạo lực trong gia đình thì bố mẹ cần phải nêu tấm
gương tốt cho các con.
+ Tác giả Nguyễn Khắc Viện (1983)[25] cũng quan tâm đến hiện
tượng xung đột. Ông đã nghiên cứu và đưa ra khái niệm xung đột, nêu ra
ảnh hưởng của xung đột đối với những tâm bệnh của trẻ em và chứng nhiễu
tâm ở người lớn.
+ Tác giả Ngô Công Hoàn (1993) [16] đã nghiên cứu về xung đột thế
hệ, xung đột giữa các thành viên trong gia đình nhưng ông chỉ tập trung
nghiên cứu chủ yếu giữa thế hệ ông bà với cha mẹ, xung đột trong quan hệ
vợ chồng.

11


+ Tác giả Cao Thị Huyền Nga (2000) [17] với công trình nghiên cứu: “
Sự xung đột tâm lý trong quan hệ vợ chồng” cũng đã làm rõ được những biểu
hiện của xung đột tâm lý trong quan hệ vợ chồng ở các gia đình. Tác giả đã
cho rằng, xung đột tâm lý là nguyên nhân chính dẫn đến việc ly hôn giữa các
cặp vợ chồng.
+ Tác giả Đinh Thị Kim Thoa (2002) [19] với công trình nghiên cứu về
xung đột tâm lý của trẻ mẫu giáo trong hoạt động vui chơi đã làm nổi bật
được ý nghĩa của xung đột tâm lý đối với sự phát triển của trẻ em.
+ Tác giả Lê Minh Nguyệt (2004) [16] đã nghiên cứu về sự xung đột

tâm lý của học sinh THCS.
+ Tác giả Đặng Thị Mai Hiên (2011) [12] đã nghiên cứu về một số biểu
hiện xung đột tâm lý của học sinh THCS trong quan hệ với cha mẹ.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về xung đột tâm lý của các tác giả
Việt Nam cho thấy XĐTL là một vấn đề quan trọng và chứa đựng những ý
nghĩa sâu sắc, là nguồn tài liệu phong phú cho các công trình nghiên cứu sau
này về vấn đề XĐ liên nhân cách.
Tuy nhiên chúng tôi trở lại nghiên cứu vấn đề này, bởi vì theo chúng
tôi những công trình nghiên cứu của các tác giả trên đây phần lớn đề cập đến
xung đột tâm lý trong mối quan hệ vợ chồng và đề cập đến xung đột tâm lý
của học sinh THCS trong quan hệ với cha mẹ. Một điểm nổi bật ở lứa tuổi
học sinh THPT đó chính là sự lựa chọn nghề và xây dựng kế hoạch đường
đời, chính điều này đã gây ra mâu thuẫn, xung đột giữa các em và cha mẹ,
giữa một bên là: dự định nghề nghiệp của con cái rất đa dạng, phong phú, dự
định học tiếp tục sau THPT chiếm tỷ lệ cao, các em lựa chọn nghề theo cảm
tính ít chú ý đến yêu cầu xã hội… Trong khi đó cha mẹ lại là người có cái
nhìn rõ nét hơn về lựa chọn nghề nghiếp đối với các em, thậm chí có những
phụ huynh lại muốn con cái phải theo nghề của mình hoặc theo nghề mà cha

12


mẹ có thể nhờ cậy xin việc cho các em sau này mà không quan tâm đến sở
thích, niềm đam mê của con. Chính sự không thống nhất về mục tiêu, quan
điểm, sở thích về việc lựa chọn nghề nghiệp đã tạo nên khoảng cách giữa cha
mẹ và con cái và khi không tìm được tiếng nói chung thì sẽ dẫn đến mâu
thuẫn, xung đột.
Và một nguyên nhân quan trọng làm nảy sinh XĐTL trong quan hệ với
cha mẹ của học sinh THPT là: khi bước vào lứa tuổi học sinh THPT, đây là
kỳ giải phóng đứa các em ra khỏi cha mẹ, sự giải phóng có thể là về mặt cảm

xúc, có thể là về mặt hành vi hoặc có thể là về mặt chuẩn mực. Chính sự giải
phóng này đã một phần làm hạn chế chức năng quyền lực của cha mẹ đối với
con cái dẫn đến mâu thuẫn và dễ gây xung đột. Điều này dẫn đến cha mẹ cần
phải có phương pháp giáo dục phù hợp. Do vậy theo chúng tôi khi nghiên cứu
đề tài này cần thấy rằng việc nảy sinh XĐTL trong quan hệ với cha mẹ của
học sinh THPT là không thể tránh khỏi, nhưng xung đột không hoàn toàn tiêu
cực, ngược lại nó mang đến những ý nghĩa và động lực hết sức tích cực đối
với cả các em học sinh và phụ huynh. Nhưng cần thấy được vai trò của cha
mẹ trong việc giáo dục con cái làm thế nào vừa giúp con cái nhận thức đúng
đắn vấn đề của mình, mà không xâm phạm đến nhu cầu độc lập, xu hướng
thoát ly gia đình mới xuất hiện ở lứa tuổi này. Chúng tôi cho rằng cách ứng
xử của cha mẹ đối với con cái trong lứa tuổi này nếu khéo léo và đúng đắn sẽ
làm hạn chế rất nhiều XĐTL giữa các bậc cha mẹ và học sinh THPT.
Khách thể chúng tôi lựa chọn là trường THPT Nguyễn Du – Nam
Định là trường có nhiều học sinh nghịch ngợm hơn các trường THPT khác
trong địa bàn huyện Nam Trực – Nam Định
1.2. Một số khái niệm cơ bản về xung đột và xung đột tâm lý
1.2.1. Xung đột
Thuật ngữ xung đột (từ gốc la tinh – conflictus) được hiểu như là sự va

13


chạm, sự xung đột, sự xô xát, chống đối giữa những khuynh hướng đối lập
nhau, không tương hợp nhau trong ý thức của một cá nhân riêng biệt, trong sự
tác động liên nhân cách của cá thể hay các nhóm người, gắn liền với những
thể nghiệm xúc cảm tiêu cực, gay gắt.
Theo cuốn: ‘Từ điển Tiếng Việt” do G.S Hoàng Phê chủ biên (1997)
[21] thì xung đột được hiểu theo hai nghĩa:
- Một là: Xung đột là đánh nhau giữa các lực lượng đối nghịch

- Hai là: Xung đột là va chạm, chống chọi nhau do có mâu thuẫn gay gắt.
Cách hiểu thứ nhất được hiểu theo góc độ triết học còn cách thứ hai
hiểu theo góc độ tâm lý học.
1.2.1.1.Quan điểm của các nhà triết học về vấn đề xung đột
Theo quan điểm duy vậy biện chứng, sự liên hệ tác động qua lại, làm
cho các sự vật vận động, phát triển và nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Động lực của sự
phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật cơ
bản của phép biện chứng. Nó chỉ ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và
phát triển. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng: mọi sự vật hiện trong
thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Trong suốt quá trình phát triển của
chúng, không có một sự vật hiện tượng nào không có mâu thuẫn, không có
một giai đoạn phát triển nào của sự vật hiện tượng lại không có mâu thuẫn.
Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Ngược lại, khi hai mặt
của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi thì hai
mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự
thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối
lập mới được hình thành với mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển
khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện

14


thay thế sự vật cũ.
Theo “ Từ điển triết học” thì xung đột là “sự va chạm”, “ xúc phạm
nhau”, “đánh nhau”. Xung đột là sự đấu tranh giữa những xu hướng, lợi ích
trong đó chủ thể thấy mình bị giằng xé giữa những sức mạnh ngược chiều và
ngang sức, hay xung đột là sự va chạm giữa hai mục đích, quyền lợi, địa vị, ý
kiến, quan điểm của các chủ thể trong hành động cùng nhau. Tình huống xung

đột bao giờ cũng chứa đựng chủ thể của xung đột và đối tượng của nó. Để xung
đột xảy ra thì một bên bắt đầu hành động và lấn át quyền lợi của đối phương.
Như vậy ở góc độ triết học duy vật biện chứng, xung đột được hiểu là
đỉnh cao của mâu thuẫn đối kháng, là sự đấu tranh sống còn của những
khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau
không thể điều hòa được. Xung đột là một phương thức giải quyết mâu thuẫn
và tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội.
1.2.1.2. Quan điểm của các nhà tâm lý học về xung đột và xung đột tâm lý
Một cá nhân khi mới sinh ra không phải là con người có ý thức. Muốn
hình thành tâm lý, ý thức, đứa trẻ phải được sống trong một xã hội cụ thể, với
những nhóm người cụ thể. Thông qua cuộc sống trong các nhóm bằng hoạt
động, giao tiếp của bản thân dưới sự hướng dẫn của người lớn, đứa trẻ mới có
thể dần dần tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà loài người đã sáng tạo
ra, biến nó thành kiến thức, tâm lý của bản thân.Chính trong quá trình hoạt
động, giao tiếp ấy, các mâu thuẫn, xung đột trong bản thân mỗi cá nhân, hay
trong mối quan hệ giữa cá nhân với các thành viên khác trong nhóm có thể
xảy ra. Như vậy khái niệm XĐTL bao giờ cũng gắn liền với con người cụ thể,
đang sống, hoạt động trong các nhóm khác nhau của một xã hội nhất định. Do
vậy khái niệm XĐTL trong TLH hẹp hơn khái niệm XĐ trong triết học và nó
phản ánh đặc trưng tâm lý của con người. “Tuy nhiên cũng không nên hiểu
XĐ như là một sự tranh chấp mà xem nó như là sự khác biệt về ý kiến và lợi

15


ích, XĐ là những hiện tượng TL xảy ra một cách khách quan trong quá trình
phát triển của nhóm, chỉ có điều nó xảy ra ở mức độ nào và ảnh hưởng ra sao
đối với nhóm”.
Thuật ngữ xung đột (từ gốc la tinh – conflictus) được hiểu như là sự va
chạm, sự xô xát, chống đối giữa những khuynh hướng đối lập nhau, không

tương hợp nhau trong ý thức của một cá nhân riêng biệt, trong sự tác động
liên nhân cách của cá thể hay các nhóm người, gắn liền với những thể nghiệm
xúc cảm tiêu cực, gay gắt.
Khái niệm XĐ được rất nhiều tác giả đề cập đến mặc dù còn rất nhiều ý
kiến khác nhau:
- J.Nuttin – nhà tân lý học Bỉ cho rằng: xung đột là trạng thái xáo trộn
về tổ chức đối với sự cân bằng trước đó của nhóm.
- Tác giả U.Lehrova cho rằng: Xung đột phần lớn được dùng để chỉ
tình thế mà cá nhân phải quyết định hay lựa chọn
- Còn Follet thì cho rằng: xung đột như biểu hiện của sự khác biệt về ý
kiến và lợi ích chứ không phải là sự tranh chấp.
- Theo tác giả Vũ Dũng thì: xung đột là sự khác biệt về quan điểm,
mục đích,động cơ… giữa các thành viên trong quá trình hoạt động chung
của nhóm. [8]
Khái niệm xung đột của A.V. Petrovxki và M.G.Rosevxki: Là sự va
chạm giữa các chủ thể có liên quan hay trong bản thân một chủ thể do có sự
đối lập nhau về mục tiêu, quyền lợi, gá trị nhu cầu, quan niệm hay nhận thức.
Khái niệm này đã nêu bật được tính chất đối kháng một cách công khai của
xung đột, nguyên nhân gây lên xung đột và chủ thể xung đột.
Như vậy dưới góc độ góc độ tâm lý họ, xung đột được hiểu là:
“ Xung đột theo quan điểm tâm lý học là sự tranh chấp giữa những
xu hướng, những lợi ích trong đó chủ thể thấy mình bị giằng xé giữa
những sức mạnh ngược chiều nhau và ngang sức nhau”. Trong đó:

16


- Xung đột được hiểu như là chủ thể đứng trước một tình thế có nhiều
khả năng đòi hỏi phải chọn lấy một
- Xung đột để chỉ tình thế mà trong đó xuất hiện những khuynh hướng

đối lập
- Xung đột như là sự phản ánh rối lọan tổ chức hành vi
- Xung đột là sự mất định hướng hay là tình thế thất bại
- Xung đột còn được hiểu là sự mất định hướng trong đó cá nhân phải
trải qua sự căng thẳng quyết định hay lựa chọn.
Như vậy ở góc độ tâm lý học thì vấn đề xung đột có phần được hiểu
khác so với góc độ triết học ở chỗ:
- Triết học gắn xung đột với tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới
tự nhiên cũng như trong xã hội thì tâm lý học gắn xung đột với hiện tượng có
ở con người. Vì vậy xung đột luôn mang màu sắc tâm lý và diễn ra ở các mức
độ khác nhau. Do đó khái niệm xung đột trong tâm lý học có phạm vi hẹp hơn
trong triết học.
- Mâu thuẫn dẫn đến xung đột không nhất thiết phải là mâu thuẫn đối
kháng, không điều hòa được. Bởi lẽ, mỗi con người có một nhân cách riêng,
có nhận thức, quan điểm, thái độ riêng… và nhiều khi đối lập với người khác.
Vì thế trong hoạt động cùng nhau, sự va chạm, bất đồng giữa người này với
người khác là điều khó tránh khỏi. Những xung đột đó thường chỉ là sự khác
biệt về ý kiến, lợi ích và mâu thuẫn dẫn đến xung đột có thể điều hòa được.
1.2.2. Xung đột tâm lý
Xung đột tâm lý nảy sinh vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu
cực. Bởi nếu xung đột được giải quyết hợp lý, triệt để sẽ trở thành động lực
thúc đẩy sự phát triển. Ngược lại, nếu xung đột nảy sinh mà không được giải
quyết triệt để sẽ trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển cho mỗi cá nhân.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm xung đột tâm lý như sau:

17


Xung đột tâm lý là sự va chạm hay đấu tranh giữa những xu hướng
tâm lý khác nhau trong một cơ cấu thống nhất của những cá nhân khác

nhau hay trong bản thân một chủ thể.
Xung đột tâm lý gây ra sự xa cách, khó khăn, không cởi mở trong
quan hệ giữa con người với con người nói chung. Đối với học sinh THPT,
xung đột tâm lý với cha mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý – nhân
cách của các em, khiến thanh niên thu mình hoặc dễ có sự gây hấn trong
quan hệ với người xung quanh, làm cho quá trình xã hội hóa của các em diễn
ra khó khăn hơn.
1.3. Bản chất, cơ chế, mức độ và các loại xung đột tâm lý
1.3.1. Bản chất của xung đột tâm lý
Mọi người đều biết rằng để tồn tại và phát triển thì mỗi nhóm nhỏ trong
xã hội đều phải tạo thành một hệ thống cấu trúc ổn định, có tính chất cân bằng
tương đối. Đó có thể là một sự phát triển tự nhiên mang tính chất cố hữu của
một cơ thể sống, nhưng cũng có thể là một sản phẩm xã hội được tạo nên theo
mô hình nhất định nào đó. Do ảnh hưởng của những nguyên nhân khách quan
và chủ quan đã dẫn tới sự phá vỡ trạng thái cân bằng của nhóm, làm thay đổi
cấu trúc của nhóm. Yếu tố này được coi như động lực, làm xuất hiện sự căng
thẳng hoặc một chuỗi căng thẳng, dẫn tới việc tìm kiếm sự cân bằng mới, tức
là làm thay đổi tổ chức của nhóm.
Cuộc sống của nhóm biểu hiện qua quá trình lần lượt thay đổi các trạng
thái cân bằng và phá hủy sự cân bằng đó. Trong nhóm thường tồn tại hai lực
đối lập nhau: các lực của sự nhất trí có xu hướng giữ lại cấu trúc nhóm và các
lực của sự phân hóa, có chiều hướng muốn thay đổi cấu trúc đó. Sự cân bằng
của nhóm tồn tại trong trường hợp nếu các lực nhất trí của nhóm chiến thắng
các lực phân hóa. Từ đó ta thấy rằng xung đột là một quá trình có tính khách
quan trong sự phát triển của nhóm. Đó là trạng thái thay đổi căn bản, gây xáo

18


trộn về tổ chức đối với sự cân bằng tồn tại trước đó. Nhóm thay đổi lại cấu trúc

của mình khi trải qua xung đột. Xung đột nhóm là động lực, là nguyên nhân
dẫn đến sự thay đổi cấu trúc nhóm. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là xung đột đó
thể hiện ở mức độ nào, ảnh hưởng đến hoạt động của nhóm ra sao.
Bản chất của xung đột tâm lý ở học sinh THPT với cha mẹ cũng giống
như bản chất của sự XĐTL trong nhóm nói chung và ở các độ tuổi khác nói
chung. Đó là quá trình làm thay đổi trạng thái căn bản, gây xáo trộn về tổ
chức đối với sự cân bằng tồn tại trước đó trong cấu trúc tâm lý bên trong
nhóm và của chính các em, xung đột được giải quyết sẽ là động lực cho sự
phát triển tâm lý của các em.
1.3.2. Cơ chế của hiện tượng xung đột tâm lý
Xung đột có thể xảy ra bên trong mỗi cá nhân hoặc xảy ra giữa các cá
nhân với cá nhân trong các hoạt động cùng nhau. Không phải xung đột nào cũng
giống nhau, mỗi kiểu xung đột đều có cơ chế riêng và biểu hiện rất khác nhau.
- Trước hết chúng ta đề cập đến cơ chế của các xung đột tâm lý bên
trong nhân cách hay còn gọi là xung đột nội tâm
Trong học thuyết phân tâm của mình S.Freud đã lý giải rằng: những
mâu thuẫn nội tâm không được giải tỏa bị dồn nén, ức chế dần dần tích tụ lại
đến một lúc nào đó, khi tới ngưỡng giới hạn của sự chịu đựng sẽ “ bùng nổ”,
tạo thành xung đột.
Chúng ta biết rằng, con người không ít lần né tránh sự thật về mình,
phản ứng bằng cơ chế tự vệ, cố gắng đối phó với các vấn đề của cuộc sống
bằng cách tránh né, đau khổ, bực tức, lo âu dẫn đến tự lừa dối mình, chối bỏ
thực tế. Con người né tránh thực tế không vui bằng cách lờ chúng đi, chỉ thấy
cái chúng ta muốn thấy, thay vì công nhận thực tế vốn có của nó. Điều nguy
hại là những mâu thuẫn nội tâm tích tụ dần dần, sức chịu đựng cạn kiệt, con
người có thể bất ngờ bùng nổ với đầy tính gây hấn. Sau đó lại day dứt, mặc

19



cảm, tội lỗi, thậm chí là buông xuôi, muốn tự hủy hoại, có khuynh hướng trầm
cảm… Nói cách khác, xung đột nội tâm giống như một cái lò xo bị dồn nén,
chỉ cần một tác động ngoại lực rất nhỏ bỗng bất ngờ bật tung ra với đầy đủ sức
mạnh vốn có của nó. Hai phản ứng đặc trưng của xung đột nội tâm đó là gây
hấn và trầm uất. Xung đột nội tâm thường là căn nguyên của bệnh tâm thần.
Qua cơ chế này chúng ta phần nào có thể lý giải được các hiện tượng
xung đột nói chung và xung đột tâm lý ở học sinh THPT trong quan hệ với
cha mẹ nói riêng. Tuy nhiên xung đột tâm lý ở học sinh THPT trong quan hệ
với cha mẹ là một loại xung đột liên nhân cách, vì thế nếu chỉ dựa vào cơ chế
của các xung đột nội tâm mà giải thích hiện tượng này thì chưa đủ.
- Cơ chế xung đột tâm lý liên nhân cách:
Quan hệ liên nhân cách được hiểu là những mối quan hệ về mặt tâm lý
– xã hội giữa các chủ thể trong một nhóm xã hội xác định. Cá mối quan hệ
này sẽ được thực hiện trên cơ sở của những cái chung về nhận thức, đồng cảm
và sự đồng nhất tâm trạng ở mức độ nhất định giữa mọi người.
Theo hai nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ, đó là|: Hay và Shantz thì
xung đột liên nhân cách là xung đột bắt đầu từ sự đối lập công khai giữa các
cá nhân và kéo dài cho đến khi sự đối lập này chấm dứt. Có thể hiểu cơ chế
của xung đột liên nhân cách là: Do sự khác nhau về nhu cầu của cá nhân, về
sự hiểu biết, định hướng giá trị, quan điểm sống giữa các cá nhân với cá nhân.
Những mâu thuẫn này ban đầu có thể gây ra những tâm trạng khó chịu, bực
bội…… cho các cá nhân.
1.3.3. Phân loại xung đột tâm lý
Trong thực tế cuộc sống, có rất nhiều loại XĐTL và mỗi loại có những
đặc điểm đặc trưng riêng cần phải quan tâm trong quá trình nghiên cứu.
Chính vì vậy việc phân loại XĐTL đã được các nhà TLH quan tâm từ lâu.
Người ta có thể căn cứ vào chủ thể, quy mô XĐ, mức độ XĐ, nguyên nhân

20



×