Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

GIảI PHÁP PHÁT TRIểN NGHIỆP vụ THỊ TRƯỞNG mở tại NGÂN HÀNG NHÀ nước lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.73 KB, 105 trang )

1
1
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

THONGDY PANYASITH

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỞNG MỞ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2016
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


2
2
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

THONGDY PANYASITH


GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỞNG MỞ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC LÀO

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TÔ KIM NGỌC

HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN


3
3

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

2015
Tác giả luận văn

năm



4
4
MỤC LỤC


5
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
NHNN
OMO
KT
NH
DN
NHTM
CHDCND
CSTT
NHTW
DTBB
TCTD
LAK
LSCB
NSNN
TTTT
GTCG
TTM

Nguyên nghĩa
Ngân hàng nhà nước
Nghiệp vụ thị trường mở

Kinh tế
Ngân hàng
Doanh nghiệp
Ngân hàng thương mại
Cộng hòa dân chủ nhân dân
Chính sách tiền tệ
Ngân hàng trung ương
Dự trữ bắt buộc
Tổ chức tín dụng
Lào kíp
Lãi suất cơ bản
Ngân sách nhà nước
Thị trường tiền tệ
Giấy tờ có giá
Thị trường mở


6
6
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Bảng cân đối tiền tệ tóm tắt của ngân hàng trung ương
Bảng 1.2. Số lượng thành viên tham gia OMO từ năm 2000 đến 2014
Bảng 1.3. Số lượng các phiên giao địch OMO và định kỳ giao dịch từ tháng
7/2000 đến tháng 12/2014
Bảng 2.1: Số lượng các phiên giao dịch và định kỳ giao dịch trên thị trường
mở từ năm 2010-2014
Bảng 2.2: Mối quan hệ các loại lãi suất từ năm 2010-2014
Bảng 2.3: Tần suất giao dịch trên OMO
Bảng 2.4: Số lượng thành viên tham gia OMO từ năm 2010-2014
Bảng 2.5: Tín phiếu kho bạc

Bảng 2.6: Tín phiếu ngân hàng Nhà nước
Bảng 2.8: Khối lượng trái phiếu chính phủ (2010 - 2014)
Bảng 2.9: Tỷ lệ % doanh số giao dịch từng loại hàng hoá nghiệp vụ thị
trường mở
Bảng 2.10: Phương thức đấu thầu và xét thầu trên thị trường
Bảng 2.11. Phương thức giao dịch trên thị trường


7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
OMO là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ quan trọng được
Ngân hàng Nhà nước tại các quốc gia sử dụng. Thông qua hoạt động mua bán
giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ
chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi
suất thị trường. Với nghiệp vụ này, khi các tổ chức tín dụng thiếu vốn, NHNN sẽ
đưa tiền ra để mua các giấy tờ có giá (tín phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc,…)
do các tổ chức tín dụng nắm giữ. Ngược lại, khi các tổ chức tín dụng thừa vốn,
NHNN bán ra các giấy tờ có giá để rút tiền về. OMO là thị trường tiền tệ thứ
cấp, nhằm bảo đảm hỗ trợ khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng và điều
tiết thị trường tiền tệ, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
Với vai trò là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, Ngân hàng
Nhà nước Lào có nghiệm vụ xây dựng thực hiện chính sách tiền tệ, trong đó,
một trong những công cụ hữu hiệu để điều hành chính sách tiền tệ là thông
qua OMO. Tuy nhiên, thời gian qua, hoạt động phát triển OMO tại Ngân hàng
Nhà nước Lào có nhiều hạn chế và bất cập. Xuất phát từ điều đó, tác giả
chọn: “Giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trưởng mở tại Ngân hàng Nhà
nước Lào” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động phát triển nghiệp vụ thị
trưởng mở của Ngân hàng Nhà nước Lào
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là phân tích thực trạng phát triển OMO tại Ngân
hàng Nhà nước Lào để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm góp phần phát triển
OMO trong thời gian tới
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những cơ bản về chính sách tiền tệ, công cụ chính sách


8
tiền tệ và OMO của Ngân hàng nhà nước.
- Phân tích thực trạng phát triển OMO tại Ngân hàng Nhà nước Lào
giai đoạn 2011 – 2014, từ đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế, dựa trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể để phát
triển nghiệp vụ thị trườn mở
- Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp để phát triển OMO tại
Ngân hàng nhà nước Lào trong thời gian tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Ngân hàng Nhà nước Lào
- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2011 - 2014
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm
cơ sở phương pháp luận. Sử dụng phương pháp phân tích thống kê kinh tế,
tổng hợp và tư duy loogic để làm rõ nội dung nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
7. Các đề tài nghiên cứu liên quan
- Đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu lực công cụ chính sách tiền tệ sử dụng
các nghiệp vụ thị trường tại Việt Nam” của Nguyễn Khắc Việt Trung, 2010.
- Đề tài “Hoàn thiện OMO trong điều kiện hội nhập quốc tế tại Việt
nam” của Trịnh Quốc Hùng, 2009

- Đề án: “OMO của Ngân hàng Trung Ương Việt Nam” của Lê Bích
Yên, 2012.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1 Nghiệp vụ thị trường mở và điều kiện phát triển Nghiệp
vụ thị trường mở của ngân hàng Trung ương
Chương 2: Thực trạng phát triển Nghiệp vụ thị trường mở tại ngân
hàng Nhà nước Lào trong giai đoạn 2011 – 2014
Chương 3: Giải pháp phát triển Nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân
hàng nhà nước Lào trong thời gian tới


9
CHƯƠNG 1
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG NGHIỆP VỤ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ
1.1.1. Khái niệm và vai trò của nghiệp vụ thị trường mở (với tư cách là
công cụ Chính sách tiền tệ chủ yếu của Ngân hàng Trung ương)
1.1.1.1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Theo các hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ nghiệp vụ thị
trường mở” là hoạt động mua bán giấy tờ có giá giữa Ngân hàng Trung ương
với các đối tác được lựa chọn để qua đó tác động tới lãi suất của thị trường
hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có thể ảnh hưởng tới các điều kiện tiền
tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. [15]
Nghiệp vụ nghiệp vụ thị trường mở (OMO) được ngân hàng Anh áp
dụng đầu tiên từ năm 1914 trong nỗ lực tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để
điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.
OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang

được các nước trên thế gới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến
nhưng việc đưa ra một khái niệm chung là không thống nhất. sự không thống
nhất này thể hiện ở sự khác nhau về hàng hóa giao dịch các đối tác tham gia
thị trường và các loại giao dịch trên thị trường.
Các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ bao gồm: tín phiếu kho
bạc, tín phiếu ngân hàng, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, các khoản vay
giữa ngân hàng,... chúng có độ rủi ro thấp, tính lỏng cao và được giao dịch
với thời hạn từ 1 năm trở xuống cho đến qua đêm (cũng có nước quy định tới
2-3 năm trở xuống, nhưng phổ biến là dưới một năm) và nó luôn đổi mới với
những công cụ nợ ngắn hạn mới, có hiệu quả. Các chủ thể của OMO là


10
NHTW và các đối tác chủ yếu là các ngân hàng, và có thể là các tổ chức tài
chính phi ngân hàng và doanh nghiệp.
Xét về mặt hình thức, OMO là thị trường giao dịch các chứng khoán nợ
cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm vi và loại
hình công cụ rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, OMO
ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm vi loại hình công cụ và thời hạn
của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với một số nước, hàng hóa giao
dịch trên OMO chỉ gồm các GTCG ngắn hạn và đối tác tham gia chỉ là các
TCTD.Khi đó, OMO là một bộ phần của thị trường tiền tệ.Đ ối với các nước
khác như Mỹ, Đức thì các GTCG dài hạn cũng có thể giao dịch, khi đó OMO
bAO gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Điều đó có nghĩa là các
giới hạn, quy định khác nhau về hàng hóa và đối tác tham gia OMO của
NHTW sẽ quyết định phạm vi cụ thể về OMO ở từng nước.
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá.Ngân hàng trung ương tác
động trực tiếp đến dự trữ hệ thống các tổ chức tín dụng và tác động gián tiếp
đến lãi suất thị trường.Như vậy ngân hàng trung ương có thể tác động đến
hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng cả về mặt số lượng và về giá.Khi

ngân hàng trung ương mua giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở làm
tăng dự trữ của ngân hàng, từ đó làm tăng tiền cơ sở và tăng tiền cung ứng.
Ngược lại, khi ngân hàng trung ương bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị
trường mở làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng và đồng thời cũng làm
giảm tiền cơ bản và giảm tiền cung ứng, các giấy tờ có giá thường giao dịch
ngắn hạn trên thị trường là giấy tờ có giá ngắn và dài hạn như trái phiếu kho
bạc, trái phiếu chính phủ, tín phiếu, trái phiếu ngân hàng .v.v.. tổ chức tham
gia giao dịch OMO trước hết là ngân hàng trung ương và các đối tác chủ yếu
là ngân hàng và có thể là các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
1.1.1.2. Vai trò của OMO
a. Đối với ngân hàng trung ương
- Ổn định giá trị đồng tiền: NHTW đã xây dựng và thực thi các công


11
cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị
trường. Trong đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại
nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất
trên thị trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại OMO, NHTW
có thể mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân
hàng và tác động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ,lượng tiền cung ứng.
Như vậy, OMO đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ
mang tính trực tiếp trong điều hành CSTT.
- Điều tiết vốn khả dụng: thông qua mua bán GTCG trên OMO, NHTW
còn cấp tín hiệu cho thị trường về định hướng điều hành CSTT trong tương
lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc biệt khi thực hiện OMO thường xuyên và
hiệu quả, lãi suất OMO có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ
đạo lãi suất thị trường và qua đó NHTW có thể hạn chế những biến động của
lãi suất thị trường.
b. Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương

- Quản lý nguồn vốn: Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong
cơ chế thị trường ngày càng đa dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng
vốn khả dụng cần phảichủ động và linh hoạt hơn. Hiện nay trong cơ cấu
nguồn vốn của các ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn với thời
gian dưới 12 tháng thường chiếm tỷ rọng từ 60-70%. Vì vậy, vấn đề cấp bách
hiện nay đối với các ngân hàng là làm thế nào để sử dụng vốn linh hoạt
hiệu quả và giải quyết được khó khăn tạm thời về vốn khả dụng trong thời
gian ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng tín dụng.
- Sử dụng nguồn vốn: OMO là nơi các đối tác của NHTW được chủ
động tham gia mua bán GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị
trường. Các thành viên tham gia OMO thường là các đối tác có độ tin cậy


12
cao,nên việc mua bán GTCG trên OMO có độ an toàn rất cao. Bên cạnh đó,
những điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được giao dịch trong
OMO sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG của các ngân hàng,
từ đó cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, làm
giảm dự trữ không sinh lợi và cải thiện bảng tổng kết tài sản của ngân hàng.
Ngoài ra, OMO góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của
các TCTD. Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh truyền thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ … mà còn sử dụng một
nguồn vốn nhất định để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các
GTCG. OMO cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh giữa các
thành viên tham gia thị trường.
OMO do các ngân hàng tự nguyện tham gia thực hiện theo các nguyên
tắc thị trường, không mang tính chất bắt buộc như DTBB và cũng không có
tác động như một hình thức "đánh thuế" đối với hoạt động của các ngân hàng
như DTBB. Lãi suất trên OMO cũng mang tính chất thị trường chứ không bị

áp đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của NHTW.
Như vậy, OMO tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp
vụ kinh doanh của các ngân hàng.
c. Đối với nền kinh tế
- Điều tiết các giao dịch :Thông qua việc phát hành, mua bán GTCG
trên OMO, các chủ thể của OMO đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho
các GTCG này. Điều này góp phần thúc đẩy các thị trường tài chính phát
triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các trung gian tài chính thu hút vốn trong nền
kinh tế và thay đổi thói quen tiết kiệm, tiêu dùng của các hộ gia đình trong
nền kinh tế.
- Gắn kết thị trường liên ngân hàng :OMO có sự gắn kết chặt chẽ với


13
các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường nội tệ liên ngân hàng. Sự phát
triển của OMO tác động mạnh đến sự hoàn thiện và phát triển của thị trường
liên ngân hàng. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của WTO và
đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam phải thực hiện các cam kết
yêu cầu của các tổ chức tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế hay các quốc
gia phát triển, trong đó có yêu cầu về cải cách hệ thống ngân hàng và nâng
cao tính minh bạch trong các hoạt động của NHTW. Tại các quốc gia phát
triển hay các quốc gia trong khu vực Đông Nam á đều sử dụng OMO trong
điều hành CSTT để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, việc
sử dụng OMO là một điều kiện cần thiết để hội nhập nền kinh tế vào khu vực
và thế giới.
1.1.2. Nội dung nghiệp vụ thị trường mở
1.1.2.1.Chủ thể tham gia OMO
OMO là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường
rất đa dạng và tham gia với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà

đầu tư đều có thể là đối tác giao dịch với NHTW trong các giao dịch OMO
nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể của NHTW ở các nước.
- Ngân hàng thương mại
Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia OMO của NHTW và là
đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu
quả. NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng,
gắn kết thành hệ thống qua trung tâm thanh toán nên mỗi sự thay đổi dự trữ
của các NHTM sẽ gây ảnh hưởng nhiều chiều tới cung ứng tiền tệ. Các
NHTM tham gia thị trường nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả
năng thanh toán và cho vay những khoản vốn dư thừa nhằm tăng thu nhập.
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm,


14
công ty tài chính, quỹ đầu tư…Mục đích của các tổ chức này khi tham gia
OMO là kiếm thu nhập. Các tổ chức này sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán
các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ dài hạn.Để đạt được mục tiêu đó, các
tổ chức này thường sở hữu khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên
thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi
ro dự tính thấp nhất.
- Các doanh nghiệp phi tài chính và dân cư
Ở một số quốc gia, thành viên của OMO có thể bao gồm cả các doanh
nghiệp lớn.Các doanh nghiệp này nắm giữ chứng khoán như tín phiếu, trái
phiếu Chính Phủ. Khi họ có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hoặc
kinh doanh kiếm lời trong thời gian ngắn. Ngược lại, các doanh nghiệp có thể
mua các loại chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi,….
Hộ gia đình tham gia OMOkhi họ có nhu cầu thanh toán tiền
hàng(chuyển các giấy tờ có giá ngắn hạn thành tiền mặt), phòng ngừa rủi ro

bất ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự đoán.
- Các nhà giao dịch chuyên nghiệp
Đây là những người trung gian trong việc mua bán các chứng từ có giá trị
giữa NHTW và các đối tác khác nhằm hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung
gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác.Các nhà
giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính.
Đối với những nước hoạt động OMO chưa phát triển thì chưa có sự tham gia
của các nhà giao dịch trung gian.
Các thành viên tham gia trên OMO phải đáp ứng đủ điều kiện quy định
của NHTW như: Có tiền gửi tại NHTW; có mạng kết nối với NHTW để
thực hiện giao dịch.


15
- Ngân hàng trung ương
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của OMO theo
các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọnsử dụng các loại OMO
và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán
các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả
năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu
CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực
hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ
phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia OMO không phải vì mục tiêu kinh doanh
mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện
theo các mục tiêu xác định của nó.
- Kho bạc nhà nước
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho OMO như tín phiếu, trái
phiếu kho bạc.Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt

động của OMO.
1.1.2.2.Công cụ của OMO
- Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu
hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12
tháng. Đây là công cụ chủ yếu của OMO của hầu hết NHTW các nước vì:
Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn
nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối
lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu.Tín phiếu kho bạc được
phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.


16
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn
của chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
- Tín phiếu ngân hàng nhà nước
Tín phiếu NHNN là công cụ điều tiết tiền tệ thường sử dụng trong
trường hợp cấp bách nhằm vào mục tiêu ngắn hạn.
Về bản chất, tín phiếu NHNN là một trong những công cụ điều tiết
lượng cung tiền của NHNN với cơ chế tương tự như công cụ trái phiếu chính
phủ (TPCP) song lại có thời hạn dưới 1 năm tương tự như tín phiếu Kho bạc
Nhà nước (KBNN).
Về mục đích sử dụng, NHNN phát hành tín phiếu để thu hút tiền về,
giảm lượng tiền trên thị trường để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm
chống lạm phát hay ngược lại, NHNN mua vào tín phiếu để tăng lượng cung
tiền, nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng khi nguy cơ lạm
phát cao không còn hoặc ít nhất là đã giảm.
Đối tượng nắm giữ tín phiếu NHNN thường khó có thể sử dụng tín

phiếu NHNN để cầm cố, mua, bán trên OMO (OMO) mà thường buộc phải
giữ lại đến khi đáo hạn để hưởng một mức lãi suất nhất định.
- Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một
thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ
tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự
thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản
nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ
động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt
của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do đó nó
được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho OMO.


17
- Các loại giấy tờ ngắn hạn khác
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất
định.Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung
vốn ngắn hạn.Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối
với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho
thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong
thanh toán.Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ
của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát
hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái
phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong OMO bởi tính an toàn, khối
lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp
đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
Trái phiếu chính quyền điạ phương. Tương tự như trái phiếu chính phủ,

những trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện
ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính
quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
Các hợp đồng mua lại. Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín
phiếu kho bạc được sử dụng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay
nhận được nếu người đi vay không thanh toán nợ.
1.1.2.3. Căn cứ xác định quy mô và chiều hướng giao dịch OMO của
NHTW (căn cứ vào dự báo cung cầu vốn khả dụng)
Với vai trò tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động OMO, trên
cơ sở dự báo các diễn biến tiền tệ, tình hình vốn khả dụng của hệ thống ngân
hàng, NHTW quyết định thời điểm, khối lượng chào mua-bán GTCG, thời
hạn và phương thức giao dịch OMO nhằm điều tiết thị trường tiền tệ theo
mục tiêu đã xác định.


18
Khi dự báo vốn khả dụng dư thừa trong ngắn hạn, NHTW sẽ thực hiện
các phiên chào bán GTCG hoặc phát hành tín phiếu NHTW nhằm thu hút và
hấp thụ vốn khả dụng dư thừa của hệ thống ngân hàng. Trường hợp dự báo
vốn khả dụng thiết hụt thì NHTW sẽ thực hiện chào mua GTCG hoặc chứng
chỉ tiền gửi để cung ứng vốn cho hệ thống ngân hàng.
Để dự báo Vốn khả dụng có thể sử dụng các phương pháp tiếp cận khác
nhau. Có thể tiếp cận bằng cách tổng hợp Vốn khả dụng của các tổ chức tín
dung (TCTD), có thể tiếp cận qua các nhân tố ảnh hưởng thể hiện trên bảng
cân đối tiền tệ của ngân hàngtrung ương.
* Dự báo trên cơ sở phương pháp tiếp cận bảng cân đối tiền tệ của
ngân hàng trung ương
Phương pháp tiếp cận bảng cân đối (BCĐ) tiền tệ của ngân hàng trung
ương cho phép ngân hàng trung ương sử dụng số liệu của các khoản mục trên
BCĐ để dự báo trạng thái Vốn khả dụng. Sự thay đổi của mỗi nhân tố trên

BCĐ sẽ ảnh hưởng tới trạng thái Vốn khả dụng của toàn hệ thống NH.
Bảng 1.1: Bảng cân đối tiền tệ tóm tắt của ngân hàng trung ương
Tài sản Có
+ Tài sản có ngoại tệ ròng
+ Cho vay Chính phủ ròng
+ Cho vay Chính phủ ròng
+ Cho vay các TCTD
+ Các khoản khác ròng
Bảng 1.1 cho thấy:

Tài sản Nợ
+ Tiền mặt trong lưu thông
+ Tiền gửi dự trữ

Tiền dự trữ của các TCTD = Tổng Tài sản Có - tiền mặt trong lưu thông
Tiền dự trữ của TCTD gửi tại ngân hàng trung ương là phần cung Vốn
khả dụng, là số tiền các TCTD có thể sử dụng để trang trải nghĩa vụ tài chính.
Nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: Tài sản có ngoại tệ ròng, cho vay Chính phủ
ròng, tiền trong lưu thông, cho vay các ngân hàng và các khoản mục khác
ròng. Trong đó, các hình thức tái cấp vốn hay thông qua OMO đều là các


19
kênh chịu sự quản lý của các nhà điều hành tiền tệ, được tập trung trong nhóm
“cho vay TCTD” là yếu tố cung Vốn khả dụng mang tính chính sách. Các yếu
tố còn lại biến động không phụ thuộc vào ý trí của ngân hàng trung ương, gọi
là cung Vốn khả dụng tự định.
Cung Vốn khả dụng có thể thiết lập từ bảng cân đối ngân hàng trung
ương như sau:
Cung Vốn khả dụng = (Tài sản có ngoại tệ ròng + cho vay Chính phủ

ròng + các khoản mục khác ròng – tiền mặt trong lưu thông) + cho vay các
TCTD từ ngân hàng trung ương
Hoặc Cung Vốn khả dụng = Cung Vốn khả dụng tự định + cung Vốn
khả dụng theo chính sách
Cầu về Vốn khả dụng gồm cầu về dự trữ đáp ứng yêu cầu DTBB theo
quy định của ngân hàng trung ương và dự trữ vượt đảm bảo khả năng thanh
toán, chi trả.
Cầu về Vốn khả dụng = DTBB + dự trữ để thanh toán
* Dự báo theo cách tiếp cận từ các TCTD
Đây là phương pháp dự báo dựa vào số liệu báo cáo của các TCTD và
ngân hàng trung ương tổng hợp trạng thái Vốn khả dụng của toàn thị trường ở
thời điểm quản lí. Hơn hết, các TCTD luôn nắm rõ trạng thái Vốn khả dụng
hàng ngày và ở một số thời kì nhất định để luôn thỏa mãn đầy đủ yêu cầu
thanh toán và nghĩa vụ tài chính hàng ngày của bản thân từng TCTD. Vì vậy,
dựa vào phương pháp này sẽ cho NHTW có kết quả dự báo sát nhất với thực
trạng Vốn khả dụng của hệ thống. Có thể dự báo Vốn khả dụng theo nguyên
tắc phân tích luồng tiền của các TCTD: bao gồm theo dõi, phân tích theo thời
hạn còn lại của các khoản mục tài sản Có và tài sản
Nợ trên bảng cân đối của TCTD trên cơ sở hợp đồng và dự báo các khoản
phát sinh bên tài sản Có và tài sản Nợ.


20
Vị thế luồng tiền ròng chính là chênh lệch giữa tổng các khoản tiền vào
và tổng các luồng tiền ra trong một thời kỳ nhất định.
Vị thế luồng tiền ròng = Tổng các luồng tiền vào – tổng các luồng tiền ra
1.1.2.4.Các phương thức giao dịch OMO
* Phương thức giao dịch song phương:
Là giao dịch được thực hiện trực tiếp giữa NHTW với một hoặc một số
đối tác được lựa chọn mà không thông qua thủ tục đấu thầu. Giao dịch song

phương có thể thực hiện bằng hai cách: (1) Giao dịch trực tiếp giữa NHTW
với các đối tác; (2) giao dịch thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán
hoặc các đại lý giao dịch trên thị trường. Đối với các giao dịch này, các đối
tác không bị giới hạn và thủ tục giao dịch các chứng khoán được điều chỉnh
theo tập quán thị trường.
Thông thường các giao dịch song phương không được thông báo rộng
rãi ra công chúng và ngày can thiệp tuỳ thuộc vào quyết định của NHTW.
* Phương thức đấu thầu:
- Đấu thầu khối lượng:
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất đượcNHTW
công bố trước.NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng
phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện.NHTW công bố điều
kiện đặt thầu để các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận
mức lãi suất đã xác định trước.Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá
trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặtthầu.
Việc phân bổ thầu được thực hiện như sau: Toàn bộ số lượng đăng ký
dự thầu được cộng lại với nhau.Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc
bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu đều
được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn
khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng


21
thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên
đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân bổ như sau:
Tỷ lệ % phân bổ thầu:
A: Là khối lượng NHTW chào mua/chàobán
n: Là tổng số thành viên tham gia dự thầu
bi: Là khối lượng đặt thầu của thành viên thứi
k: Là tỷ lệ phân bổthầu

Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên
thứ i (Wi) được xác định như: Wi = k ×bi
- Đấu thầu lãi suất:
NHTW cho phép các thành viên tham gia mua hoặc bán GTCG được
quyền đưa ra các mức lãi suất với khối lượng tương ứng theo thông báo của
NHTW. Căn cứ vào đó, NHTW sẽ xác định khối lượng trúng thầu với lãi suất
trúng thầu sao cho với lãi suất đó sẽ đảm bảo khối lượng giao dịch mua hoặc
bán phù hợp với yêu cầu của NHTW trong từng thời điểm cụ thể. Trong đấu
thấu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức của
Hà Lan) hoặc phương thức nhiều giá (phương thức của Mỹ).
Theo phương thức của Mỹ:
(1) Trường hợp NHTW cần bơm thêm lượng tiền cung ứng vào
lưuthông, NHTW mua GTCG mà thành viên tham gia dự thầu đặt bán thì
khối lượng trúng thầu sẽ được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống
thấp - mua với giá càng rẻ càng tốt. Do đó, lãi suất trúng thầu sẽ là lãi suất
thấp nhất mà với mức lãi suất đó, NHTW sẽ đạt khối lượng GTCG cần mua.
Các mức lãi suất đặt thầu bằng hoặc lớn hơn lãi suất trúng thầu đều được đáp
ứng.Khối lượng trúng thầu của các thành viên tham gia là khối lượng dự thầu
có lãi suất bằng hoặc lớn hơn lãi suất trúng thầu.


22
Lãi suất trúng thầu riêng lẻ Lãi suất trúng thầu
(2) Ngược lại, khi NHTW cần giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, NHTW
bán GTCG thì khối lượng trúng thầu sẽ được phân phối cho các thành viên tham
gia dự thầu theo các mức lãi suất từ thấp đến cao - bán với giá càng cao càng tốt.
Như vậy, lãi suất trúng thầu chính là lãi suất cao nhất mà tại mức lãi suất đó
NHTW đạt được khối lượng chứng từ có giá NHTW cần bán ra.Các mức lãi suất
đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng mức lãi suất trúng thầu đều được đáp ứng. Do vậy,
khối lượng trúng thầu của các thành viên tham gia dự thầu sẽ là khối lượng của

các mức dự thầu có lãi suất bằng hoặc thấp hơn lãi suất trúng thầu.
Lãi suất trúng thầu riêng lẻLãi suất trúng thầu
Khi khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng được phân phối thì
quá trình phân bổ được tiến hành như sau:
: Mức lãi suất thứ t được đăng ký
B(rt)i: Khối lượng tiền dự thầu ứng với mức lãi suất rt của thành viên i
B(re): Tổng số tiền đặt thầu với mức lãi suất rt của tất cả các thành viên
dự thầu
Re: Mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận
Đối với đầu thầu nhằm bơm thêm vốn khả dụng thì rl >rt< re
Tỷ lệ % trúng thầu được phân phối tại mức lãi suất cuối cùng K (re)
K(re) =
Lượng trúng thầu được phân phối cho thành viên i tại mức lãi suất re.
W (re) = K (re) × b (re)
1.2. ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
1.2.1. Điều kiện về công cụ của nghiệp vụ thị trưởng mở
Các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường phải đảm bảo các
điều kiện sau:
- Tính đa dạng về công cụ của OMO: Để tham gia thị trường mở, nhất
là khi cần bổ sung nguồn vốn, các ngân hàng phải nắm giữ một lượng hàng


23
hoá nhất định về cả khối lượng và chủng loại phù hợp với điều kiện và nhu
cầu giao dịch của NHTW. Chỉ khi các hàng hoá nắm giữ của ngân hàng phù
hợp với nhu cầu giao dịch của NHTW thì các ngân hàng mới có thể tham gia
giao dịch OMO. Danh mục GTCG được chấp thuận sử dụng trong giao dịch
OMO càng đa dạng thì các ngân hàng cũng có thêm sự lựa chọn trong cơ cấu
đầu tư GTCG nhằm đảm bảo tính thanh khoản và khả năng sinh lợi.
- Các công cụ của OMO thường có thời hạn ngắn: Trên thị trường MO,

các công cụ được giao dịch thường có thời hạn dưới 12 tháng như tiến phiếu
kho bạc, thương phiếu,….Với thời hạn ngắn, các công cụ trên thị trường
thường có tính rủi ro thấp hơn và tính thanh khoản cao hơn.
- Rủi ro thấp: Khi thực hiện giao dịch OMO, NHTW thường yêu cầu sử
dụng các GTCG có độ rủi ro rất thấp. Chính vì vậy, các GTCG do Bộ Tài
chính hay chính NHTW phát hành thường được NHTW ưu tiên chấp thuận.
Các GTCG này thường được nắm giữ bởi các ngân hàng có tiềm lực tài chính
mạnh, quy mô lớn hoặc nguồn vốn dồi dào. Bên cạnh đó, NHTW cũng chấp
thuận các GTCG khác như: GTCG do Chính phủ các nước phát triển phát
hành, GTCG do chính quyền địa phương phát hành hoặc GTCG do các tổ
chức tín dụng, tài chính có độ tín nhiệm cao phát hành.
- Có tính thanh khoản: Các ngân hàng tham gia OMO nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh khoản và mục tiêu lợi nhuận từ việc kinh doanh GTCG. Để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản của mình, các ngân hàng có thể thực hiện việc bán
các GTCG, vay từ các tổ chức tài chính, tín dụng khác trên thị trường vốn
hoặc vay từ NHTW. Do dó, cần thiết các công cụ của OMO phải có tính
thanh khoản mới có thể đáp ứng được nhu cầu của các chủ thể tham gia MO.
1.2.2. Khả năng dự báo cung cầu vốn khả dụng
Việc quyết định thực hiện các phiên giao dịch OMO và kết quả giao
dịch OMO phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của việc dự báo vốn khả


24
dụng của hệ thống ngân hàng.Nếu việc dự báo vốn khả dụng của NHTW phù
hợp với thực tế diễn biến thị trường thì khả năng tham gia phiên giao dịch
OMO của các ngân hàng sẽ cao hơn.Nếu dự báo sai hoặc ngược chiều thì kết
quả giao dịch OMO sẽ rất thấp hoặc không có đối tác nào khác tham gia giao
dịch OMO.
Dự báo vốn khả dụng làm cơ sở để ngân hàng trung ương có thể chủ
động đề ra những giải pháp điều hành CTTT phù hợp, góp phần điều tiết vốn

khả dụng, điều tiết lãi suất trên thị trường theo mục tiêu chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Việc không dự báo được Vốn khả dụng sẽ làm cho ngân
hàng trung ương bị động, lúng túng trong việc lựa chọn hiệu quả giải pháp
điều tiết tiền tệ.
Bản chất của việc dự báo vốn khả dụng ngắn hạn là nhằm cung cấp cho
ngân hàng trung ương các thông tin về xu hướng vốn khả dụng trên thị trường
khi chưa có sự can thiệp của ngân hàng trung ương, qua đó ngân hàng trung
ương luôn sẵn sàng chuẩn bị các giải pháp để điều tiết Vốn khả dụng, đảm
bảo sự cân bằng giữa cung và cầu về vốn khả dụng. Chính vì vậy, dự báo vốn
khả dụng tạo cơ sở để ngân hàng trung ương thực hiện các giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ (CSTT), thông thường là sử dụng OMO để duy trì ổn
định về Vốn khả dụng, điều tiết thị trường tiền tệ theo các mục tiêu chính sách
tiền tệ.
Thông thường, khi cung vốn khả dụng chưa đáp ứng cầu về Vốn khả
dụng, lãi suất ngắn hạn trên thị trường có xu hướng tăng.Ngược lại khi thị
trường dư thừa Vốn khả dụng, lãi suất ngắn hạn trên thị trường sẽ có xu
hướng giảm.Với việc chủ động dự báo được xu hướng vốn khả dụng trên thị
trường, ngân hàng trung ương có thể quyết định lượng vốn khả dụng cần thiết
bơm/hút từ thị trường. ngân hàng trung ương sử dụng các biện pháp, công cụ
CSTT và OMO là công cụ ưu việt nhất để tác động bơm/hút vốn khả dụng,
qua đó làm cho lãi suất thị trường xoay quanh mức lãi suất định hướng của
ngân hàng trung ương. Vì vậy, dự báo vốn khả dụng là khâu đầu tiên và là


25
khâu quyết định hiệu quả của công tác quản lý Vốn khả dụng của ngân hàng
trung ương.
1.2.3. Điều kiện về người tham gia OMO
- Về số lượng người tham gia thị trường:
Về lý thuyết, NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng

bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi thì phải có thành viên tham gia thị trường
MO. Số lượng các thành viên này phải được mở rộng không những chỉ bao
gồm tổ chức tín dụng mà ở một số quốc gia còn bao gồm các tổ chức khác,
thậm chí có thể là các cá nhân, miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi.
- Mức độ tích cực tham gia thị trường của các thành viên. Để thị trường
hoạt động, các thành viên tham gia thị trường phải có nhu cầu mua bán các
giấy tờ có giá.
- Cơ chế quản lý tài khoản: Các tổ chức tín dụng và các đối tượng khác
tham gia mua bán trên thị tường mở cần phải có tiền trên tài khoản tiền gửi tại
NHTW và phải được kết nối mạng với NHTW.
1.2.4. Điều kiện về thị trường tiền tệ liên ngân hàng
OMO là công cụ có tính chất tự nguyện theo các nguyên tắc thị trường,
không có tính chất bắt buộc. Chính vì vậy, hoạt động OMO không chỉ phụ thuộc
vào NHTW mà còn bị chi phối bởi môi trường kinh tế vĩ mô, hành vi của công
chúng, sự tham gia thị trường và nhu cầu giao dịch của các ngân hàng.
Các ngân hàng tham gia OMO nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản và
mục tiêu lợi nhuận từ việc kinh doanh GTCG.Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
của mình, các ngân hàng có thể thực hiện việc bán các GTCG, vay từ các tổ
chức tài chính, tín dụng khác trên thị trường vốn hoặc vay từ NHTW. Việc giao
dịch trên OMO phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân
hàng thông qua thị trường tiền tệ và thường được lựa chọn cuối cùng bởi vì các
lý do phi kinh tế. Khả năng tìm kiếm các nguồn vốn khác của ngân hàng phụ
thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tiền tệ quốc gia.
Chính vì vậy, nếu ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu thanh khoản


×