Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP sài gòn – hà nội (SHB)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.71 KB, 43 trang )

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Chuyên đề









SHB: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
L/C: Thư tín dụng
TDCT: Tín dụng chứng từ
TMCP: Thương mại cổ phần
NHNN: Ngân hàng Nhà Nước
Vietcombank: Ngân hàng Ngoại Thương
UCP: Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ

SWIFT: Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu

Học viện ngân


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá toàn cầu của nhân loại, hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng
mạnh mẽ và trở thành một nhân tố quan trọng đối với mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Là một
nước nằm trong khu vực Đông Nam Á - một khu vực có nền kinh tế sôi động thu hút được nhiều sự quan tâm và đầu
tư nước ngoài, Việt Nam đã không ngừng đổi mới mình để có thể tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế. Trong thời
gian qua, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã được Nhà Nước khuyến khích hoạt động bằng cách đưa ra
các chính sách đúng đắn, ưu đãi để hỗ trợ cho hoạt động của họ. Và thực tế trong thời gian qua, các doanh nghiệp


này đã và đang hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả. Điều này đã đóng góp rất lớn và việc thúc đẩy, phát triển
lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang cố
gắng hoàn thiện và nâng cao các nghiệp vụ thanh toán quốc tế để hỗ trợ và đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của
khách hàng.. SHB – được BNY Mellon trao tặng giải thưởng “Ngân hàng có dịch vụ thanh toán quốc tế tốt nhất Việt
Nam” đã có khá nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế được sử
dụng chủ yếu ở nước ta là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đây là một phương thức thanh toán bảo vệ
quyền lợi bình đẳng của các bên tham gia bởi tính ưu việt của nó. Do vậy, Việt Nam với hoạt động ngoại thương còn
non trẻ thì sử dụng phương thức này sẽ giúp bảo vệ được lợi ích và tránh được những rủi ro trong thương mại quốc
tế. Nhận thức được tính phù hợp và tầm quan trọng của thanh toán tín dụng chứng từ đối với hoạt động xuất nhập
khẩu của nước ta trong giai đoạn hiện nay, nên em chọn đề tài: “Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB)” để phục vụ cho chuyên đề tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng.

Kết cấu của chuyên đề: Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại SHB.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại SHB.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của các giảng viên tại Học viện ngân hàng và sự giúp đỡ tận tình của
các cán bộ tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) trong quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
CỦA NHTM

1.1

Khái quát chung về thanh toán quốc tế

1.1.1

Khái niệm thanh toán quốc tế
Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các quốc gia đều ra sức đẩy mạnh hoạt động thưong mại quốc tế của
nước mình, dẫn đến nhu cầu thanh toán quốc tế ngày càng gia tăng và phát triển.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi
kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với một tổ
chức quốc tế, thường được thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Do đó, phát triển thanh toán quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng hoạt động đối ngoại giữa các nước trong khu
vực và trên thế giới. Khoảng cách xa về địa lý giữa các quốc gia khiến cho phương thức “tay trao tay” khó có thể
thực hiện được giữa các bên xuất nhập khẩu trong quan hệ ngoại thương mà cần phải có một trung gian đứng ra thay
mặt cho mỗi bên thực hiện việc thanh toán và sẽ được hưởng phí. Trung gian đó chính là các ngân hàng thương mại.
Ngoài việc đảm nhận nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng còn là người tư vấn, hướng dẫn và giải quyết các
vướng mắc trong thanh toán cho khách hàng, đồng thời đảm bảo cho việc thanh toán diễn ra nhanh gọn, tốn ít thời
gian và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.2
Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Trong thưong mại quốc tế, phưong thức thanh toán có một vị trí quan trọng. Bởi nó là cơ sở để duy trì và phát
triển quan hệ buôn bán quốc tế giữa các nước. Và đặc biệt việc sử dụng phương thức thanh toán quốc tế nào sẽ quyết
định đến hiệu quả cũng như rủi ro mà các bên phải chịu. Trên thực tế có nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác
nhau như phương thức ghi sổ, chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ... Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là
phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa người mua và người bán, đặc điểm hàng hoá cũng như sự biến động giá cả hàng
hoá trên thị trường.
1.1.2.1 Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remỉttance)
Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân
hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định
thông qua một phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu hoặc bằng điện (T/T) hoặc bằng (M/T).
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán quốc tế đơn giản nhất về thủ tục và thực hiện nhanh chóng. Nó
được áp dụng rất phổ biến ở các nước phát triển bởi các ưu điểm: đơn giản, thuận lợi,, chi phí giao dịch thấp. Nhưng
phương thức này chỉ được sử dụng khi các bên trong quan hệ mua bán có sự tin cậy lẫn nhau.
1.1.2.2 Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment)



Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc
cung ứng dịch vụ cho khách hàng (người nhập khẩu), uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người
nhập khẩu trên cơ sở tờ hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Có hai loại nhờ thu: nhờ thu trơn (clean collection) và
nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection)
Phương thức thanh toán Nhờ thu (collection payment) hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của các bên xuất, nhập
khẩu. Thông thường người xuất khẩu không có lợi nhiều, bởi vì việc thanh toán phụ thuộc vào người nhập khẩu.
Ngân hàng chỉ thực hiện theo đúng chỉ thị trong nhờ thu của người xuất khẩu, không chịu trách nhiệm về thanh toán
tiền hàng.
1.1.2.3.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Letter of Credit)
Nếu như hai phương thức chuyển tiền và nhờ thu chỉ có thể được đảm bảo thực hiện khi và chỉ khi các bên tham gia
tín nhiệm nhau, thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vẫn có thể đảm bảo quyền lợi cho các bên ngay cả
trong trường hợp các bên mới giao dịch lần đầu và chưa tin tưởng lẫn nhau. Chính vì vậy mà theo đánh giá của các
nhà chuyên môn thì đây là phương thức thanh toán thông dụng nhất, an toàn nhất trong thanh toán quốc tế. Sở dĩ như
vậy là vì thanh toán theo phương thức này có hiệu quả cao hơn do những quy định chặt chẽ trong quy trình thanh
toán làm cho quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng mua bán được thể hiện một cách bình đẳng,
đồng thời sự tham gia của các ngân hàng giúp cho hai bên xuất nhập khẩu được bảo vệ khỏi những rủi ro có thể xảy
ra. Hiện nay ở Việt Nam và các nước đang phát triển, tỷ trọng thanh toán bằng L/C chiếm khoảng 80% trong tổng số
kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu.
1.2
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.1
Định nghĩa tín dụng chứng từ
Theo điều 2 của “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (The Uniform Custom and Practice
for Documentary Credits - UCP No 500), tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau: “Theo điều khoản này, những
thuật ngữ “tín dụng chứng từ” và “thư tín dụng dự phòng” (dưới đây gọi là tín dụng), có nghĩa là bất cứ một sự thoả
thuận nào, cho dù được gọi tên hay được miêu tả thế nào, theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động
theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình:
1. Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người thụ hưởng), hoặc phải chấp nhận và trả tiền

hối phiếu do người thụ hưởng ký phát


2. Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp
nhận và trả tiền hối phiếu đó
Hoặc
3. Ủy quyền cho ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã được
quy định đảm bảo rằng các điều khoản và điều kiện của tín dụng đã được
phù hợp.
Theo điều khoản này, các chi nhánh của một ngân hàng ở các nước khác
nhau được coi là ngân hàng khác.
Từ định nghĩa tín dụng chứng từ của UCP nêu trên, chúng ta có thể diễn đạt
theo một cách khác như sau:
Tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó
một ngân hàng (ngân hàng phát hành) theo yêu cầu của một khách hàng (người
yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba, hoặc trả cho bất cứ người
nào theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng). Có thể chính ngân hàng phát
hành đứng ra trả tiền, chấp nhận, chiết khấu do người hưởng phát hành; hoặc có
thể ngân hàng phát hành uỷ quyền cho một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận,
chiết khấu hối phiếu đó khi người thụ hưởng (nhà xuất khẩu) xuất trình được bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đã đề ra trong thư tín dụng.
1.2.2
Các thành viên tham gia thanh toán tín dụng chứng từ
Trong quá trình thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ, thông thường có
các bên tham gia như sau:
Người yêu cầu phát hành thư tín dụng (Applicant): là người mua hay người
nhập khẩu
- Ngân hàng phát hành (Issuing bank): là ngân hàng phục vụ người nhập
khẩu, sẽ phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu.
- Người thụ hưởng (Benefĩciary): là người xuất khẩu(người bán hàng) hay

bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng phục vụ nhà xuất
khẩu, là trung tâm giao dịch giữa ngân hàng mở và người hưởng lợi. Ngân
hàng này kiểm tra tính trung thực của thư tín dụng và thông báo nó cho
người hưởng lợi. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng đại lý hoặc là
chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu.
Trên thực tế, ngoài các thành phần tham gia nêu trên thì tuỳ theo từng loại
thư tín dụng có thể xuất hiện thêm một số ngân hàng khác trong quá trình thanh
toán như:
+ Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): là ngân hàng xác nhận trách
nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng đảm bảo việc trả tiền cho người xuất
khẩu, trong trường hợp ngân hàng phát hành không có khả năng thanh


toán.
+ Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được chỉ định
trong thư tín dụng, cho phép ngân hàng đó thực hiện việc thanh toán,chiết
khấu hoặc chấp nhận bộ chứng từ của người thụ hưởng phù hợp với quy
định của tín dụng chứng từ.Tuỳ theo từng nhiệm vụ cụ thể mà tên gọi của
ngân hàng này có thể là:
+ Ngân hàng chỉ định thanh toán (Nominated Paying Bank).
+ Ngân hàng chỉ định chiết khấu (Nominated Negotiating Bank).
+ Ngân hàng chỉ định chấp nhận (Nominated Accepting Bank).
Trên thực tế, thông thường để giúp nhà xuất khẩu thuận tiện trong việc
nhận tiền hàng tại nước họ thì ngân hàng thông báo ngoài nghiệp vụ thông báo ra
còn làm ba nghiệp vụ trên: thanh toán, chấp nhận, chiết khấu.
- Ngân hàng bồi hoàn (Reimbursement Bank): là ngân hàng được ngân hàng
phát hành uỷ nhiệm thực hiện thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân hàng
được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn thường
tham gia trong trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng được

chỉ định không có quan hệ tài khoản trực tiếp với nhau.
1.2.3
Quy trình tóm tẳt về ngiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.
Trong thanh toán quốc tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể, tuỳ vào yêu cầu của
người xin mở thư tín dụng và tuỳ vào sự uỷ nhiệm của ngân hàng mở thư tín dụng
mà trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ sẽ có sự tham gia của bao
nhiêu ngân hàng. Thông thường, theo tập quán quốc tế chỉ có hai ngân hàng tham
gia là: ngân hàng mở thư tín dụng và ngân hàng thông báo.


Trước hết người xuất khẩu và người nhập khẩu phải kí hợp đồng thương mại,
trong đó lựa chọn điều khoản thanh toán là tín dụng chứng từ.
(1) Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại, viết đơn đề nghị mở tín
dụng thư cho người xuất khẩu hưởng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình.
(2) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng,
nếu đáp ứng các yêu cầu, ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng và thông qua
ngân hàng phục vụ người xuất khẩu để thông báo tới người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng thông báo khi nhận được thư tín dụng sẽ khẩn trương thông báo,
chuyển giao thư tín dụng này cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng đã mở thì tiến hành
giao hàng theo điều kiện hợp đồng.
(5) Sau khi đã hoàn thành việc giao hàng, người xuất khẩu tiến hành lập bộ
chứng từ thanh toán theo thư tín dụng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề
nghị thanh toán.
(6)Ngân hàng thông báo dược chỉ định là ngân hàng thanh toán, sẽ tiến hành
kiểm tra bộ chứng từ do người hưởng lập, nếu thấy phù hợp với các điêu
khoản trong thư tín dụng thì tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu(trả
tiền ngay hoặc chiết khấu truy đòi/miễn truy đòi).



(7)Sau khi đã thanh toán, ngân hàng chuyển bộ chứng sang ngân hàng phát
hành và đòi tiền.
(8)Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ , nếu đáp ứng những điều kiện
của thư tín dụng thì hoàn lại tiền cho ngân hàng đã thanh toán.
(9)Ngân hàng phát hành báo cho người nhập khẩu biết bộ chứng từ đã đến và đề
nghị họ làm thủ tục thanh toán.
(10) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến hành trả tiền
hoặc chấp nhận trả tiền, lúc đó ngân hàng phát hành sẽ trao chứng từ để nhà
nhập khẩu đi nhận hàng. Trong trường hợp người nhập khẩu không thanh
toán, thì ngân hàng cũng không trao chứng từ cho họ.
1.2.4. Thư tín dụng (L/C) - công cụ quan trọng của phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ.
1.2.4.1 Định nghĩa.
Thư tín dụng (letter of credit - L/C) là một văn bản (thư hoặc điện tín) do
ngân hàng phát hành mở ra, trên cơ sở yêu cầu của người nhập khẩu; trong đó
ngân hàng này cam kết trả tiền cho người thụ hưởng với điều kiện họ xuất trình
đầy đủ bộ chứng từ thnah toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Thư tín dụng là một phương tiện quan trọng của phương thức thanh toán
TDCT vì nó ràng buộc các thành phần tham gia như: người xuất khẩu, người nhập
khẩu, ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành...
1.2.4.2 Tính chất thư tín dụng
Thư tín dụng được ngân hàng phát hành lập ra trên cơ sở hợp đồng thương
mại được kí kết giữa hai bên xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, khi thư tín dụng được
mở thì trong quá trình hoạt động nó lại hoàn toàn độc lập so với hợp đồng thương
mại. Bởi vì, khi thanh toán ngân hàng không dựa vào hàng hoá mà chỉ căn cứ vào
việc kiểm tra bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản của thư tín dụng.
1.2.4.3 Các loại thư tín dụng
a. Thư tín dụng cỏ thể hủy ngang (Revocable L/C)
Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại thư tín dụng mặc dù đã được ngân
hàng phát hành ra và trong khi nhà xuất khẩu chuẩn bị giao hàng nhưng nó vẫn có

thể bị nhà nhập khẩu sửa đổi một số điều khoản của L/C hoặc huỷ bỏ toàn bộ L/C
mà không cần báo trước cho người thụ hưởng biết. Tuy nhiên, việc sửa đổi hay
huỷ bỏ L/C chỉ được thực hiện trước khi hàng hoá được trao hoặc vận đơn chưa
được chuyển nhượng. Loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho người
xuất khẩu. Vì vây, ngày nay hầu như nó không được sử dụng trong thương mại
quốc tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết.
b. Thư tín dụng không thể huv ngang (Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng sau khi được phát hành, ngân hàng phải cam kết


thực hiện theo đúng những điều khoản của nó, không được tự ý sửa đổi, huỷ bỏ.
Tuy nhiên, thư tín dụng này vẫn có thể được bổ sung, sửa đổi khi có sự thoả thuận
nhất trí của các bên liên quan. Loại L/C này được sử dụng phổ biến nhất trong
thanh toán tín dụng chứng từ. Theo UCP No500 nếu không có ghi chú đặc biệt về
loại thư tín dụng muốn mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng
không thể huỷ ngang.
c. Thư tín dung không thể huy ngang cỏ xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một ngân hàng khác có
uy tín đảm bảo trả tiền cho người thụ hưởng, theo yêu cầu của ngân hàng phát
hành L/C đó. Trường hợp ngân hàng phát hành vì một lí do nào đó mà không
thanh toán được tiền thì ngân hàng xác nhận phải có trách nhiệm thanh toán ngay.
Do đó, ngân hàng xác nhận có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành kí quỹ theo tỉ
lệ giá trị của thư tín dụng. Như vậy, có hai ngân hàng cùng cam kết trả tiền cho
người xuất khẩu nên loại thư tín dụng này rất đảm bảo quyền lợi cho người xuất
khẩu.
d. Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without
recourse L/C)
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng đã
được trả tiền, thì ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất cứ tình
huống nào .Khi sử dụng loại L/C này,người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu:

“Miễn truy đòi người kí phát”(Without recourse to drawers), đồng thời trong thư
tín dụng cũng phải ghi như vậy.
e. Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C)
Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó cho phép người hưởng lợi đầu
tiên có thể yêu cầu ngân hàng trả tiền (ngân hàng phục vụ mình ) chuyển nhượng
toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người thụ hưởng khác.
L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng do
người hưởng lợi đầu tiên chịu. L/C này thường được áp dụng trong thương mại
quốc tế qua trung gian.
f. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C).
L/C tuần hoàn là loại L/C không thể huỷ ngang có tính chất tuần hoàn tức
là: sau khi sử dụng xong hoặc hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như
cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
L/C tuần hoàn thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, khi mua hàng
thường xuyên, định kì, khối lượng lớn và trong thời gian dài.
g. Thư tín dung giáp lưng (Back to back L/C).
Là loại L/C được mở trên cơ sở một L/C khác. Sau khi nhận được L/C (L/C
gốc) của ngân hàng nước ngoài phát hành ,người xuất khẩu sử dụng L/C này để


thế chấp mở một L/C khác cho người thụ hưởng khác với nội dung tương tự như
L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng. Đây là hai L/C có quan hệ độc lập
với nhau về số tiền, ngày giao hàng, loại tiền tệ và một số nội dung khác.
h. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C).
Là loại L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở
ra.Trong L/C ban đầu thường phải ghi L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi
đã mở một L/C đối ứng với nó để cho người mở hưởng và trong L/C đối ứng phải
ghi câu:”L/C này đối ứng với L/C số...mở ngày...qua ngân hàng”.
L/C đối ứng được sử dụng trong phương thức hàng đổi hàng, ngoài ra
không loại trừ khả năng dùng trong phương thức gia công thương mại quốc tế.

i. Thư tín dưng dự phòng (Stand by L/C)
Là loại L/C được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ quyền lợi
cho người nhập khẩu. Ngân hàng mở L/C dự phòng sẽ cam kết với người nhập
khẩu thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. Thư tín dụng dự phòng không mang tính
chất là phương thức thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu, mà chỉ có tính chất là
phương thức đảm bảo cho việc giao hàng, thực hiện đúng hợp đồng.
j. Thư tín dụng thanh toán dần ( Desired payment L/C)
Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay
ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần số
tiền của L/C trong những thời hạn quy định trong L/C đó.
k. Thư tín dung điều khoản đỏ (Red clause L/C)
Đây là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt được viết bằng mực đỏ
trong đó thể hiện nội dung như sau: người nhập khẩu uỷ nhiệm cho ngân hàng
thông báo hoặc ngân hàng xác nhận ứng tiền trước cho người hưởng lợi trước khi
họ xuất trình chứng từ hàng hoá - điều này có nghĩa là mặc dù người xuất khẩu
chưa thực hiện nghĩa vụ giao hàng nhưng đã nhận được một khoản tiền hàng ứng
trước từ nhà nhập khẩu. Thực chất đây là loại thư tín dụng ứng trước, nó được sử
dụng như một phương tiện cấp vốn cho bên bán trước khi giao hàng.
1.2.5
UCP - Văn bản pháp lý của phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ.
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform customs and
Practice for Documentary Credits - gọi tắt là UCP).
Văn bản UCP do phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce
- ICC) soạn thảo và công bố lần đầu tiên vào năm 1933.Sau đó, UCP đã trải qua
năm lần sửa đổi vào cấc năm: 1951,1962,1974,1983,1993 và lần cuối cùng gần
đây là bản sửa đổi có hiệu lực từ 01/07/2007 ấn phẩm có tên UCP 600. Nhưng các
văn bản UCP ra đời sau không huỷ bỏ các văn bản ra đời trước đó, cho nên 7 văn



bản UCP ban hành vào các năm khác nhau đều có gía trị thực hành thanh tóan
quốc tế. Việc áp dụng văn bản UCP nào là do ý nguyện của các bên quyết định và
nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng (áp dụng UCP số hiệu
nào).
UCP là văn kiện tập họp toàn bộ những quy tắc và định nghĩa thống nhất
quốc tế, được trên 165 quốc gia công nhận và tuyên bố áp dụng trong đó có Vệt
Nam. Hiện nay ở Việt Nam, tất cả các ngân hàng thương mại được phép hoạt đọng
nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, khi tiến hành các giao dịch thanh toán theo
phương thức tín dụng chứng từ, đều có cam kết tuân thủ thực hiện văn bản UCP
hiện hành
1.2.6
Bộ chứng từ trong thanh toán tín dụng chứng từ.
Trong thanh toán tín dụng chứng từ, bộ chứng từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức này.
Đối với nhà xuất khẩu, bộ chứng từ chính là bằng chứng đã hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng và là cơ sở để được thanh toán và chiết khấu. Còn đối với người nhập
khẩu, cơ sở để nhận hàng và bằng chứng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình
cho nhà xuất khẩu cũng chính là bộ chứng từ. Ngoài ra, bộ chứng từ còn là cơ sở
để các ngân hàng có liên quan thực hiện các nghiệp vụ thanh toán hoặc chiết khấu.
Theo ICC, bộ chứng từ thông thường được chia làm hai loại: chứng từ tài chính và
chứng từ thương mại.
1.2.6.1 Chứng từ tài chỉnh (Financial Documents).
Chứng từ tài chính: là những chứng từ có giá, được sử dụng làm phương tiện
thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Bao gồm: hối phiếu, lệnh phiếu, séc...Trong thương
mại quốc tế, hối phiếu và séc được sử dụng rộng rãi phổ biến; còn lệnh phiếu rất ít
được dùng.
1.2.6.2 Chứng từ thương mại (Commercial Documents).
Chứng từ thương mại là các bằng chứng về hàng hoá, về vận tải và bảo hiểm.
Thông thường gồm các chứng từ dưới đây:

• Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice)
• Bảng kê đóng gói (Packing list)
• Vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading - B/L)
• Chứng từ bảo hiểm: bao gồm hợp đồng bảo hiểm (Insurance Policy) và giấy
chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate).
• Giấy chứng nhận mất xứ (Certificate of Origin)
• Giấy chứng nhận chất lượng (Certificate of Quality)
1.2.7
Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
1.2.7.1 Ưu điểm.
Nếu như các phương thức thanh toán khác không giải quyết được mâu


thuẫn về lợi ích trong quan hệ giao dịch thương mại giữa người xuất khẩu và
người nhập khẩu: đó là người bán muốn bán hàng ngay, thu hồi vốn nhanh đảm
bảo an toàn trong thanh toán, giao hàng rồi nhưng e ngại về việc chậm thanh toán
hoặc không thanh toán; còn người mua lại muốn nhận được hàng trước khi thanh
toán, trả tiền hàng càng chậm càng tốt nhằm tận dụng vốn trong kinh doanh, hoặc
e ngại hàng hoá nhận được không đúng như yêu cầu của hợp đồng; thì phương
thức thanh toán chứng từ lại làm dung hoà được mâu thuẫn đó. Theo phương thức
này, biện pháp thoả hiệp giữa hai bên mua bán là việc thanh toán sẽ được tiến
hành sau khi giao hàng tượng trưng, tức là người xuất khẩu sẽ giao các chứng từ
di chuyển sở hữu hàng hoá cho người nhập khẩu. Bằng việc thanh toán như vậy,
mâu thuẫn giữa hai bên xuất nhập khẩu đã được giải quyết triệt để.
Cũng vì thế mà phương thức thanh toán này đã đảm bảo được quyền lợi của người
mua và người bán.
Với người xuất khẩu, chính sự cam kết trả tiền trong L/C của ngân hàng
mở L/C với điều kiện người xuất khẩu xuất trình chứng từ phù hợp với quy định
của L/C là việc đảm bảo khả năng thu hồi tiền hàng của họ. Như vậy, rủi ro trong
thanh toán đối với người xuất khẩu là rất thấp, bởi lẽ họ sẽ được thanh toán ngay

cả khi người nhập khẩu mất khả năng thanh toán, trừ trường hợp là ngân hàng
phát hành L/C bị phá sản hoặc là gặp những rủi ro bất khả kháng như: chiến tranh,
động đất... (nhưng đây là trường họp rất hiếm khi xảy ra ).
Còn với người nhập khẩu, họ chỉ phải trả tiền khi bên bán chứng minh việc
giao hàng bằng việc đã chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá theo đúng quy định
trong L/C.Trong bộ chứng từ hàng hoá mà người xuất khẩu phải xuất trình, ngoài
các chứng từ như: hối phiếu, bảng kê, hoá đơn thương mại, là do người xuất khẩu
tự lập; còn các chứng từ khác như: chứng từ vận tải, bảo hiểm, giấy chứng nhận
xuất xứ, phẩm chất...là phải có sự xác nhận của các cơ quan khác. Vì thế mà người
xuất khẩu khó có thể làm giả các chứng từ được yêu cầu, cho nên lợi ích của
người nhập khẩu được đảm bảo. Hơn nữa, các chứng từ xuất trình sẽ được kiểm
tra bởi các chuyên gia ngân hàng cao cấp, có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực
thanh toán quốc tế. Chính nhờ sự giúp đỡ đó của các ngân hàng mà ngưòi nhập
khẩu có thể giảm bớt được rủi ro khi quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài.
Đối với các ngân hàng, khi tham gia phương thức thanh toán L/C, họ cũng
sẽ thu được những lợi ích của riêng mình đó là: thu được các khoản phí do các bên
trả và có thể huy động thêm các khoản tiền gửi(khi có kí quỹ) để thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng khác, đồng thời thu hút được khách hàng sử dụng
các tiện ích ngân hàng khác, ngoài ra điều quan trọng là có thể nâng cao được uy
tín của ngân hàng trên thương trường quốc tế.


1.2.7.2 Nhược điểm.
Tuy nhiên, bênChuyên
cạnh những
đề tốt ưu điểm trên thì phương thức thanh toán L/C
Học viện ngân
còn có một số hạn chế nhất định như sau:
Đối với người xuất khẩu: Thông thường, rủi ro xảy ra với người xuất
khẩu là khi người mua không thiện chí trong thanh toán do họ muốn từ chối thanh

toán tiền hàng, hoặc muốn kéo dài thời gian thanh toán vì tình hình tài chính chưa
sẵn sàng, hoặc do sự biến động trong thị hiếu tiêu dùng mặt hàng đó...Người nhập
khẩu gây khó khăn trong thanh toán bằng cách tìm ra những điểm khác biệt rất
nhỏ giữa các chứng từ do người xuất khẩu xuất trình so với quy định của L/C. Bởi
sự khác biệt dù là rất nhỏ giữa các chứng từ với nhau và giữa chứng từ với L/C
cũng là cớ hợp lệ để người nhập khẩu từ chối thanh toán cho người xuất khẩu mặc
dù hàng hoá đã được giao hoàn toàn đúng theo yêu cầu của người mua.
Đối với người nhập khẩu: Do việc thanh toán trong phương thức
L/C thường được thực hiện trước khi hàng hoá đến tay người nhập khẩu do vậy họ
thường bị rủi ro về hàng hoá như số lượng, phẩm chất, mẫu mã không đúng theo
yêu cầu của hợp đồng, hay nhập phải một loại hàng hoá khác không đúng như
thoả thuận, thậm chí có khi không có hàng hoá...Nguyên nhân của rủi ro này là
xuất từ việc ngân hàng chỉ có thể khống chế về mặt hình thức của các loại chứng
từ mà không thể kiểm soát được tính pháp lý hay tính xác thực của chúng, nên
ngân hàng không thể biết rõ trên thực tế hàng hoá giao có đúng theo quy định hay
không. Do đó, nếu người xuất khẩu không trung thực thì họ sẽ giao hàng không
đúng với đièu khoản ghi trong L/C nhưng sẽ tiến hành giả mạo chứng từ, thay đổi
chứng từ để có thể xuất trình được bộ chứng từ phù họp về hình thức theo đúng
L/C đến ngân hàng. Và ngân hàng sẽ trả tiền cho người xuất khẩu dựa vào việc
kiểm tra bề mặt các chứng từ đó, trong khi không biết rằng hàng hoá không được
giao nhận theo đúng quy định. Do vậy rủi ro về hàng hoá đã xảy đén với người
nhập khẩu. Đây là điểm yếu rất lớn của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Vì thế để tránh rủi ro thì trước khi ký kết hợp đồng thương mại, người mua cần
phải tìm hiểu kĩ thông tin về tài chính và uy tín của người bán trên thương trường.
Đối với ngân hàng phát hành(Issuing bank): có thể gặp một số rủi ro
như: rủi ro về tỉ giá, rủi ro trong quá trình vận chuyển, rủi ro do nhà xuất khẩu có
hành vi lừa đảo...Nhưng trong đó rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh
toán hoặc bị phá sản là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở, vì
ngân hàng mở buộc phải thanh toán cho người xuất khẩu trong khi không thể thu
hồi được vốn từ phía người nhập khẩu. Mức độ thiệt hại của ngân hàng sẽ tỉ lệ

nghịch với tỉ lệ % kí quỹ phát hành L/C mà ngân hàng yêu cầu nhà nhập khẩu
thực hiện khi mở L/C.


Rủi ro đối với ngân hàng thông báo: là khi ngân hàng thiếu cẩn thận
trong khi kiểm tra tính
trungđềthực
cho viện ngân
Chuyên
tốt của L/C và dẫn đến thông báo L/C giả Học
khách hàng.
Ngoài ra, còn có một số rủi ro xảy ra với các ngân hàng khác như:
đối với ngân hàng xác nhận có thể gặp rủi ro do không hiểu biết về uy tín tài chính
của ngân hàng mở, hay ngân hàng mở không thiện chí hoặc mất khả năng trong
thanh toán. Còn rủi ro với ngân hàng chiết khấu chứng từ có thể là rủi ro về các
nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, đảo chính, khủng hoảng
kinh tế..., rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán hoặc từ chối bộ chứng từ,
rủi ro do ngân hàng mở phá sản...
1.3.
Các nhân tố ảnh hưởng tói sự phát triển của hoạt động thanh
toán tín dụng chứng từ tại NHTM
1.3.1.
Các nhân tố ảnh hưởng
1.3.1.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Về phía ngân hàng: Với tư cách là chủ thể trung gian trong toàn bộ tiến trình của
hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C, rõ ràng, NHTM đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với bản thân mỗi nghiệp vụ đơn lẻ, cũng như sự phát triển của phương
thức thanh toán L/C nói chung.



Cơ cấu sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp là yếu tố hàng đầu, bởi
một lẽ đơn giản: nếuChuyên
NHTMđề
không
tốt triển khai phương thức thanh toán bằng L/C,
Học viện ngân
thì sẽ không có hoạt động thanh toán qua L/C. Điều này mang tính quyết định căn
bản không chỉ với phương thức tín dụng chứng từ, mà còn với hoạt động thanh
toán quốc tế nói chung mà L/C đã và đang trở thành một công cụ phổ biến.
Nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm của mọi quá trình, đồng thời có tác
động to lớn tới sự phát triển của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Cho dù
công nghệ ngân hàng có được hiện đại hóa đến đâu, với sự tham gia sâu rộng của
máy móc, thiết bị, thì yếu tố nhân lực vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, đặt biệt là
trong tính đa dạng và phức tạp của thanh toán L/C.
Bản chất của thanh toán, là quan hệ giữa người mua và người bán. Vai trò
của NHTM trong mối quan hệ này, là nhằm giải đáp cho vấn đề đặt ra là sự tin
tưởng của các bên. Ngân hàng càng củng cố chất lượng hoạt động, mở rộng màng
lưới, quy mô, nâng cao uy tín, đó là tiền đề vững chắc cho hoạt động thương mại
quốc tế được mở rộng, và theo đó là sự phát triển của phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ.
Về phía khách hàng (nhà xuất, nhập khẩu): Với tư cách là chủ thể trực tiếp tham
gia vào hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, khách hàng (của ngân hàng) đóng
vai trò quyết định tới bản thân sự phát triển của loại hình dịch vụ này.
Một là, thói quen sử dụng phương thức thanh toán nhất định sẽ quyết định,
khách hàng có sử dụng công cụ thanh toán qua L/C hay không. Thông thường, với
tính chất phức tạp của thương mại quốc tế, thanh toán qua L/C vẫn là lựa chọn
hàng đầu, căn cứ vào quy mô và tầm quan trọng của mỗi giao dịch.
Hai là, sự thành công trong kinh doanh của bản thân khác hàng, là yếu tố
vững chắc đảm bảo cho sự thịnh vượng của hoạt động thương mại, mà tất yếu là
sự phát triển của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bởi cơ sở cho thanh

toán, là hoạt động thương mại.
1.3.1.2. Nhóm nhân tố khách quan
Tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế: Sức khỏe của nền kinh tế là thước đo hiệu
quả cho mọi hoạt động thương mại, đầu tư. Một khi nền kinh tế đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, bền vững, thương mại quốc tế sẽ được thúc đẩy, kéo theo sự gia
tăng của tỉ trọng, giá trị, của thanh toán tín dụng chứng từ (với tư cách là phương
thức thanh toán phổ biến).
Cơ cấu ngành: Một nền kinh tế quốc gia có cơ cấu ngành hướng ra xuất khẩu,
hoặc chịu ảnh hưởng của yếu tố hàng nhập, là khi hoạt động thanh toán tín dụng
chứng từ có điều kiện được đẩy mạnh.
Hoạt động xuất nhập khẩu: Khác với mô hình kinh tế chỉ huy, khép kín; một nền


kinh tế vận hành theo quy luật thị trường, tất yếu đòi hỏi mối quan hệ giao thương
giữa các quốc gia. Mối
quan đề
hệtốt
càng được đẩy mạnh, thì thanh toán quốc tế cũng
Chuyên
Học viện ngân
được mở rộng tương ứng, phương thức thanh toán L/C càng phát triển mạnh mẽ.
Tập quán thương mại quốc tế: Thông lệ trong thương mại quốc tế là một yếu tố
rất quan trọng, trực tiếp tác động tới việc lựa chọn phương thức thanh toán. Một
phương thức thanh toán được cho là tối ưu, nhưng không phù hợp với tập quán
của một hoặc các bên, thì cũng sẽ chưa chắc là phương thức được lựa chọn
1.3.2.
Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ
1.3.2.1. Quỵ mô
Chỉ tiêu quy mô hoạt động thanh toán quốc tế theo L/C được thể hiện qua

các tiểu chỉ tiêu:
- Số lượng giao dịch được triển khai qua ngân hàng (tính theo tháng,
quý, năm)
- Giá trị trung bình mỗi giao dịch, tổng giá trị thanh toán
- Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ; trung bình số lượng/giá trị giao
dịch trên mỗi khách hàng.


1.3.2.2. Khách hàng
* Theo phương diện
pháp
Học viện ngân
Chuyên
đềlý
- Khách hàng thể nhân
- Khách hàng pháp nhân
* Theo tính chất
- Khách vãng lai
- Khách thường xuyên
* Theo quy mô
- Khách hàng lớn
- Khách hàng nhỏ
1.3.2.3. Thị trường
- Tỉ trọng sử dụng phương thức L/C so với các phương thức khác
- Giá trị thanh toán qua L/C so với tổng giá trị thanh toán
1.3.2.4. Thu nhập
- Doanh thu dịch vụ thanh toán L/C/tổng doanh thu dịch vụ thanh toán
- Lợi nhận từ dịch vụ thanh toán L/C/tổng lợi nhận từ nghiệp vụ thanh
toán.
- Doanh thu/lợi nhuận bình quân



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN CHỨNG TỪ TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về SHB
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của SHB
Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội (SHB) thành lập theo Quyết định số 214/QÐNH5 ngày 13/11/1993; Quyết định số 93/QĐ-NHNN ngày 20/1/2006 và Quyết định
số 1764/QĐ-NHNN ngày 11/9/2006. Trải qua 23 năm xây dựng và phát triển, SHB
tự hào là một trong những ngân hàng thương mại có tốc độ phát triển mạnh mẽ qua
từng năm, gặt hái nhiều thành công rực rỡ nhờ chiến lược phát triển toàn diện song
hành với mục tiêu phát triển vì lợi ích của cộng đồng. Với tôn chỉ hoạt động “Đối
tác tin cậy, Giải pháp phù hợp” và chiến lược kinh doanh luôn đổi mới nhằm mang
lại giá trị lợi ích cho khách hàng và sự thịnh vượng cho các cổ đông – nhà đầu tư,
SHB luôn làm hài lòng khách hàng và đối tác với những sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng đồng bộ, tiện ích, chất lượng và cạnh tranh với phong cách phục vụ chuyên
nghiệp. SHB hiện nằm trong Top 5 các Ngân hàng TMCP tư nhân lớn nhất Việt
Nam không do Nhà nước chi phối vốn.
Tính đến 30/9/2016, SHB trở thành một định chế tài chính có quy mô lớn của Việt
Nam với Tổng tài sản đạt hơn 215.000 tỷ đồng, Vốn tự có đạt gần 13.000 tỷ đồng.
Với gần 7.000 cán bộ nhân viên, mạng lưới rộng gần 500 điểm giao dịch ở Việt
Nam, Lào và Campuchia, SHB đang phục vụ gần 4 triệu khách hàng cá nhân và
doanh nghiệp.
Với những thành tích đã đạt được, SHB đã vinh dự được Chủ tịch nước trao tặng
Huân chương Lao động hạng Nhì và nhiều giải thưởng cao quý của Đảng, Nhà
nước, của các tổ chức uy tín trong nước và Quốc tế như: Top 10 Ngân hàng uy tín
nhất Việt Nam, Top 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam 2016 – trong đó SHB là
Ngân hàng có tỷ lệ giá trị thương hiệu/giá trị tài sản cao nhất trong 10 Ngân hàng
được đánh giá, Ngân hàng tài trợ Dự án tốt nhất Việt Nam, Ngân hàng SME tốt
nhất Việt Nam, Ngân hàng nước ngoài tiêu biểu Campuchia, Ngân hàng có Sản

phẩm tiền gửi tốt nhất Việt Nam và Sáng kiến thương hiệu tốt nhất, Ngân hàng có
dịch vụ Internet Banking tốt nhất,….
2.1.2. Một số nét chính về SHB năm 2016
Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) vừa cập nhật kết quả kinh doanh cơ bản nửa
đầu năm 2016, với các chỉ tiêu tài chính tăng trưởng khả quan so với cùng kỳ 2015.


Tính đến tháng 6/2016, tổng tài sản của SHB đạt 212.004 tỷ đồng, tăng 19,51%.
Với quy mô này, SHB tiếp tục củng cố vị trí trong top 5 ngân hàng thương mại cổ
phần lớn của Việt Nam (không có tỷ lệ sở hữu Nhà nước chi phối)
Các chỉ tiêu cơ bản khá của SHB cũng tăng trưởng khá mạnh trong nửa đầu năm
nay so với cùng kỳ 2015. Tổng vốn huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân đạt
168.503 tỷ đồng, tăng 14,76%; tổng dư nợ tín dụng đạt 140.941 tỷ đồng, tăng
18,84%.
Tổng thu nhập thuần của SHB trong kỳ cập nhật trên đạt 1.749 tỷ đồng, tăng
21,46% so với cùng kỳ 2015; lợi nhuận trước thuế đạt 523 tỷ đồng, tăng 9,19%.
Theo SHB, trong 6 tháng đầu năm nay ngân hàng luôn đảm bảo các tiêu chuẩn, giới
hạn an toàn trong hoạt động. Tỷ lệ nợ xấu tiếp tục giảm so với năm trước, đến cuối
tháng 6/2016 được kiểm soát ở mức 2,2%. Tỷ lên an toàn vốn được giữ ở mức khá
cao, 11,3% so với mức tối thiểu 9% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
SHB đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 9.486 tỷ đồng lên 11.197 tỷ đồng trong
thời gian tới để nâng cao năng lực tài chính, đầu tư cơ sở vật chất cho việc phát
triển mạng lưới, hiện đại hóa công nghệ. Phương án tăng vốn điều lệ cũng đã được
đại hội đồng cổ đông thông qua hồi tháng 4/2016.
Ngoài ra, ngân hàng này đang thực hiện những bước cuối cùng trong kế hoạch sáp
nhập Công ty Tài chính Vinaconex-Viettel (VVF), thúc đẩy các hoạt động kinh
doanh liên quan. Cụ thể, qua kế hoạch sáp nhập trên, ngân hàng này sẽ thành lập
Công ty Tài chính SHB với vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng, hoạt động chuyên biệt trong
lĩnh vực tài chính tiêu dùng, nhưng sẽ không chồng chéo hay hạn chế sự phát triển
của mảng tín dụng tiêu dùng của ngân hàng mẹ.

“SHB có định hướng và tiêu chí rất rõ ràng về phân khúc khách hàng và sản phẩm
mục tiêu mà Ngân hàng SHB và Công ty Tài chính SHB sẽ tập trung phát triển.
Ngân hàng SHB sẽ tập trung vào mảng các khách hàng có thu nhập cao, các khoản
vay có giá trị lớn và các sản phẩm chủ yếu là cho vay mua nhà, sữa chữa và nâng
cấp nhà cửa, mua ô tô phân khúc trung bình khá… được đảm bảo bằng tài sản của
khách
hàng.
Trong khi đó, Công ty tài chính SHB sẽ tập trung vào nhóm các khách hàng thu
nhập trung bình khá trở xuống, các khoản vay có giá trị nhỏ như cho vay mua xe
máy, đồ điện tử, đồ gia dụng và khoản vay không có tài sản bảo đảm…”, SHB cho
biết.
Công ty Tài chính SHB được kỳ vọng là một nhân tố mới sẽ cùng để thúc đẩy mục


tiêu mở rộng mạng lưới khách hàng, nâng cao thị phần bán lẻ và đóng góp cho lợi
nhuận hợp nhất của ngân hàng trong thời gian tới.

2.1

Hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại SHB

2.2.1
Thanh toán L/C hàng xuất khẩu.
2.2.1.1 Quỵ trình nghiệp vụ thanh toán hàng xuất khẩu bằng phương thức
TDCT.
Trong quy trình thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ,
SHB đóng vai trò là ngân hàng thông báo, thay mặt cho người xuất khẩu đòi tiền
người nhập khẩu ở nước ngoài. Toàn bộ nghiệp vụ này do phòng Thanh toán Quốc
tế đảm nhận, bao gồm 2 nhiệm vụ cơ bản sau:
• Tiếp nhận L/C từ ngân hàng phát hành, thông báo L/C cho người xuất khẩu

và thông báo sửa đổi L/C.
• Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và đòi tiền.
Mọi nghiệp vụ liên quan đến việc tiếp nhận L/C từ nước ngoài đến việc nhận
tin đến và truyền tin đi của phòng thanh toán đều được thực hiện thông qua mạng
thông tin điện tử được kết nối trong hệ thống ngân hàng.
Các bước tiến hành thanh toán L/C hàng xuất khẩu cụ thể như sau:
• Tiếp nhận L/C từ ngân hàng phát hành, thông báo L/C cho người xuất khẩu
và thông báo sửa đổi L/C, gồm các bước:
Bước 1: Sau khi mở L/C, ngân hàng phát hành chuyển L/C sang ngân hàng
SHB ngân hàng thông báo. Phòng TTQT của SHB tiếp nhận chứng từ thông qua hệ
thống mạng SWIFT. Thanh toán viên kiểm tra tính trung thực của thông tin (kiểm
tra mã, mẫu chữ kí). Nếu qua kiểm tra thấy L/C chưa đủ yếu tố xác thực thì thanh
toán viên phải thông báo cho ngân hàng phát hành L/C biết mà không thông báo
cho người xuất khẩu. Trường hợp người xuất khẩu có yêu cầu thông tin thì chỉ giao
cho họ bản sao hoặc bản sao sửa đổi L/C trên đó có ghi rõ dấu Non-Negotiable của
ngân hàng.
Bước 2: Sau khi kiểm tra, thanh toán viên lập bộ hồ sơ và ghi vào sổ theo
dõi thanh toán, đồng thời nhập dữ liệu vào máy tính: số hiệu L/C, người trả tiền,
ngân hàng mở L/C, số tiền và lập một thông báo L/C gửi cho người xuất khẩu theo
mẫu quy định đính kèm điện, thư mở L/C với nội dung nguyên văn như nội dung
của L/C mà ngân hàng nhận được.
Trường hợp nhận được điện của ngân hàng phát hành ghi rõ: các chi tiết đầy
đủ gửi sau hay một câu có nội dung tương tự thì trên thông báo gửi người xuất
khẩu, ngân hàng phải ghi rõ là thông báo sơ bộ, chưa có hiệu lực thi hành.
Trường hợp ngân hàng phát hành yêu cầu SHB thông báo kèm xác nhận L/C
thì bộ phận thông báo phải trình Tổng Giám đốc xem xét có chấp nhận hay không,
có yêu cầu ngân hàng mở L/C ký quỹ hay không.


SHB có thể thông báo L/C bằng thư, bằng Telex hoặc thông qua mạng

SWIFT. Thư thông báo L/C hoặc sửa đổi được thành lập 2 bản: một bản giao cho
khách hàng, một bản lưu tại hồ sơ L/C. Thanh toán viên phải thông báo L/C gốc
cho khách hàng và yêu cầu khách hàng ký nhận vào bản lưu của ngân hàng. Khi
thông báo bằng Telex hoặc Swift MT thì phải chuyển nguyên văn nội dung nhận
được đồng thời nêu rõ SHB thông báo L/C và tu chỉnh L/C mà không chịu trách
nhiệm gì.
Khi lập thông báo L/C hoặc sửa đổi L/C thanh toán viên đồng thời lập phiếu
thu phí thông báo, phí sửa đổi, phí xác nhận theo biểu phí của ngân hàng.
• Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và đòi tiền, gồm các bước:
Bước 3: Sau khi hoàn tất thủ tục giao hàng, người xuất khẩu dựa vào nội
dung yêu cầu của L/C lập một bộ chứng từ thanh toán và gửi tới SHB. Bộ chứng từ
thường bao gồm: thư yêu cầu thanh toán tiền hàng, hóa đơn thương mại, chứng từ
vận tải, bảng kê chi tiết hàng hóa, các loại giấy tờ về hàng hóa Khi nhận được bộ
chứng từ, thanh toán viên kiểm tra tính chân thực bề ngoài của chứng từ, bao gồm
kiểm tra số lượng chứng từ, loại chứng từ và đối chiếu kiểm tra chi tiết từng loại
chứng từ xem có phù họp với nội dung quy định trong L/C không, sau đó gi rõ
ngày, giờ xuất trình và ký nhận.


Bước 4: Khi kiểm tra chứng từ thanh toán viên phải ghi rõ ý kiến của mình
trên phiếu kiểm tra chứng
từ,đềsau
soát viện ngân
Chuyên
tốt đó lấy ý kiến của trưởng phòng hoặc kiểm Học
trước khi lập chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành L/C.
Bước 5: Sau khi kiểm tra bộ chứng từ, sẽ có 2 khả năng xảy ra:
- Khả năng 1: Nếu thấy bộ chứng từ phù họp với L/C, thì SHB sẽ tiến hành
in thư gửi chứng từ cho Ngân hàng phát hành và đòi tiền. Tùy vào quy định của
L/C, việc đòi tiền có thể được thực hiện bằng thư hoặc bằng điện. Nếu đòi tiền bằng

thư cần thực hiện theo mẫu quy định. Còn đòi tiền bằng điện thì phải sử dụng các
mẫu điện Swift thích hợp MT 754 hoặc MT 742.
- Khả năng 2: Bộ chứng từ không phù hợp với L/C:
+ Trường hợp lỗi của bộ chứng từ có thể sửa chữa được thì ngân hàng phải
thông báo ngay cho người xuất khẩu để kịp thời sửa lại cho phù họp. Nhưng nếu
người xuất khẩu không đông ý với những ý kiến về việc sửa đổi của ngân hàng thì
thanh toán viên phải yêu cầu khách hàng ký quỹ bảo lưu và chịu trách nhiệm về
những lỗi đó.
+ Trường hợp lỗi của bộ chứng từ không thể sửa chữa được thì trên thư hoặc
điện đòi tiền gửi ngân hàng phát hành, thanh toán viên phải nêu rõ những điểm
không phù họp và kèm chỉ thị trả tiền để xem có được chấp nhận thanh toán không.
Thanh toán viên có trách nhiệm theo dõi việc trả tiền của ngân hàng nước
ngoài. Đối với L/C trả ngay nếu quá 7 ngày kể từ ngày điện đòi tiền, 20 ngày kể từ
ngày đòi tiền bằng thư gửi chứng từ đảm bảo mà không nhận được sơ báo trả tiền
hoặc báo có thì thanh toán viên phải điện nhắc ngân hàng nước ngoài trả tiền đối
với bộ chứng từ phù hợp, chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về tình trạng chứng
từ đối với bộ chứng từ không phù họp. Đối với L/C trả chậm thanh toán viên phải
theo dõi và yêu cầu ngân hàng nước ngoài thông báo việc chấp nhận thanh toán bộ
chứng từ của người bán và xác nhận ngày đáo hạn. Trước ngày đến hạn 3 ngày làm
việc, thanh toán viên phải điện nhắc ngân hàng nước ngoài thanh toán đúng hẹn.
Khi đến hạn mà vẫn chưa được thanh toán thì thanh toán viên phải tiếp tục điện
nhắc ngân hàng nước ngoài thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bước 6: Khi nhận được điện hoặc thư thông báo trả tiền của ngân hàng
thanh toán, thanh toán viên phải lập tức hạch toán báo có cho khách hàng, tất toán
tài khoản chiết khấu và thu lãi chiết khấu, đồng thời xuất ngoại bảng tài khoản
Chứng từ hàng xuất bằng L/C gửi nước ngoài đòi tiền trị giá bộ chứng từ.
2.2.1.2 Tình hình thanh toán L/C hàng xuất khẩu.
Là một ngân hàng mới đã hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế trong
một khoảng thời gian dài cùng với các giải thưởng uy tín trong và ngoài nước, SHB
đã từng bước tạo được niềm tin từ khách hàng và xây dựng được uy tín kinh doanh



trên thương trường quốc tế.
Mặc dù, hoạtChuyên
động thương
tình viện ngân
đề tốt mại quốc tế của nước ta luôn nằm trong Học
trạng nhập siêu, giá trị thanh toán xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá
trị xuất nhập khẩu. Song, SHB từ khi bắt đầu hoạt động cho đến nay, đã luôn cố
gắng giữ vững và đẩy mạnh hoạt động thanh toán xuất khẩu của mình. Doanh số
thanh toán xuất khẩu của tăng từ 55,12 triệu USD năm 2011 lên 138,24 triệu USD
năm 2016. Trong đó, doanh số thanh toán hàng xuất theo phương thức L/C cũng có
những biến động nhất định sau đây:

Đơn vị: triệu USD
Doanh số thanh toán L/C hàng xuất khẩu tại SHB
Năm

Doanh số thanh toán L/C hàng xuất khẩu

% tăng giảm

2013

20.66

2014

35.12


+167%

2015

97.63

+278%

Nguồn: Báo cáo kết quả HĐKD của SHB năm 2015
Do sử dụng chiến lược phát triển đúng đắn, doanh số thanh toán L/C xuất khẩu của
SHB từ năm 2013 đến năm 2015 liên tục tăng trưởng khá mạnh.


Năm 2013, doanh số thanh toán L/C xuất khẩu đạt 20.66 triệu USD. Doanh
số này
Học viện
ngân hàng
Chuyên
tiếp tục tăng vào năm
2014đềvàtốtđạt 35.12 triệu USD tăng 167% so với năm 2013.
Bước sang năm 2015, đây là một năm kinh doanh thành công của SHB về mọi mặt.
Do đó, doanh số này cũng đóng góp một phần vào sự phát triển của hoạt động
thanh toán tín dụng chứng từ của SHB năm 2015. Điều này được thể hiện thông
qua doanh sốhàng xuất năm 2015 đạt 97.63 triệu USD, tăng 278% so với năm
2014. Để có được kết quả cao trong thanh toán L/C hàng xuất năm 2013-2015,
SHB đã xây dựng và áp dụng nhiều biện pháp như: Thực hiện chính sách khách
hàng mới, ưu đãi đối với các khách hàng truyền thống; mở rộng phạm vi hoạt động,
đưa nhiều dịch vụ hàng xuất phục vụ khách hàng gồm: thu hộ tiền hàng xuất, chiết
khấu chứng từ, tư vấn về lập bộ chứng từ...; đặc biệt Ngân hàng đã có những thay
đổi trong biểu phí đối với các giao dịch nhằm thu hút khách hàng và để tăng sức

cạnh tranh; ngoài ra SHB còn áp dụng các biện pháp khác như họp tác với các ngân
hàng đại lý, đào tạo trình độ nghiệp vụ cho các thanh toán viên...
2.2.2
Thanh toán L/C hàng nhập khẩu.
2.2.2.1 Quỵ trình nghiệp vụ thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức
TDCT.
Trong quy trình thanh toán nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ,
SHB đóng vai trò là ngân hàng phát hành thư tín dụng. Ngân hàng có trách nhiệm
cam kết thanh toán cho người thụ hưởng nước ngoài. Nghiệp vụ thanh toán L/C
hàng nhập chủ yếu của SHB bao gồm:
- Phát hành L/C
- Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ cho người nhập khẩu
và thanh toán.
Các bước tiến hành thanh toán L/C hàng nhập khẩu cụ thể như sau:
• Phát hành L/C, gồm các bước:
Bước 1: Khách hàng (người nhập khẩu) viết đơn yêu cầu ngân hàng phát
hành L/C. Hồ sơ mà thanh toán viên tiếp nhận bao gồm:
+ Đơn xin mở L/C của người nhập khẩu theo mẫu của SHB (trong trường
hợp khách hàng ký quỹ đủ và có hạn mức ưu tiên), hoặc giấy đề nghị mở L/C của
Phòng Tín dụng hay bản sao tờ trình của Phòng Tín dụng có Tổng Giám Đốc ký
duyệt (đối với trường họp khách hàng không ký quỹ đủ giá trị L/C).
+ Bản sao hợp đồng thương mại và các chứng từ có giá trị tương đương như
hợp đồng (nếu có).
+ Giấy ủy quyền trích ngoại tệ.
+ Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương Mại (Quota).
+ Bản sao giấy đăng ký kinh doanh (đối với khách hàng giao dịch lần đầu).

Nguyễn Thị Quỳnh Hương

^



Sau đó thanh toán viên sẽ kiểm tra số lượng và sự hợp lệ củaHọc
các viện
giấyngân
tờ hàng
Chuyên
đề tốt
trên, đồng thời ghi rõ
ngày giờ
nhận.
Bước 2: Thanh toán viên sẽ kiểm tra nội dung đơn đề nghị mở L/C. Nếu nội
dung không rõ ràng, các điều kiện chỉ thị có mâu thuẫn hoặc khách biệt với Hợp
đồng, thì thanh toán viên phải báo ngay cho khách hàng và hướng dẫn họ điều
chỉnh lại trước khi phát hành L/C ra nước ngoài. Sau đó, thanh toán viên sẽ kiểm
tra nguồn vốn để đảm bảo thanh toán L/C của khách hàng. Nếu L/C được phát hành
bằng vốn tự có thì khách hàng phải ký quỹ 100%. Đối với các L/C mở ký quỹ
100%, thanh toán viên phải trình lãnh đạo Phòng TTQT ký duyệt. Truông hợp L/C
được phát hành bằng vốn vay (tức là khách hàng ký quỹ dưới 100%) thì thanh toán
viên sẽ căn cứ vào phê duyệt của bộ phận tín dụng và sau đó trình lên lãnh đạo
Phòng TTQT ký duyệt. Trường hợp L/C được bên thứ ba bảo lãnh phát hành thì
thanh toán viên sẽ căn cứ vào thư bảo lãnh của bên thứ ba đã được lãnh đạo phê
duyệt để mở.
Bước 3: Thanh toán viên mở L/C cho khách hàng đăng ký số tham chiếu
L/C, đưa dữ liệu vào máy tính. Nếu L/C được mở bằng điện thì phải có Testkey,
hoặc sử dụng mẫu điện MT 700, nếu phát hành qua mạng Swift thì sử dụng mẫu
MT 701 hoặc nếu phát hành bằng thư thì sử dụng 2 mẫu điện trên kèm theo thư
mẫu. Sau đó, thanh toán viên sẽ hạch toán nội bảng số tiền ký quỹ và thu phí mở
L/C, đồng thời nhập ngoại bảng để theo dõi. Toàn bộ hồ sơ của việc phát hành L/C
được thanh toán viên trình phụ trách phòng ký duyệt, sau đó giao bản sao cho

khách hàng đồng thời lập hồ sơ L/C và lưu hồ sơ theo dõi.
Trường hợp khách hàng yêu cầu mở L/C xác nhận thì thanh toán viên sẽ
kiểm tra thêm và thu phí xác nhận. Nếu phí xác nhận do người mua chịu thì phải
xác định rõ nguồn tiền trả. Nếu phí xác nhận do người bán chịu thì phải ghi rõ tên,
địa chỉ đầy đủ của ngân hàng xác nhận. Nếu ngân hàng xác nhận yêu cầu ký quỹ,
thanh toán viên phải viết giấy yêu cầu ngân hàng xác nhận trả lãi trên số tiền ký
quỹ kể từ ngày chuyển tiền đến khi thanh toán xong L/C đó.
Sau khi phát hành L/C nếu khách hàng có yêu cầu sửa đổi L/C, thì phải gửi
tới SHB thư yêu cầu sửa đổi L/C (theo mẫu) kèm văn bản thỏa thuận giữa người
mua và người bán về việc sửa đổi. Thanh toán viên sẽ căn cứ vào đó để phát hành
điện sửa đổi L/C gửi ngân hàng thông báo (sử dụng MT 707 hoặc Telex có mã).
Mỗi hồ sơ về việc sửa đổi phải trình phụ trách phòng ký duyệt. Nếu phí sửa đổi do
người xuất khẩu chịu thì trong điện tu chỉnh L/C phải ghi rõ: “Phí tu chỉnh sẽ được
trừ vào tiền hàng khi thanh toán.
• Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ cho người nhập khẩu và
thanh toán, gồm các bước:

Nguyễn Thị Quỳnh Hương

^


×