DẠY HỌC VĂN BẢN "CHIẾU CẦU HIỀN" CỦA NGÔ THÌ NHẬM TỪ GÓC NHÌN
VĂN HÓA
-1-
Như vậy qua văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm ngoài việc đề cập đến
những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc, có giá trị văn chương và từ
những giá trị văn chương ấy giúp chúng ta cảm nhận được những nét đẹp văn hóa
truyền thống của dân tộc. Lịch sử đã bước sang những trang sử mới, “Chiếu cầu hiền”
mà Ngô Thì Nhậm chấp bút viết thay vua Quang Trung sẽ vẫn là cẩm nang về bài học
xử thế, bài học về nghệ thuật thu phục hiền tài trong thiên hạ để họ tận tâm, tận lực
trong công cuộc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam lớn mạnh hơn trên
nhiều phương diện. Ngoài ý nghĩa chính trị của một thời, “Chiếu cầu hiền” còn mang
giá trị văn hóa của mọi thời đại. “Chiếu cầu hiền” sẽ mãi mãi trường tồn cùng thời
gian. ( Tìm hiểu “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm từ góc nhìn văn hóa – giáo dục
- Nguyễn Thị Quế Anh)................................................................................................54
-2-
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ giá trị văn hóa được lưu giữ trong tác phẩm văn chương
Mỗi tác phẩm văn học đích thực đều mang trong mình những giá trị
văn hóa cụ thể của một dân tộc, một vùng miền, một đất nước. Giá trị đó cho
thấy tác phẩm văn học không chỉ toát lên vẻ đẹp ngôn từ mà còn cả vẻ đẹp
tâm hồn qua cách ứng xử và cách tiếp nhận của một dân tộc hay một cộng
đồng nhất định. Nói cách khác, giá trị văn hóa trong tác phẩm văn chương cho
phép hiểu rộng hơn giá trị của tác phẩm qua hệ thống hình tượng, hình ảnh,
tạo ra những suy tư liên hệ, so sánh với các loại hình nghệ thuật khác cũng
như các nền văn hóa khác...Vì vậy, nghiên cứu giá trị văn hóa trong các tác
phẩm văn học là việc làm cần thiết trong giai đoạn giáo dục hiện nay.
Văn học là một bộ phận quan trọng lòng cốt của văn hóa . "Văn học là
một bộ môn trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là bộ phận đặc biệt
nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về Chân, Thiện, Mĩ
có tác dụng bồi dưỡng tình cảm tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ
công dân, xây dựng môi trường đạo đức xã hội" [43]. Đại hội lần Thứ VI của
Đảng đã chỉ rõ" Không một hình thái tư tưởng nào có thể thay thế văn học và
nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu vào việc đổi
mới nếp nghĩ, nếp sống của con người"[43].
Tác phẩm văn chương - nơi phản ánh, lưu giữ và kết tinh văn hóa của
dân tộc và thời đại. Thực tế cho thấy văn học của bất kì dân tộc nào, thời đại
nào cũng đều phản ánh và lưu giữ văn hóa của dân tộc đó, thời đại đó. Văn
học Việt Nam trong trường kì phát triển của ngàn năm lịch sử, luôn thể hiện
những đặc trưng đầy đủ của văn hóa con người Việt Nam. Từ văn hóa phong
tục đến văn hóa tín ngưỡng, đến văn hóa nhận thức vũ trụ và xã hội...đều
được văn học phản ánh và lưu giữ.
-3-
1.2. Mục tiêu dạy học văn học trong nhà trường
Như tất cả các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn đề cao vai trò của
giáo dục - coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vì thế, để theo kịp với xu
hướng phát triển của thế giới, gần đây Bộ Giáo Dục Việt Nam đã đưa ra đề án
đổi mới sau năm 2015 với những mục tiêu hết sức cụ thể "dạy học ở phổ
thông sẽ tập trung thực hiện đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo
dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người học, phát triển
con người toàn diện, đặc biệt là tiềm năng của mỗi cá nhân. Dạy và học sẽ đổi
hướng từ "cung cấp kiến thức sang phát huy năng lực cá nhân của người học,
buộc giáo viên phải thay đổi phương pháp, biện pháp dạy học để đáp ứng yêu
cầu xã hội. Coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách
mạng đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hiện, tinh thần trách
nhiệm xã hội. Giáo dục sẽ theo hướng tinh giản, cơ bản, hiện đại, tăng cường
thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào cuộc sống". Trong đề án đổi mới
đó, bộ môn Ngữ văn được xem là một trong những môn sẽ có nhiều thay đổi.
Dạy học văn trong nhà trường giai đoạn hiện nay không phải là học "biết để
chơi" mà là "học biết để làm". Trong đánh giá của các nhà giáo dục cũng như
trong tư tưởng của nhân dân ta môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
vẫn giữ vai trò quan trọng. Vì thế, việc học văn trong nhà trường luôn được
quan tâm và được xem là một trong những môn học chính. Bởi bộ môn này
góp phần tích cực trong việc hình thành nhân cách, giáo dục tư tưởng và nuôi
dưỡng tâm hồn học sinh. Đảm nhận trọng trách lớn cùng với xu hướng phát
triển của thời đại mới, mục tiêu dạy học môn Ngữ văn cũng có những thay
đổi phù hợp. Hiện nay ở cấp THPT "Mục tiêu trực tiếp, chủ yếu của môn Ngữ
văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực đọc - hiểu cũng như tạo
lập các loại văn bản. Chính vì thế, chương trình tạo dựng theo hai loại tích
hợp: Đọc và làm văn" ( Đỗ Ngọc Thống) [8, tr10]. Qúa trình dạy Ngữ văn
-4-
phải hướng tới lợi ích của người học, giúp cho học sinh biết vận dụng những
kiến thức và kỹ năng đã được ứng dụng vào cuộc sống. Đồng thời qua bộ môn
Ngữ văn còn hướng cho học sinh phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, giáo dục tình cảm cao đẹp cho
người công dân tương lai.
Như vậy mục tiêu dạy học văn trong nhà trường phổ thông theo yêu
cầu của đổi mới giáo dục không chỉ rèn luyện năng lực đọc - hiểu cũng như
tạo lập văn bản cho người học mà còn giúp người học khám phá giá trị tác
phẩm không chỉ từ góc độ văn học mà cả giá trị văn hóa dân tộc trong sự sáng
tạo và tiếp thu văn hóa nhân loại. Để từ đó người học - những công dân tương
lai - ý thức được trách nhiệm của bản thân mình trong việc giữ gìn và phát
huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
1.3. Xuất phát từ giá trị văn hóa được lưu giữ trong văn bản "Chiếu cầu hiền"
Dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu, văn học được xem là một bộ
phận của văn hóa. Do vậy, khi tiếp cận văn bản văn học ta sẽ thấy sự gần gũi
về tư tưởng, tình cảm đối với những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc. Văn
hóa đi sâu và ảnh hưởng vào tâm hồn mỗi người từ khi còn nhỏ. Trong kho
tàng văn chương, bất kì một tác phẩm văn học nào cũng đều chứa đựng văn
hóa. Bởi lẽ, tác phẩm văn học chính là chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ tái hiện
đời sống tinh thần của các dân tộc, như là một trong những sản phẩm kết tinh
cao nhất của văn hóa một dân tộc người, một đất nước. "Chiếu cầu hiền" của
Ngô Thì Nhậm cũng là một tác phẩm như vậy. Tác phẩm không chỉ chứa
đựng trong đó đời sống tinh thần của dân tộc mà còn mang nhiều giá trị văn
hóa đặc sắc. Vì thế, văn hóa cũng là một nội dung quan trọng mà nếu không
khai thác, chúng ta sẽ không thấy hết ý nghĩa của văn bản. Do vậy, khai thác
giá trị văn hóa được lưu giữ trong văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì
Nhậm là việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa.
-5-
Mặt khác, xuất phát từ thực tiễn dạy học, từ yêu cầu về việc dạy học
đặc biệt là kiến thức liên môn trong môn Ngữ văn là luôn làm cho học sinh
nhận thức được tác phẩm văn học trong môi trường văn hóa - lịch sử sản sinh
ra nó, thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và lịch sử phát sinh văn
học với các hình thái ý thức xã hội đồng thời giúp cho học sinh khắc phục
được tính tản mạn trong kiến thức văn hóa. Vì vậy, vận dụng tri thức văn hóa
vào đọc hiểu tác phẩm là một cách để học sinh hiểu đúng đắn, sâu sắc nội
dung văn bản. Cho nên người viết lựa chọn đề tài "Dạy học văn bản "Chiếu
cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm từ góc nhìn văn hóa".
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Vấn đề nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận văn hóa
Từ thế kỉ XIX trên thế giới các nhà nghiên cứu đã đưa ra cách tìm hiểu
văn học theo hướng tiếp cận văn hóa. Trường phái văn hóa - Lịch sử và Triết
học thực chứng ở Pháp, người đứng đầu là H.Taine. Sự giao tiếp rộng rãi của
văn bản trong môi trường văn hóa Iu.M.Lotman đã nhận ra sự tương tác của
các kênh thông tin như một phạm trù xã hội. Ở Anh xuất hiện trường phái
Birminh ham (R.Williams, R.Hoggart), Ở Đức với trường phái Frank Furt
(D.Kllur), Ở Nga vào năm 1940 M.Bakhtin viết "Sáng tác của Frabcois
Rabelais với văn hóa dân gian thời trung đại và phục hưng"...
Ở nước ta, phương pháp tìm hiểu văn học theo góc nhìn văn hóa cũng
mạnh nha từ đầu thế kỉ XX. Năm 1945, nhà nghiên cứu Trương Tửu trong
công trình "Kinh thi Việt Nam" đã dùng văn hóa để cắt nghĩa văn học. Sau
này nhiều công trình nghiên cứu của Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoài
Thanh, Nguyễn Văn Huyên... các tác giả như Phan Ngọc (Tìm hiểu phong
cách của Nguyễn Du qua "Truyện Kiều") Trần Nho Thìn (Xác lập phương
pháp tiếp cận văn hóa cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam
trung đại trên cơ sở phân tích Truyện Kiều; Văn học trung đại Việt Nam dưới
-6-
góc nhìn văn hóa); tác giả Đỗ Lai Thúy (Hồ Xuân Hương; hoài niệm phồn
thực), gần đây tác giả Lê Nguyên Cẩn trong bài viết "Tính văn hóa của tác
phẩm văn học" đăng trên Tạp chí khoa học số 2, năm 2006 của ĐHSP Hà
Nội, đã chỉ tác phẩm văn học có giá trị cao về văn hóa và tiếp cận văn hóa là
hướng khai thác có nhiều ý nghĩa. Các luận văn: Dạy học truyện "An Dương
Vương và Mị Châu Trọng Thủy" theo hướng tiếp cận văn hóa(2008), Luận
văn Ths, Lỗ Bá Đại, Dạy học tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cho học sinh vùng
cao theo hướng đối thoại văn hóa (2009), Luận văn Ths, Hoàng Thị Huế, Dạy
học truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân cho học sinh THPT từ cái nhìn văn
hóa (2008), Luận văn Ths, Nguyễn Thị Phương "Dạy học bài thơ "Sóng" của
Xuân Quỳnh cho học sinh THPT từ góc nhìn văn hóa (2014)...cũng đề cập
đến vấn đề văn hóa được biểu hiện thông qua các tác phẩm văn học. Như vậy,
ngày nay trong dạy học môn văn khi khai thác một văn bản văn học, ngoài
việc đi tìm giá trị nhận thức, giá trị tình cảm, giá trị thẩm mĩ thì giá trị văn
hóa ẩn sâu trong mỗi văn bản cũng được coi là một vấn đề quan trọng.
2.2. Nghiên cứu "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm .
Văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm nổi tiếng không chỉ vì
gắn liền với tên tuổi của người anh hùng "áo vải cờ đào "
Quang
Trung
(Nguyễn Huệ) - người đã viết lên trang sử oai hùng, vĩ đại cho dân tộc trong
việc dẹp tan quân Mãn Thanh mà còn nổi tiếng ở chính hoàn cảnh đặc biệt mà
văn bản sinh ra - điểm chót của một thời loạn lạc triền miên kéo dài gần hai
trăm năm làm cho lòng người li tán, đất nước chia lìa. Một lí do nữa không
thể không nói tới, đó chính là tác phẩm được viết bởi Ngô Thì Nhậm - một trí
thức hàng đầu của đất nước thời đó - người đã dám vượt qua mọi dị nghị và lễ
giáo phong kiến để phò tá một đấng minh quân mới vì quyền lợi của đất nước.
Với những yếu tố trên, "Chiếu cầu hiền" xứng đáng là một phẩm văn chính
luận mẫu mực cho thế hệ hôm nay và mai sau học tập.
-7-
"Chiếu cầu hiền" mới được đưa vào chương trình cải cách sách giáo
khoa năm 2000. Đây là một văn bản hay đòi hỏi người học phải có lượng kiến
thức về lịch sử, xã hội, văn hóa sâu rộng mới có thể thẩm thấu giá trị của văn
bản. Điều này đặt ra cho tất cả các giáo viên THPT nói chung và khối 11 nói
riêng cần phải có sự định hướng phù hợp để giúp học sinh đến được với tác
phẩm mà không cảm thấy khô khan, nhàm chán.
Một điều nữa không thể không nói đến là hiện nay văn học trung đại
đang có dấu hiệu xa dần với học sinh do nhiều nguyên nhân. Do không tương
đồng trong cách nghĩ, do môi trường văn hóa - lịch sử khác nhau và do thể
loại văn học xa lạ với học sinh phổ thông hiện nay. Vì vậy, một bộ phận nhỏ
giới trẻ ít thiết tha với lịch sử và những nét đẹp về văn hóa của dân tộc. Thiết
nghĩ, một hạt giống tốt bao giờ cũng được nảy mầm trên một mảnh đất màu
mỡ thì một tác phẩm văn chương có giá trị chắc chắn phải ra đời trong một
hoàn cảnh đặc biệt. Vì vậy, muốn tiếp cận văn bản thì trước hết phải đi vào
cái nơi mà văn bản sinh ra. Do đó, việc chọn văn bản "Chiếu cầu hiền" để
nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa người viết mong muốn có thể góp một phần
nhỏ trong việc tìm ra những cách, những biện pháp phù hợp nhằm đưa học
sinh tiếp cận với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cha ông ta thuở xưa
đồng thời hiểu được những giá trị văn chương mà "Chiếu cầu hiền" đem đến.
Như vậy, thực tiễn đã chứng minh chưa có công trình nào bàn trực tiếp,
cụ thể dạy học văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm từ góc nhìn văn
hóa. Do đó, đây sẽ là một hướng tiếp cận mới mẻ và mang lại ý nghĩa to lớn
cho người học khắc sâu những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng
Trong quá trình thực hiện đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu
văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm.
-8-
3.2 Phạm vi
Do biểu hiện của tri thức văn hóa trong văn bản "Chiếu cầu hiền" của
Ngô Thì Nhậm rất sâu đậm nên trong phạm vi luận văn tập trung nghiên cứu,
tìm hiểu văn bản ở phương diện thể loại, kết cấu, nội dung, tư tưởng chủ đề.
Để từ đó, phục nguyên không gian văn hóa thời trung đại. Phương pháp này
có ý nghĩa trong việc giúp học sinh tiếp cận văn hóa xưa và biết trân trọng
những giá trị văn hóa truyền thống. Đồng thời qua đây sẽ giúp ích cho việc
phân tích các giá trị văn học từ cái nhìn văn hóa.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này, luận văn hướng đến những mục đích sau đây:
Dựa vào phạm trù văn hóa soi tỏ mối quan hệ giữa văn hóa - văn học,
đi sâu vào tìm hiểu ở thể loại Chiếu và văn bản "Chiếu cầu hiền". Những
phương pháp, biện pháp dạy văn bản "Chiếu cầu hiền" từ góc nhìn văn hóa
giúp học sinh hứng thú, say mê đối với việc tìm hiểu văn bản.
Xây dựng thiết kế giáo án dạy học có hiệu quả.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích đặt ra như trên, luận văn đề ra và thực hiện các nhiệm
vụ sau:
Tìm cơ sở khoa học và thực tiễn để hướng dẫn học sinh khai thác văn
bản "Chiếu cầu hiền" bằng cách vận dụng tri thức văn hóa.
Tìm ra phương pháp, biện pháp để vận dụng tri thức văn hóa vào
hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản "Chiếu cầu hiền".
Trình bày giáo án thể nghiệm văn bản "Chiếu cầu hiền" trong đó vận
dụng biện pháp, cách thức vận dụng tri thức văn hóa.
Trước sự đổi thay không ngừng của xã hội, xu hướng quốc tế hóa đang
ngày càng thâm nhập mạnh mẽ, đi sâu vào tiềm thức của thế hệ trẻ hôm nay.
Do đó, giá trị văn hóa truyền thống càng được khắc sâu. Vì vậy, nghiên cứu
-9-
đè tài này người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ của mình giúp cho học
sinh biết giữ gìn và trân trọng vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
Phương pháp liên ngành, liên môn
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp so sánh đối chiếu
Thực nghiệm sư phạm
6. Đóng góp của luận văn
Khai thác hướng tiếp cận mới cho việc đọc hiểu văn bản "Chiếu cầu hiền".
Đưa ra nhứng phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp tạo hứng thú,
say mê cho học sinh trước một văn bản được xem là khó của chương trình
Ngữ văn 11
Tạo giáo án mẫu giúp học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả nhất.
7. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc luận văn gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận, tài
liệu tham khảo.
Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về văn hóa và văn học.
Chương 2: Khai thác tri thức văn hóa hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn
bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm.
Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm vận dụng tri thức văn hóa đọc
hiểu văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm.
- 10 -
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC
1.1. Một số vấn đề về văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một phạm trù rộng bao trùm lên tất cả những gì liên quan
đến con người. Có thể nói, văn hóa là của con người, do con người sáng tạo ra
và vì con người. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu bằng những góc nhìn khác
nhau đã có những cách lí giải và quan niệm riêng về văn hóa. Theo như kết
quả thống kê, hiện nay có khoảng hơn 500 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Ở Việt Nam, nghiên cứu văn hóa xuất hiện vào nửa đầu thế kỉ XX. Người đặt
viên gạch đầu tiên là GS Đào Duy Anh với công trình "Việt Nam văn hóa sử
cương" (1938). Sau đó, vấn đề văn hóa học và văn hóa Việt Nam ngày càng
có nhiều thành tựu. Đặc biệt vào thập niên 90 của thế kỷ XX, văn hóa được
nghiên cứu một cách toàn diện: từ xác định khái niệm, cấu trúc văn hóa đến
loại hình và biểu tượng văn hóa. Thời gian này, hàng loạt các công trình
nghiên cứu về văn hóa ra đời như: Trần Ngọc Thêm "Cơ sở văn hóa Việt
Nam" -1995, Trần Quốc Vượng "Cơ sở văn hóa Việt Nam" - 1997, Phan
Ngọc "Bản sắc văn hóa Việt Nam" - 1998, Nguyễn San và Phan Đăng "Giáo
trinh cơ sở văn hóa Việt Nam" - 2002....
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cho đến
bây giờ văn hóa vẫn là đối tượng phức tạp còn nhiều vấn đề chưa thống nhất.
Mặc dù, các ý kiến có thể khác nhau nhưng có một số định nghĩa tiêu biểu về
văn hóa được giới khoa học thừa nhận, dựa trên các tiêu chí phân loại cụ thể:
Định nghĩa dựa trên sự kế thừa xã hội và tính truyền thông ổn định của
văn hóa "Văn hóa chính là bản thân cách mạng người cho dù là hoang dã
- 11 -
nhất, sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức tạp của tập quán,
ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống" Edward Sapir (61).
Định nghĩa về những gì văn hóa bao hàm theo Edward B.Tylor thì văn
hóa "là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức đức tin, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người
thu nhận với tư cách là một thành viên xã hội" (61).
Dựa trên cấu trúc của văn hóa tiêu biểu là định nghĩa của Ralph Linton
"Văn hóa suy cho cùng là phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành
viên xã hội, văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó
được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa" (61).
Theo quan điểm xã hội học thì "Văn hóa là hình thể chung những ứng
xử đã học được và của những kết quả của chúng mà các yếu tố được thừa
nhận và được truyền bởi các thành viên của một xã hội nhất định" ( "Từ điển
ngôn ngữ Triết học và tâm lí học" - Fonlguie và Saint Jean, Paris 1968).
Triết học của lí luận Marxit quan niệm: "Nói tới văn hóa là nói tới con
người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất người trong quá trình
cải tạo tự nhiên, xã hội, hoàn thiện bản thân theo xu hướng vươn tới cái Chân,
Thiện, Mĩ (dẫn theo 63).
Định nghĩa của Unesco, năm 2002 "Văn hóa nên được đề cập đến như
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức vì xúc cảm của
một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học
và nghệ thuật cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thông và đưa tin" (61).
Các ý kiến có thể khác nhau về cách diễn đạt nhưng nhìn chung vẫn có
những điểm thống nhất ở chỗ coi "văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với tự nhiên, xã
hội và bản thân qua lịch sử lâu dài. Văn hóa thể hiện diện mạo của một cộng
- 12 -
đồng, nhưng nhìn từ góc độ nào đi nữa thì một định nghĩa về văn hóa cũng
phải nêu được những quan niệm về giá trị đã hình thành trong lịch sử, có liên
quan đến con người" .Tuy nhiên, trong luận văn này người viết không đi
nghiên cứu sâu về những lĩnh vực văn hoá chuyên biệt. Trên cơ sở văn hoá
luôn là sự sáng tạo mang tính thẩm mĩ, thể hiện cái đẹp tinh tuý được thẩm
định qua thời gian. Vì vậy, người viết mong muốn vận dụng tri thức văn hoá
để khai thác giá trị văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm . Đây là một
định hướng còn nhiều mới mẻ cho sự vận dụng tri thức văn hoá vào dạy học
văn trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Đặc trưng của văn hóa
Văn hóa là một chỉnh thể rộng lớn và toàn diện. Trong bất kì hiện
tượng nào của đời sống cũng có yếu tố văn hóa hay khía cạnh văn hóa. Vì
vậy, khi nhắc đến những đặc trưng cơ bản của văn hóa đã có nhiều ý kiến
khác nhau. Điều này dễ lí giải bởi do quan niệm khác nhau và sự lựa chọn,
phân tích văn hóa của họ cũng khác nhau. Trên cơ sở những nhà nghiên cứu
và cũng để tương thích cùng với nội dung luận văn xin đưa ra một số đặc
trưng nổi bật của văn hóa:
Thứ nhất, văn hóa có tính nhân bản bởi như chúng ta thấy trong xã hội
văn hóa được coi là tiêu chuẩn để phân biệt con người và động vật, văn hóa
do con người tạo ra và chỉ có ở con người. Văn hóa không có tính di truyền
mà chỉ có tính lưu truyền, nó là sự chuyển giao tự nhiên từ thế hệ này tới thế
hệ khác qua con đường học tập và tự thấm nhuần. Con người biết tích lũy
kinh nghiệm sống, vận dụng năng lực tư duy, sáng tạo tác động và làm biến
đổi hiện thực khách quan theo mong muốn của mình.
Thứ hai, tính truyền thống của văn hóa. Văn hóa không có cái gì hoàn
toàn cụ thể, nhưng lại có mặt ở khắp mọi nơi. Văn hóa được hình thành trong
lịch sử dưới sự tác động của môi trường tự nhiên và xã hội thông qua cách lựa
- 13 -
chọn, cách ứng xử của con người trong quá trình sống. Vì vậy, văn hóa mang
tính ổn định và tính quá trình, các giá trị văn hóa được lưu giữ, lưu truyền qua
các thế hệ làm nên tính truyền thống cho mỗi cộng đồng người. Mỗi cộng
đồng có truyền thống văn hóa mang đặc trưng riêng biệt về nếp sống, cách
suy nghĩ và sinh hoạt cộng đồng, ứng xử... tạo thành bản sắc văn hóa. Bản sắc
văn hóa của cộng đồng dân tộc dễ nhận ra trong sự giao lưu so sánh giữa các
cộng đồng. Người Việt Nam chúng ta có truyền thống văn hóa trọng tình cảm
hơn lí trí, nặng ý thức cộng đồng hơn ý thức cá nhân, tôn trọng gia đình, dòng
họ, tông trọng người cao tuổi... đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta luôn được giữ gìn và phát huy.
Thứ ba, văn hóa có tính lịch sử. Bởi văn hóa là sản phẩm của quá trình
được tích lũy qua nhiều thế hệ. Văn hóa có bề dày, bề sâu và là gốc rễ của
mỗi dân tộc. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Những
sáng tạo của cộng đồng trải qua thời gian, cấu thành nên những giá trị tương
đối ổn định và chính điều đó tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho mỗi dân tộc.
Thứ tư, văn hóa có tính thẩm mĩ. Chúng ta thấy quy luật sáng tạo của
văn hóa là quy luật sáng tạo ra cái đẹp. Sự phát triển của con người gắn với
trình độ sáng tạo và thưởng thức cái đẹp. Cho nên, tất cả những giá trị được
gọi là văn hóa khi nó phù hợp với mĩ cảm của con người. Văn hóa đưa con
người vượt ra khỏi sự hoang dã để đến với cái đẹp. Những hoạt động đầu tiên
của con người bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu vật chất thiết thực, nhưng
theo thời gian, bằng khả năng sáng tạo siêu phàm con người đã làm thay đổi
tất cả. Sự thay đổi ấy chính bởi khát vọng hướng về cái đẹp, cái thiện của con
người.
1.1.3.Văn hóa phản ánh sức sống mạnh mẽ của dân tộc
Mỗi một dân tộc đều có điều kiện địa lý, hoàn cảnh sống riêng, có điều
kiện kinh tế riêng, có thị hiếu thẩm mĩ riêng... để từ đó có cách cảm nhận về
- 14 -
thế giới tự nhiên riêng và sáng tạo thế giới tự nhiên cũng không trùng lặp với
các dân tộc khác. Mặc dù văn hóa luôn có sự phát triển và giao lưu nhưng tính
tiếp biến trong sự kế thừa từ đời này qua đời khác của văn hóa đã cấu thành
nên cho mỗi dân tộc những bản sắc riêng. Văn hóa bản sắc là sắc diện, là
mạch máu thể hiện sức sống dân tộc. Không có được văn hóa bản sắc, con
người mất đi ý thức về tổ quốc, dân tộc, mất đi ý thức làm chủ, quyền tự
quyết tương lai dân tộc và mất đi một phương diện tinh thần quý báu, vô giá
và ý nghĩa cuộc sống nhân sinh. Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào
là nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại
hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là
một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội
họa...phát triển rất cao ảnh hưởng và phổ biến lâu dài đến toàn bộ văn hóa
thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó. Người Việt Nam không có tâm lí kiền
thành, cuồng tín tôn giáo mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn
giáo đều có mặt nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng. Người Việt
Nam coi trọng hiện thế trần tục, mong ước cuộc sống thái bình, an cư lạc
nghiệp, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, chuộng tín
nghĩa... Như vậy, nhìn vào lối sống, quan niệm ta có thể thấy người Việt Nam
có nền văn hóa của mình. Tinh thần của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh
hoạt, dung hóa. Ngoài ra, tư tưởng nhân nghĩa là cốt lõi của văn hóa Việt
Nam, cốt lõi ấy được giữ gìn, được phát huy truyền thống trong trường kì lịch
sử đi lên phát triển của dân tộc đồng thời là niềm tự hào của nhân dân Việt
Nam đối với nhân dân thế giới.
1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.2.1. Văn học là đỉnh cao của văn hóa
Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, tất cả những gì thuộc về con người
thì đều mang biểu hiện văn hóa. Mà như ta hiểu văn học là một dạng hoạt
- 15 -
động tinh thần cao nhất của con người. Cho nên văn học được xem là nơi hội
tụ rất nhiều giá trị văn hóa. Trong khi đó quan hệ giữa văn học và văn hóa là
mối quan hệ hữu cơ mật thiết. Văn hóa chi phối hoạt động và sự phát triển
của văn học, ngược lại văn học cũng tác động đến văn hóa. Những nhà văn
tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hóa lớn. bằng nghệ
thuật ngôn từ họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện văn hóa đồng thời
khẳng định những giá trị văn hóa chân chính. Ở mỗi tác phẩm văn chương
đều ẩn chứa những đặc trưng của đất nước nơi mà tác phẩm được sinh ra.
Không có tác phẩm văn chương nào mà lại không mang trong mình những
dấu ấn văn hóa của dân tộc "Tác phẩm văn chương như là một chỉnh thể nghệ
thuật ngôn từ tái hiện đời sống tinh thần của các dân tộc, như là một trong
những sản phẩm kết tinh cao nhất của văn hóa một tộc người, một đất
nước"[3]. Chính vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng văn học là cái nôi của
mọi nền tảng văn hóa, nó góp phần truyền đạt, lưu giữ và nâng cao các giá trị
văn hóa của dân tộc. Các phong tục văn hóa khi được đưa vào văn học nó trở
nên đẹp hơn và có giá trị hơn. Ngày nay, văn học luôn được coi là đỉnh cao
của văn hóa làm cho văn hóa ngày càng phát triển rộng rãi thu hút được nhiều
người biết đến và đi sâu hơn vào đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người.
1.2.2. Văn học là nơi phản ánh, lưu giữ các giá trị văn hóa.
Tác phẩm là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ, là sản phẩm của một
thời đại. Nhà văn đắm mình trong không khí thời đại, nắm vững tinh thần thời
đại cùng với môi trường, vốn sống, vốn văn hóa....hình thành tư tưởng, thẩm
mĩ trong sáng tác văn chương. Yếu tố văn hóa ảnh hưởng lớn đến sự thành
công của tác phẩm, cách tiếp cận văn hóa trong văn học trong nghiên cứu tác
phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta khám phá chân lí nghệ thuật một cách
đúng đắn nhất. Đối với một tác phẩm văn chương thường chứa đựng trong đó
nhiều biểu hiện của văn hóa như: văn hóa ứng xử, văn hóa tâm linh, tinh thần,
- 16 -
văn hóa phong tục....như vậy văn học là nơi giữ gìn các giá trị văn hóa truyền
thống. Nghiên cứu văn học để làm nổi bật các giá trị mà nó chứa đựng, có
như vậy mới khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu một tác phẩm văn
học. Và ở một tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự tồn tại của giá trị văn
hóa. Ngược lại, tác phẩm đó mang nội dung sâu sắc khi nó được sinh ra trong
cái nôi văn hóa lành mạnh, tích cực. Như vậy, văn hóa góp phần cho sự sáng
tạo ra các tác phẩm văn học, văn học là tấm gương phản chiếu đời sống văn
hóa và giúp con người nhân thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống, ý thức hơn
về cộng đồng, về dân tộc, về truyền thống lịch sử...
1.2.3. Văn hóa là cơ sở, là nền tảng cho văn học ra đời và phát triển.
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc giá trị văn hóa truyền thống
càng được khẳng định và giữ gìn. "Văn hóa là gương mặt của dân tộc"(57),
"văn hóa là cái mà trong một mức độ đáng kể biện minh cho sự tồn tại của
một quốc gia và một dân tộc" [31]. A.Gxpor-kin khẳng định rằng: "cho dù
hàng tỷ những sinh mệnh những con người riêng lẻ cũng không thay thế được
kho báu bất tận của truyền thống văn hóa". Các phong tục văn hóa chính là
dấu ấn lịch sử của cha ông để lại, đó có thể được xem là cơ sở, là nền tảng
vững chắc cho sự ra đời tác phẩm văn học. Văn hóa bao giờ cũng có trước và
là tiền đề cho văn học phát triển và sáng tạo. Một môi trường văn hóa tốt sẽ là
cái nôi vững chắc cho nhiều tấc phẩm văn chương mang giá trị. Do đó, trên
từng trang văn ở các giai đoạn chúng ta có thể nhận rõ luôn mang đạm dấu ấn
văn hóa. Vì thế, muốn khám phá chiều sâu tác phẩm văn học chúng ta phải
giải mã được tri thức về văn hóa, có như thế ta sẽ phục nguyên được không
gian văn hóa trong tác phẩm văn học đó. Như vậy văn học luôn chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa của thời đại và truyền thống dân tộc,
muốn khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn trong chiều sâu mỗi tác phẩm văn chương suy
cho cùng cũng là một cách để chúng ta đi giải mã các giá trị văn hóa được lưu
giữ trong tác phẩm ấy.
- 17 -
1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
1.3.1. Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong dạy học văn
Từ trước đến nay trong dạy học văn truyền thống, chúng ta vẫn có thói
quen đi theo một mô típ quen thuộc đó là dạy văn chỉ chú ý vào khai thác các
vấn đề đạo đức, chính trị, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo chứ chưa chú ý
vào giá trị văn hóa truyền thống. Để ra đời một tác phẩm văn học, nhà văn
bao giờ cũng lấy giá trị văn hóa truyền thống làm nền tảng. Bởi văn hóa là
nguồn mạch của tất cả các giá trị truyền thống. Dòng chảy của văn học cũng
bắt nguồn từ đây, cho nên "Văn học nếu có chức năng phản ánh hiện thực thì
cũng không thể phản ánh trực tiếp được mà chỉ có thể phản ánh thông qua
lăng kính văn hóa, thông qua "bộ lọc" của các giá trị văn hóa" (Đỗ Lai Thúy).
Như vậy, văn hóa là cái nôi nuôi dưỡng cho văn học, mỗi tác phẩm văn học
luôn mang đậm hơi thở của dân tộc và ẩn chứa trong đó nhiều giá trị văn hóa
truyền thống. Do đó, có thể coi văn học là nơi lưu giữ tốt nhất các giá trị văn
hóa cổ xưa. Vậy nên việc dạy và học văn đóng vai trò quan trọng trong việc
khai thác các giá trị văn hóa. Và việc biết cách khai thác các giá trị văn hóa
trong mỗi văn bản văn học cũng sẽ làm phong phú, sinh động hơn cho một
tiết văn. Thông thường mỗi khi bắt tay vào nghiên cứu một tác phẩm văn học
bao giờ cũng cần lưu ý đến hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để hiểu sâu giá trị
văn hóa được lưu giữ ở đó. Vậy thực tế chứng minh việc khai thác giá trị văn
bản văn học là một hình thức gián tiếp để làm nổi bật giá trị văn hóa mà nó
chứa đựng. Do đó, dù muốn hay không thì ta phải khẳng định rằng văn hóa
bao giờ cũng tồn tại trong văn học. Vì vậy mà việc nghiên cứu văn học không
thể tách rời văn hóa, luôn song hành để tìm thấy được những dấu ấn riêng.
Người dạy, muốn truyền tải được hết cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn
học thì phải đặt tác phẩm văn học đó vào không gian văn hóa cụ thể, hay nói
cách khác phải biết lấy văn hóa làm cơ sở. Đây là một hướng khai thác rất cần
- 18 -
và cùng phù hợp cho việc dạy học trong gia đoạn hiện nay. Chẳng hạn dạy bài
"Chữ Người tử tù" của Nguyễn Tuân, "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài, "Rừng
xã nu" của Nguyễn Trung Thành, đoạn trích "Đất Nước" (trích Trường ca mặt
đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm....mà không lấy các giá trị văn hóa
làm nền tảng thì không thể khám phá thành công tác phẩm. Như vậy, ta có thể
khẳng định khai thác giá trị văn hóa của tác phẩm sẽ làm cho tiết học đó thêm
sâu sắc và hấp dẫn. Nhưng quan trọng hơn sẽ giúp cho học sinh hiểu, yêu mến
các giá trị văn hóa truyền thống để từ đó các em biết trân trọng, giữ gìn và
bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
1.3.2. Cảm thụ tác phẩm văn chương từ góc nhìn văn hóa
Văn học không chỉ thụ động chịu sự chi phối, quy định của văn hóa mà
nó còn tích cực chủ động trong việc lựa chọn các giá trị văn hóa. Các giá trị
văn hóa được đề cập đến trong văn học bao giờ cũng là những giá trị tiêu biểu
và đặc sắc nhất, văn học lựa chọn những giá trị đó để đề cao văn hóa của dân
tộc và tô đẹp thêm truyền thống của đất nước. Hiện nay, việc dạy học tác
phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông đều nhằm mục đích giúp cho
học sinh có thể chiếm lĩnh toàn bộ giá trị ẩn chứa bên trong văn bản. Giá trị
trong mỗi văn bản văn học không chỉ về mặt ngôn từ nghệ thuật, thi pháp, thể
loại, cá tính sáng tạo của nhà văn, bài học nhận thức mà còn cần giúp học sinh
hiểu và cảm nhận vẻ đẹp văn hóa trong mỗi văn bản đó. Việc tiếp cận văn hóa
ở tác phẩm văn học là một hướng khai thác mới, với hướng đi này sẽ giúp cho
giờ học Ngữ văn thêm phần sinh động, giúp cho người học nhận thức sâu sắc
hơn vai trò của văn hóa đối với dân tộc. Tuy nhiên, cũng cần phải hết sức lưu
ý phân biệt rõ ràng văn học là văn học, chúng ta không thể biến văn học thành
văn hóa trong giờ học văn. Việc tiếp cận văn hóa trong dạy học tác phẩm văn
chương nhằm mục đích kiếm tìm những vẻ đẹp văn hóa, giá trị văn hóa của
tác phẩm. Có thể thấy tiếp cận văn hóa cũng là một con đường để giúp người
- 19 -
học khám phá được vẻ đẹp của tác phẩm văn chương, bởi khi ta mang văn
bản văn chương soi dưới cái nhìn văn hóa sẽ giúp cho người học khám phá
một cách đầy đủ, trọn vẹn cái hay ẩn chứa trong văn bản văn chương đó.
- 20 -
Chương 2
KHAI THÁC TRI THỨC VĂN HÓA HƯỚNG DẪN HỌC SINH
TÌM HIỂU VĂN BẢN "CHIẾU CẦU HIỀN" CỦA NGÔ THÌ NHẬM
2.1. Khảo sát thực trạng dạy học "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm ở
nhà trường phổ thông hiện nay
2.1.1. Mục đích khảo sát
Văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm là một trong những văn
bản thuộc thời kì văn học trung đại, lại liên quan đến nhiều sự kiện lịch sử và
là tác phẩm mới được đưa vào chương trình cải cách sách giáo khoa gần đây.
Qua thực tế giảng dạy văn bản cho thấy còn có nhiều vấn đề cần phải lưu tâm
khi tiến hành vào đọc hiểu văn bản. Vì vậy người viết tiến hành khảo sát văn
bản "Chiếu cầu hiền nhằm mục đích sau:
Thứ nhất: Nhằm có những định hướng phù hợp để cung cấp lượng kiến
thức về lịch sử, xã hội sâu rộng để có thể giúp các em học sinh không chỉ đến
được với tác phẩm, cảm nhận được trọn vẹn giá trị sâu sắc trong tác phẩm mà
còn biết dựa trên kiến thức nền về văn học để cụ thể hóa việc phân tích văn
bản từ góc nhìn văn hóa.
Thứ hai: Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giảng dạy hiện nay, cần
phải có kiến thức liên môn trong quá trình giảng dạy. Mở rộng kiến thức
không chỉ ở lĩnh vực văn học mà còn ở lĩnh vực lịch sử, địa lí, Văn hóa....
Trên cơ sở đó, cho học sinh thấy được mối quan hệ gắn bó giữa các lĩnh vực
lịch sử, văn hóa, địa lí và văn học
2.1.2. Đối tượng khảo sát
Để tìm hiểu việc dạy văn bản "Chiếu cầu hiền" ở nhà trường phổ thông
trong giai đoạn hiện nay, người viết tiến hành khảo sát hai đối tượng cơ bản
- 21 -
tham gia trực tiếp vào quá trình dạy và học của nhà trường đó là giáo viên và
học sinh.
Đối với giáo viên: Qua trao đổi chuyên môn và trực tiếp dự giờ giảng
dạy của giáo viên, người viết nhận thấy rằng để dạy tốt văn bản "Chiếu cầu
hiền" giáo viên phải chú trọng đến hoàn cảnh lịch sử, những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc trên cơ sở đó sẽ cảm nhận được sâu sắc giá trị văn
chương. Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải có điểm nhìn đúng, tích hợp kiến thức
liên môn để khai thác giá trị văn bản.
Đối với học sinh: Với tư cách vừa là người tiếp nhận đồng thời vừa là
chủ thể của quá trình dạy học, việc khảo sát cần phải đánh giá được mức độ
tiếp nhận của học sinh về văn bản.
2.1.3. Quá trình khảo sát
Trong quá trình thực hiện luận văn này, người viết đã tiến hành khảo
sát thực tiễn dạy văn bản "Chiếu cầu hiền" ở lớp 11C2, 11D1 trường THPT
Việt Bắc - Lạng Sơn và lớp 11C trường THPT Chuyên Chu Văn An - Lạng
Sơn. Cùng với quá trình khảo sát học sinh người viết có tham khảo một số
giáo án giảng dạy của giáo viên soạn giảng văn bản. Qua quá trình tiến hành
khảo sát ở những trường phổ thông khác nhau, địa bàn khác nhau, đối tượng
học sinh khác nhau. Được tiếp cận trực tiếp vào quá trình dạy và học văn bản
"Chiếu cầu hiền" vì thế kết quả khảo sát mang tính khách quan và chính xác
hơn. Từ những kết quả thu được, người viết ý thức được rõ thực trạng dạy và
học văn bản "Chiếu cầu hiền" trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời cũng qua
việc khảo sát thực tiến giảng dạy đã giúp cho người viết có cái nhìn sát thực
hơn trong việc dạy học một văn bản trung đại cụ thể là văn bản "Chiếu cầu
hiền" nói riêng và việc dạy học văn nói chung. Điều này có ý nghĩa vô cùng
quan trong đối với yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
- 22 -
2.1.4. Kết quả khảo sát
Qua việc phát phiếu điều tra ở lớp 11C2, 11D1 trường THPT Việt Bắc
- Lạng Sơn và lớp 11B, 11C trường THPT Chuyên Chu Văn An - Lạng Sơn,
cùng với việc điều tra giáo viên Ngữ văn của cả hai trường. Chúng tôi nhận
về được kết quả như sau:
Về phía giáo viên:
Kết quả tổng hợp
Trường Việt Bắc -
Trường Chuyên Chu
Lạng Sơn
Văn An - Lạng Sơn
19/19 = 100%
17/17 =100%
19/19=100%
17/17=100%
10/19 = 52,6%
6/17 = 35,2%
15/19 = 79%
16/17 = 94%
Số giáo viên dạy quan
tâm đến giá trị nội
dung, giá trị nghệ thuật
trong văn bản "Chiếu
cầu hiền".
Số giáo viên dạy quan
tâm đến vai trò của lịch
sử để khai thác thông
tin trong văn bản
Số giáo viên dạy không
quan tâm đến dấu ấn
của văn hóa biểu hiện
trong văn bản
Số giáo viên cho rằng
việc dạy văn bản hiện
nay cần chú ý đến tố
văn hóa và nhận thức
được mối quan hệ giữa
văn hóa và văn học
Về phía học sinh:
- 23 -
Kết quả tổng
hợp
Lớp 11C
Lớp 11C2
Lớp 11D1
trường THPT
Trường THPT
Việt Bắc
Việt Bắc
30/34 = 88,2%
31/35 = 88,5%
35/35 = 100%
25/34 = 73,5%
25/35 = 71,4%
30/35 = 85,7%
12/34 = 35,2%
10/35 = 28,5%
16/35 = 45,7%
17/34 = 50%
16/35 = 45,7%
24/35 = 68,5%
Trường THPT
Chuyên Chu
Văn An
Số học sinh nắm
được kiến thức
cơ bản về văn
bản ( gồm có giá
trị nội dung và
giá
trị
nghệ
thuật)
Số học sinh quan
tâm đến vai trò
của lịch sử để
khai thác thông
tin trong văn bản
Số học sinh nhận
thức được vai trò
của
văn
hóa
truyền thống ảnh
hưởng trong văn
bản
Số học sinh yêu
thích
và
hào
hứng trong việc
tìm hiểu văn bản
"Chiếu cầu hiền"
2.1.5. Nguyên nhân
Qua việc điều tra khảo sát ở hai ngôi trường trên địa bàn thành phố
- 24 -
Lạng Sơn, đối tượng học sinh và giáo viên khác nhau người viết nhận thấy
rằng: Tuy môn văn là môn học chính trong chương trình trung học phổ thông
nhưng hiện nay học sinh lại rất lơ là, thờ ơ không có hứng thú học cũng như
tìm hiểu văn bản. Bên cạnh đó một bộ phận nhỏ các em học sinh còn có tư
tưởng cho rằng môn Ngữ văn chỉ là một một học phụ, không có vai trò gì đối
với quá trình nhận thức của các em. Vì vậy mà trong quá trình học các em
không dành thời gian cho bộ môn này. Từ thực trạng chung về bộ môn, người
viết nhận thấy thật đáng lo ngại. Khi được phát phiếu điều tra khảo sát trực
tiếp vào văn bản "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm, các em học sinh nhìn
chung đều có những câu trả lời khá trùng họp nhau. Khi học văn bản, các em
đa phần chỉ quan tâm đến giá trị nội dung và nghệ thuật trong văn bản, ngoài
ra các giá trị khác các em không quan tâm đến. Vẫn biết với một tác phẩm
văn học bao giờ cũng thế hoàn cảnh lịch sử đóng vai trò quan trọng như là
chiếc chìa khóa giúp người học mở vào chiều sâu văn bản. Đặc biệt ở văn bản
"Chiếu cầu hiền" lại được viết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thế
nhưng vẫn có học sinh trả lời không quan tâm đến yếu tố lịch sử khi đi khai
thác văn bản. Còn vai trò của văn hóa truyền thống là gì? và giá trị của nó tồn
tại trong văn bản ra sao thì chỉ một số ít học sinh quan tâm đến. Một điều
khiến cho người viết trăn trở khi nhận được phiếu khảo sát từ các em, đó là
khi hỏi các em có hào hứng và yêu thích trong việc đi tìm hiểu văn bản
"Chiếu cầu hiền" không thì con số yêu thích đa phần chỉ chiếm được một nửa
trong tổng số mỗi lớp. Từ thực trạng trên đây, cũng phản ánh một phần của
việc dạy và học văn hiện. Người viết theo đánh giá chủ quan của bản thân xin
được rút ra một vài nguyên nhân chính như sau đối với việc học sinh xa rời
văn bản, không hào hứng đối với việc tìm hiểu văn bản.
Thứ nhất: "Chiếu cầu hiền" của Ngô Thì Nhậm là văn bản thuộc thời kì
văn học trung đại. Thời kì văn học này đến giai đoạn hiện nay có một bộ phận
- 25 -