Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

TÁC PHẨM NGƯỜI NGỰA và NGỰA NGƯỜI của NGUYỄN CÔNG HOAN từ QUAN điểm của PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.68 KB, 143 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----˜&™----

LƯƠNG THỊ NGHĨA

TÁC PHẨM "NGƯỜI NGỰA VÀ NGỰA NGƯỜI"
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN TỪ QUAN ĐIỂM
CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS DIỆP QUANG BAN

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS Diệp Quang Ban,
người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tôi tận tình trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn sự dạy bảo nhiệt tình của quý thầy cô trong tổ Ngôn ngữ khoa Ngữ văn - trường ĐHSP Hà Nội, các thầy cô từ các đơn vị khác đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi hoàn thành các chuyên đề của khóa đào tạo.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong Hội đồng khoa
học bảo vệ luận văn đã góp ý, bổ sung cho luận văn được hoàn thiện.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Học viên



Lương Thị Nghĩa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

DN

Diễn ngôn

2

DH

Dụng học

3

HĐNN

Hành động ngôn ngữ


4

NNH

Ngôn ngữ học

5

PTDN

Phân tích diễn ngôn

6

PTDNPB

Phân tích diễn ngôn phê bình

7

PTTP

Phân tích tác phẩm

8

VB

Văn bản



MỤC LỤC
Trang

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, HÌNH
Trang
Bảng
Bảng 2.1: Thống kê các từ ngữ dùng theo phong cách khẩu ngữ trong tác phẩm
"Người ngựa và ngựa người" của Nguyễn Công Hoan...............Error:
Reference source not found
Sơ đồ

Hình 1.1. VB là bề mặt của ngôn từ, DN thuộc về nghĩa-logic và chức năng
........................................................ Error: Reference source not found
Hình 1.2. Tất cả đều là DN, cái nào được ghi lại thì gọi là VB. Error: Reference
source not found
Hình 1.3: Lược đồ cách tiếp cận ba chiều đo của N. Fairclough................Error:
Reference source not found
Hình 2.1:

Bố cục tác phẩm "Người ngựa và ngựa người" của Nguyễn Công Hoan
............................................................ Error: Reference source not found


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngữ cứu các tác phẩm văn chương chỉ ở giác độ đóng kín, nhìn tác phẩm

văn học như một chỉnh thể trọn vẹn và chỉ nghiên cứu trong hệ nội tại.
Tuy nhiên, trên thế giới, từ những năm 60 của thế kỉ XX cho đến nay, việc
nghiên cứu văn học, trong đó có phê bình văn học, chấp nhận việc vận dụng kết quả
nghiên cứu NNH (cấu trúc luận NNH và kí hiệu học). Đặc biệt là sự kết nối giữa
NNH và văn học thông qua phê bình NNH.
Hướng nghiên cứu “ngôn ngữ để làm gì?” và việc quan tâm đến cách dùng
ngôn ngữ như thế nào để đạt được ý định của người dùng nó có ý nghĩa quan trọng
đối với việc nghiên cứu DN, kể cả DN nghệ thuật. Vì điều đó dẫn tới sự chuyển
hướng nghiên cứu từ việc xem “DN có ý nghĩa gì?” đến việc xem xét “DN có ý
nghĩa đó bằng cách nào?”
Hướng nghiên cứu này đòi hỏi người phê bình không chỉ xem xét DN như là
một chỉnh thể trọn vẹn, trong mối quan hệ nội tại, mà còn phải xem xét đến những
yếu tố bên ngoài như ngữ cảnh tình huống, phương diện vật lí, xã hội, văn hóa...
Để đạt được mục đích đó, PTDN và DH bổ sung cách PTTP bằng một
số thao tác để thấy rõ hơn nhân sinh quan , thế giới quan của tác giả trong DN
văn chương.
Như vậy, PTDN và DH thiên về cách tìm chứng cứ ngôn từ, dấu vết ngôn
ngữ trong cách dùng chúng của tác giả, để nhận ra thái độ, tư tưởng và cách sử dụng
ngôn ngữ của chính tác giả.
1.3. "Người ngựa và ngựa người" là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyễn
Công Hoan
Nguyễn Công Hoan được đánh giá là một nhà văn lớn. Tuy nhiên, nói đến tài
năng và phong cách Nguyễn Công Hoan, trước hết người ta nhớ đến ông như nhớ
đến một cây bút truyện ngắn trào phúng bậc thầy. Ông viết rất nhiều, có tới trên hai
trăm truyện ngắn - một con số kỷ lục trong văn học Việt Nam. Và chính ở truyện
ngắn, vị trí vẻ vang trong văn học sử của ông mới thật sự được khẳng định.

1



Nguyễn Công Hoan có nhiều truyện ngắn xuất sắc, trong đó "Người ngựa và
ngựa người" là một truyện ngắn tiêu biểu. Trong truyện, tác giả đã tạo dựng xung đột bi
hài kịch của anh phu xe, đồng thời dẫn dắt các tình tiết nhằm phóng đại xung đột đó lên
theo lối tăng cấp. Truyện kể cứ như "bịa" nhưng đây là "chuyện bịa có thật" bởi mọi chi
tiết, tình tiết được tác giả sắp xếp, dẫn dắt theo một mạch kể hợp lôgic. Tất cả đều tham
gia vào việc tăng cấp xung đột trào phúng để cuối cùng bộc lộ xung đột ấy một cách đột
ngột, bất ngờ khi cô gái giang hồ "chuồn" mất. Tiếng cười đã bật ra. Nhưng đó là tiếng
cười đau xót cho những kiếp người cùng khổ, tiếng cười hoà nước mắt. Cái kết thúc thật
đau buồn: anh phu xe bàng hoàng khi biết mình bị lừa, bao nhiêu hy vọng đặt vào
chuyến khách đêm tất niên tan thành mây khói, lòng chết cay, chết đắng, anh lủi thủi dắt
xe đi giữa lúc tiếng pháo chào năm mới nổ ran khắp nơi! Trong tiếng cười trào phúng, có
niềm thương cảm chân thành của nhà văn đối với số phận kẻ nghèo.
Cái nhìn hiện thực, tấm lòng nhân hậu và sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn
Công Hoan đã khiến tác phẩm này nói riêng và truyện ngắn nói chung của ông có
một vị trí lớn trong văn mạch của dân tộc. Tác phẩm đã được chuyển thể trong lĩnh
vực sân khấu để quảng bá tới quảng đại quần chúng và được dịch ra nhiều thứ tiếng
trên thế giới. Tuy nhiên, ý nghĩa của "Người ngựa và ngựa người" trước nay mới
chỉ được tiếp cận dưới góc độ lý luận văn học mà chưa được tìm hiểu ở khía cạnh
ngôn ngữ, đặc biệt là PTDN.
Lựa chọn "Người ngựa và ngựa người", chúng tôi có mong muốn được nhìn
nhận tác phẩm dưới góc độ liên ngành: ngôn ngữ và văn học. Từ đó, củng cố và bổ
sung những gợi ý cho quá trình tìm hiểu, PTTP "Người ngựa và ngựa người". Đồng
thời, đây cũng là đề tài góp phần làm phong phú thêm hướng tiếp cận tác phẩm từ lý
thuyết PTDN. Đó là những động lực để chúng tôi lựa chọn Tác phẩm "Người ngựa
và ngựa người" của Nguyễn Công Hoan từ quan điểm của Phân tích diễn ngôn
làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu lí thuyết phân tích diễn ngôn
Trên thế giới, PTDN xuất hiện từ những năm 50 của thế kỉ XX và có rất
nhiều công trình nghiên cứu khó có thể hệ thống hết được trong phạm vi đã tài này.


2


Những công trình nghiên cứu có tính cốt lõi của lý thuyết này được du nhập vào
Việt Nam từ những năm 80 của thế kỉ XX, dưới hình thức giới thiệu phần lý thuyết
bằng tiếng Việt và dịch sang tiếng Việt. Để có được thành tựu đáng kể như hiện
nay, PTDN đã trải qua quá trình định hướng, phát triển lâu dài với nhiều khó khăn
và nỗ lực đóng góp của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. PTDN được coi là "giai đoạn
2" của ngữ pháp văn bản (giai đoạn chuyển tiếp từ nghiên cứu câu lên các đơn vị
trên câu). Vì thế, lý thuyết của PTDN có sự kế thừa thành quả của ngữ pháp văn bản
(VB). Tuy nhiên, nhiệm vụ của PTDN không dừng lại ở việc nghiên cứu mối quan
hệ nội tại của câu, mà thiên về phân tích mối quan hệ giữa kết cấu ngôn từ bên
trong VB với những yếu tố bên ngoài VB.
PTDN lần đầu tiên được Z. Harris giới thiệu vào năm 1952. Trong bài báo
của mình, ông đưa ra khái niệm "diễn ngôn" là VB liên kết ở bậc cao hơn câu.
Nhưng ông lại kết luận: tất cả các kết quả trong mỗi ngôn ngữ đều nằm trong câu.
Vì thế, quan điểm của Z. Harris vẫn chưa thoát khỏi lĩnh vực ngữ pháp VB. Đúng
như M. Coulthard đã nhận định: "Bài báo của Z. Harris, mặc dù có nhan đề đầy
hứa hẹn PTDN, thực ra nó làm ta thất vọng" (Dẫn theo Diệp Quang Ban [9; 14].
Phải qua một thời gian dài cùng với các công trình nghiên cứu của Mitchell 1957,
G. Brown và G. Yule năm 1983, D. Nunan năm 1985, thì PTDN mới trở nên phổ
biến, được giới nghiên cứu chấp nhận và thúc đẩy việc tìm hiểu.
Ở Việt Nam, PTDN được các nhà ngôn ngữ quan tâm muộn hơn, khoảng
những năm 80 của thế kỉ XX. Tác giả Đỗ Hữu Châu đã sử dụng thuật ngữ "diễn
ngôn" trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học tập 2, Nxb Giáo dục, 1993. Trần Ngọc
Thêm đề cập đến PTDN khi nghiên cứu Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nhà
nghiên cứu Diệp Quang Ban cũng có nhiều công trình nghiên cứu về DN như bài
báo "Hai giai đoạn của ngôn ngữ học văn bản và tên gọi phân tích diễn ngôn" trên
tạp chí Ngôn ngữ, số 2/1999, công trình Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản

(2009). Diệp Quang Ban đã chú trọng vào các vấn đề như: khái niệm DN và PTDN,
ngữ vực, mạch lạc, liên kết... Đặc biệt, trong hệ thống lý thuyết về ngữ vực, nhà
nghiên cứu đã hướng đến mối quan hệ giữa VB và các yếu tố ngoài VB. Nhà nghiên

3


cứu Nguyễn Hòa cũng đóng góp nhiều công trình cho lĩnh vực này như: Phân tích
diễn ngôn, một số vấn đề lí luận và phương pháp (2003), Phân tích diễn ngôn phê
phán: Lí luận và phương pháp (2006)... Với hai công trình này, tác giả đã đưa ra
một cái nhìn tổng thể về PTDN và PTDN phê phán. Tác giả Đinh Văn Đức với
Ngôn ngữ học đại cương- những nội dung quan yếu (2012) cũng đề cập đến các
khía cạnh của bộ môn này trong chương 11. Nguyễn Chí Hòa có công trình Các
phương tiện liên kết và tổ chức văn bản (2006), nghiên cứu về liên kết trong VB, Lê
Thị Thu Bình với Phân tích diễn ngôn đoạn văn mở đầu trong truyện ngắn (2011)...
Những công trình này đều hướng đến cái nhìn bao quát về những vấn đề cốt lõi của
PTDN như tên gọi, ngữ vực, liên kết, mạch lạc, cấu trúc tin, phân loại DN.
Ngoài ra, còn có các bài viết như: Bước đầu nhận diện về diễn ngôn, diễn
ngôn văn học, diễn ngôn thơ của Trần Thiện Khanh (2012), Ba cách tiếp cân khái
niệm diễn ngôn của Nguyễn Thị Ngọc Minh (2012), Khái niệm diễn ngôn trong
nghiên cứu văn học hôm nay của Trần Đình Sử (2013). Phân tích diễn ngôn, ứng
dụng vào phân tích một truyện cười của Trần Kim Phượng (2013). Các bài viết này
đã nêu lên cách thức tiếp nhận bộ môn này, ứng dụng các cách thức của bộ môn này
vào việc tìm hiểu tác phẩm văn chương.
Các bài khóa luận, luận văn, luận án cũng ứng dụng PTDN vào việc tìm hiểu
tác phẩm. Chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình như: luận văn Phân tích diễn
ngôn ứng dụng vào việc nghiên cứu nhân vật Hoạn Thư trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du (2009) của Lê Thùy Giang với nội dung chính là phân tích nhân vật Hoạn
Thư trong thực tế DN bằng suy diễn, qua đó tìm thấy dấu ấn thực tế văn hóa- xã hộ;
Luận án Một số tác phẩm của Nam Cao dưới ánh sáng của phân tích diễn ngôn và

dụng học (2014) của Vũ Văn Lăng tập trung vào khai thác hai tác phẩm Chí Phèo và
Sống mòn dưới ánh sáng của PTDN; Luận văn Tiếp cận tác phẩm "Lão Hạc" của
Nam Cao từ lý thuyết phân tích diễn ngôn (2014) của Hà Bích Thủy; Tiếp cận tác
phẩm "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu từ lý thuyết phân tích diễn
ngôn (2014) của Quách Thị Thanh Nhàn; khóa luận Ngôn ngữ quảng cáo nhìn từ góc
độ phân tích diễn ngôn (2014) của Vũ Nguyễn Nam Khuê và Tiếp cận tác phẩm "Vợ
nhặt" của Kim Lân từ lý thuyết phân tích diễn ngôn (2015) của Nguyễn Thị Vân Anh.

4


Các công trình này đã ứng dụng PTDN vào khai thác ngữ liệu trên các mặt ngữ vực,
liên kết, mạch lạc cho nhiều kết quả sâu sắc.
Từ những khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy: Về mặt lý thuyết, đã có nhiều
cách nhìn về PTDN, như quan niệm của các tác giả về DN, những xu hướng tiếp
cận DN theo quan điểm của NNH, phong cách học hay xã hội học... Và rất nhiều
khái niệm DN nhìn từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Về mặt thực tiễn, những năm gần
đây đã xuất hiện những công trình, những bài viết ứng dụng PTDN vào việc phân
tích một tác phẩm cụ thể. Tuy nhiên, đường hướng này vẫn còn là địa hạt mới mẻ
và màu mỡ để chúng tôi tìm hiểu và mở rộng phạm vi của nó.
2.3. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan từ giác độ nghiên cứu văn học
Nguyễn công Hoan là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời và
sự nghiệp văn học của ông đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Ngay
từ những tác phẩm đầu tay của ông, đã có nhiều bài giới thiệu và phê bình. Ông được
xem xét kỹ ở mỗi giai đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả phê bình, tiểu luận.
Chúng tôi đã tiếp cận được một số công trình như: Nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan trước cách mạng (1997) của Lê Thị Bình; Ba phong cách trào
phúng trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam,
Nam Cao (1999) của Trần Ngọc Dung; Cấu trúc tin và cấu trúc cú pháp trong câu đơn
tiếng Việt qua một số truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2009) của Nguyễn Thị Thu

Dung; Chức năng ngữ nghĩa của từ tình thái đứng đầu phát ngôn trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan (2010) của Võ Thị Dung; Đặc điểm ngôn ngữ miêu tả cử chỉ
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2012) của Mai Thị Thanh Huyền; Phân tích
hội thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan (2014) của Đặng Thị Thanh
Tâm... Tác phẩm "Người ngựa và ngựa người" cũng đã được tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau. Đặc biệt ở lĩnh vực sân khấu, tác phẩm được đông đảo độc giả đón nhận.
Nhưng những bài viết, công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và tác phẩm của
ông đều dưới góc độ phê bình, lý luận văn học. Cũng có một số công trình vận dụng lý
thuyết PTDN nhưng vẫn ở mức độ khái quát.
Vì vậy, chúng tôi hy vọng thông qua đề tài này, có thể vận dụng lý thuyết

5


PTDN nghiên cứu chuyên sâu tác phẩm Người ngựa và ngựa người. Đây là hướng
đi mà chúng tôi tin sẽ có những đóng góp hữu ích cho xu hướng nghiên cứu văn học
gắn liền với ngôn ngữ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích ngiên cứu
Đề tài Tác phẩm "Người ngựa và ngựa người" của Nguyễn Công Hoan từ
quan điểm của Phân tích diễn ngôn nhằm vào các mục đích sau:
• Thực thi một hướng tiếp cận mới đối với văn bản nghệ thuật từ góc độ
Ngôn ngữ (cụ thể từ góc độ PTDN). Thông qua đó, làm rõ các giá trị về nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
• Góp sức vào việc xây dựng một cách nhìn có thêm cơ sở và đáng tin cậy
đối với PTDN.
• Góp phần khám phá tài năng của Nguyễn Công Hoan qua tác phẩm
"Người ngựa và ngựa người".
• Có thể làm tư liệu cho các nghiên cứu khác về vấn đề có liên quan tới nội
dung luận văn.

• Góp phần khẳng định thêm vị thế của PTDN trong thực tiễn văn học và
đời sống.
• Bổ sung kiến thức về tác giả Nguyễn Công Hoan và tác phẩm "Người
ngựa và ngựa người" cho học sinh phổ thông và đồng nghiệp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên khung lí thuyết chung về PTDN, đặc biệt là những đường hướng
PTDN phê bình và các đặc trưng của DN văn chương, để tìm hiểu DN cụ thể về tác
phẩm văn học, qua đó làm nổi bật được giá trị của tác phẩm văn học từ quan điểm
của PTDN.
Nhiệm vụ của người nghiên cứu, không chỉ căn cứ vào từ ngữ trong tác
phẩm hay dừng lại ở ý nghĩa sẵn có của từ ngữ, mà quan trọng hơn là phải “suy
diễn” một cách có cơ sở các từ ngữ có mặt đó, để tìm ra nội dung trên, khi chúng
không được gọi tên một cách trực tiếp trong tác phẩm. Do đó, có thể thu được

6


những kết quả mới và những kết quả trùng với kết quả đã có của giới phê bình
văn học.
Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể trong kết quả đạt được từ PTDN: đó là
cách phân tích dựa chắc trên cơ sở ngôn từ của tác phẩm trong ngữ cảnh tình huống
cụ thể của chúng và sử dụng cách suy diễn, cách biện luận để tìm đến các nguyên
do vững chắc của các sự kiện. Đây chính là cách làm việc của người đọc hiểu, lí
giải một DN cụ thể cần phân tích.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác phẩm "Người ngựa và ngựa người" của Nguyễn
Công Hoan từ giác độ PTDN
- Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ VB "Người ngựa và ngựa người" của
Nguyễn Công Hoan trích trong Tuyển tập Nguyễn Công Hoan truyện ngắn chọn
lọc, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (từ trang 52- 61).

Việc tiếp cận tác phẩm này từ quan điểm của PTDN có rất nhiều khía cạnh
để nghiên cứu, nhưng để đảm bảo tính chuyên sâu và dung lượng của một luận văn
thạc sĩ, chúng tôi chỉ tập trung vào các vấn đề: Bố cục - thời gian - nhân vật - lập
luận - cách dùng ngôn ngữ - kí hiệu học xã hội và mạch lạc trong tác phẩm "Người
ngựa và ngựa người".
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp và thủ pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp PTDN (nêu trong chương 1: Cơ sở của PTDN), phương pháp
được sử dụng trong toàn bộ quá trình tiếp cận tác phẩm.
- Phương pháp phân tích, miêu tả: chúng tôi sử dụng phương pháp này trong
chương 2 và 3 của luận văn để tìm ra giá trị của DN
- Các thủ pháp nghiên cứu khoa học nói chung: thống kê, phân loại, tổng
hợp… chúng tôi sử dụng để xem xét tác phẩm từ góc độ của PTDN.
6. Đóng góp của luận văn
a. Nội dung cơ bản của PTDN làm cơ sở cho thực hành PTDN.
b. Vận dụng PTDN để PTTP "Người ngựa và ngựa người", phần trọng tâm

7


này chứa đựng những đóng góp mới sau đây của luận văn:
• PTTP "Người ngựa và ngựa người" trong thực tế DN bằng biện luận. Căn cứ
biện luận dựa trên những từ ngữ, câu, chữ trên bề mặt tác phẩm và các kiến thức nền về
thực tiễn văn hóa- xã hội, điều kiện kinh tế, lịch sử của thời đại tác phẩm "Người ngựa
và ngựa người" thuộc vào, từ hệ tư tưởng của tác giả.
• Qua tác phẩm "Người ngựa và ngựa người", có thể biện luận rộng đến
thực tế văn hóa - xã hội thời đại của tác phẩm và Nguyễn Công Hoan sống, cũng
như biện luận được hệ tư tưởng của tác giả được gửi gắm vào tác phẩm của mình
7. Kết cấu của luận văn

• Phần mở đầu
• Phần nội dung
- Chương 1: Cơ sở của PTDN
- Chương 2: Bố cục - thời gian - nhân vật - lập luận - cách dùng ngôn ngữ kí hiệu học xã hội trong tác phẩm "Người ngựa và ngựa người".
- Chương 3: Mạch lạc trong tác phẩm "Người ngựa và ngựa người".
• Kết luận
• Tài liệu tham khảo
• Phụ lục

8


Chương 1
CƠ SỞ CỦA PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN
1.1. Sơ lược về phân tích diễn ngôn
1.1.1. Cách hiểu về “Diễn ngôn”
DN và VB là hai thuật ngữ liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, để hiểu
khái niệm DN cần phân biệt nó với VB. Cụ thể, theo nhà nghiên cứu Diệp Quang
Ban, hai khái niệm này đã có quá trình “vận động" gắn với quá trình phát triển
NNH như sau:
Giai đoạn đầu, giai đoạn “ngữ pháp VB”, định nghĩa về VB được đưa ra tách
rời với DN. Tên gọi VB được dùng để chỉ chung những sự kiện nói bằng chữ viết và
sự kiện nói miệng có mạch lạc và liên kết. Tiêu biểu nhất là định nghĩa của Halliday,
M, A, K & Hasan, R (1976): “VB có thể là bất kì đoạn văn nào, nói hay viết, dài hay
ngắn tạo nên một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh; VB là một đơn vị ngữ nghĩa; và
VB là một đơn vị ngôn ngữ hành chức (dẫn theo Nguyễn Hoà [43; 30]).
Trong giai đoạn thứ hai, cùng với việc cố gắng phân biệt ngôn ngữ viết với
ngôn ngữ nói, xu hướng dùng VB để chỉ sự kiện nói bằng chữ viết (lời chữ) đối lại
DN chỉ sự kiện nói miệng (lời âm) chiếm ưu thế.
R. Barthes 1970 coi DN cũng là VB nhưng VB do “ngôn ngữ học VB”

nghiên cứu còn DN do “ngôn ngữ học DN” nghiên cứu với những nội dung nghiên
cứu riêng.
I. Bellert 1971 viết: "DN là chuỗi liên tục những phát ngôn S1,…,Sn, trong
đó việc lí giải nghĩa của mỗi phát ngôn Si (với 2 < I < n) lệ thuộc vào sự lí giải
những phát ngôn trong chuỗi S1,…, Si-1 (dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 199]. Với
quan điểm như vậy, tên gọi DN của I. Bellert bao gồm cả VB.
Và trong nỗ lực phân biệt VB với DN, G.Cook 1989, định nghĩa: VB là một
chuỗi ngôn ngữ lí giải được ở mặt hình thức , bên ngoài ngữ cảnh và DN là những
chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích
(dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 215]).

9


Như vậy, cùng một sự kiện nói (bằng chữ hoặc bằng âm) nếu chỉ xét ở mặt
từ ngữ trong nó là phân tích nó như một VB (còn gọi là “phân tích VB” đối với nó),
còn xét nó trong quan hệ ngữ cảnh (hiểu như cách vừa nêu) là phân tích nó như DN
(hay phân tích DN đối với nó). Ý tưởng này về sau được nhiều người sử dụng trong
PTDN, kể cả trong PTDN phê bình.
Cụ thể, trong một tài liệu ngôn ngữ, các từ ngữ (với các nội dung chúng diễn
đạt, chưa tính đến mối liên hệ giữa chúng với tình huống bên ngoài), dù bằng âm
thanh hay bằng chữ viết, được coi là bề mặt từ ngữ của tài liệu ngôn ngữ đó là VB.
Còn những hiện tượng thuộc về nghĩa - logic (xét trong quan hệ với tình huống bên
ngoài) và chức năng (ý định hay mục đích của người phát) có quan hệ đến tài liệu
đó thì thuộc về DN. Và việc phân tích bề mặt từ ngữ với các ý nghĩa vốn có sẵn
trong bề mặt ấy kể cả ngữ cảnh bằng từ ngữ của các phương tiện ngôn ngữ có trong
DN, đó là phân tích VB (text analysis). Trường hợp giải thích các từ ngữ bằng mối
quan hệ của chúng với tình huống xã hội bên ngoài VB, việc tìm hiểu ý định của
người phát thuôc về DN và đuợc thực hiện như một phần quan trọng trong PTDN
(Phân tích VB cũng là một bộ phận trong PTDN).

G.Cook 1989 đã đưa ra được cái gọi là khác biệt giữa DN và VB gắn với cái
đối lập giữa chức năng và hình thức: VB thể hiện mặt hình thức còn DN thể hiện
tính chức năng của ngôn ngữ. Do đó, cách nhìn này hiện nay được nhiều nhà nghiên
cứu ưa chuộng, nhất là trong PTDN. Nhà nghiên cứu Diệp Quang Ban đã đưa ra sơ
đồ cụ thể hóa cách nhìn này như hình vẽ sau (hình 1.1):

Văn bản

Diễn ngôn

(bề mặt từ
ngữ)

(Nghĩa- logic-chức năng)

Hình 1.1. VB là bề mặt của ngôn từ, DN thuộc về nghĩa-logic
và chức năng [11; 215]

10


D.Crystal 1992 đưa ra quan điểm: “VB là một sản phẩm DN xuất hiện một
cách tự nhiên dưới dạng nói, viết, hoặc một DN bằng kí hiệu, được nhận dạng vì
những mục đích phân tích” (dẫn theo Diệp Quang Ban [4; 200]. Còn DN là “một
chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thường
cấu thành một chỉnh thể có tính mạch lạc, kiểu như một bài thuyết giáo, lời tranh
luận, truyện vui hoặc truyện kể.” (dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 200].
Trong một chiều hướng khác, nổi lên một cách định nghĩa khá đặc biệt về
VB/DN là cố gắng đối chiếu hai đối tượng này như là hai thể trạng, một thể trạng
trong hoạt động, một thể trạng tĩnh tại. Cách hiểu mối quan hệ giữa DN/VB với

quá trình/sản phẩm không giống nhau ở một số nhà nghiên cứu. Đặc biệt , G.
Brown & G.Yule 1983 cho rằng: “VB là sản phẩm của DN như một tiến trình”
(dẫn theo Diệp Quang Ban [17; 48]). Cụ thể, hai ông nhìn nhận các từ, các ngữ và
các câu xuất hiện trong việc ghi lại thành VB của một DN là bằng chứng về việc
một người sản xuất (người nói/người viết cố gắng truyền báo thông điệp của anh
ta đến người nhận) (dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 206].
Cùng quan điểm với G. Brown & G.Yule về việc phân biệt DN và VB,
H.G.Widdowson 1984 coi “DN là một quá trình giao tiếp. Kết quả về mặt tình huống
của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể thông tin được chuyển tải, các ý định
được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là VB (dẫn theo Nguyễn Hòa [43; 32])
Đối với J. Lyons 1995, các thuật ngữ quá trình và sản phẩm không được
phân biệt theo kiểu một đối một với DN và VB. Ông cho rằng: "DN có cả dạng nói
và dạng viết, và cả hai dạng này của DN đều có ý - sản phẩm và ý - quá trình, trong
đó VB chỉ là ý sản phẩm của DN viết." (dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 210])
Nhiều nhà PTDN sau này chủ yếu theo quan điểm của G. Brown & G.Yule
1983 và J. Lyons 1995, nhưng VB được hiểu giản dị hơn: “mặt từ ngữ” trong tài
liệu ngôn ngữ và từ ngữ đó có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc âm thanh. Theo
cách nhìn này, tài liệu ngôn ngữ được chia thành hai lớp. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn
có trường hợp không phân định rành mạch được. Trường hợp này thuộc về vùng
trung gian giữa DN nói và VB viết: trong VB sẽ có cái thuộc về DN và trong DN sẽ

11


có cái thuộc về VB. Do vậy, người ta đã phải từ bỏ quan niệm phân biệt VB với DN
căn cứ vào lời viết hay lời miệng.
Đến giai đoạn sử dụng thứ ba, DN được dùng như VB ở giai đoạn đầu, tức là
dùng để chỉ chung cả sự kiện lời nói miệng lẫn sự kiện nói bằng chữ viết có liên kết
và mạch lạc [9; 34]
Như vậy, trong tiến trình của NNH, đường phân giới giữa VB và DN đã

dần được định hình theo ba giai đoạn nêu trên. Nếu ở thời kì đầu, trọng tâm chú
ý trong nghiên cứu tập trung hơn ở sự kiện nói bằng chữ viết, tên gọi VB do đó
được ưa dùng như tên gọi cho mọi loại sự kiện lời nói, thì ở thời kì thứ hai ngôn
ngữ nói được quan tâm nhiều hơn trước, tạo nên thế “cân bằng” với ngôn ngữ
viết, hai tên gọi được dùng bên cạnh nhau. Khó khăn trong việc xác định rạch ròi
giữa dạng nói và dạng viết trên thực tiễn nghiên cứu đã dẫn đến thời kì thứ ba:
dùng tên gọi DN như đại diện cho tất cả các sự kiện nói ở cả dạng miệng cũng
như ở dạng viết, ngụ ý rằng sự kiện nói miệng là cái có tính nguyên cấp. Điều
này cho thấy dường như NNH vẫn phải vượt thêm một chặng đường không nhỏ
nữa mới có thể đi đến một cách hiểu thống nhất về chúng.
D. Nunan 1993 đã sử dụng thuật ngữ VB để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ
viết của một sự kiện giao tiếp [64; 21]. Ông phân biệt VB chỉ các ghi chép hoặc ghi
âm một sản phẩm giao tiếp, trong khi đó DN chỉ một sản phẩm giao tiếp trong ngữ
cảnh [30; 37]
Do đó, trong NNH hiện nay tồn tại cách hiểu có tính chất quy ước: Tất cả các
sự kiện nói được gọi là DN, trong số đó những sự kiện nào được ghi lại bằng chữ viết
hoặc bằng các phương tiện kĩ thuật như ghi âm thì gọi là VB [9; 35]. Đây là một giải
pháp để làm việc chứ không dựa trên cơ sở lí thuyết nào.
Mối quan hệ giữa DN với VB có thể biểu thị bằng mối quan hệ giữa hai tập
hợp giao nhau như trong hình dưới đây (hình 1.2)

12


Diễn ngôn
Văn bản

Hình 1.2. Tất cả đều là DN, cái nào được ghi lại thì gọi là VB [11; 217]
Trong thực tế sử dụng, một số tác giả không phân biệt DN hay VB trừ khi
muốn nhấn mạnh tới mặt hành chức hay mặt hình thức của ngôn ngữ, các nhà

PTDN ưa dùng thuật ngữ DN hơn, còn các nhà ngữ pháp thường dùng thuật ngữ
VB. Cả hai thuật ngữ này đều được dùng không phân biệt về dạng nói hay dạng viết
của sự kiện nói. Trong thực tế PTDN hiện nay, cách hiểu theo hình 1.1 được coi là
hợp lí và chặt chẽ, được dùng khá phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu, cách hiểu
theo hình 1.2 lại được dùng nhiều hơn trong nhà trường do tính giản dị của nó.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, thuật ngữ DN hầu như chưa được
dùng trong đời thường, còn thuật ngữ VB được sử dụng phổ biến hơn. Trong khi
đó, ở các nước có khoa hoc ngôn ngữ phát triển, DN đã trở thành đối tượng trung
tâm của việc nghiên cứu. Ở đó, sự phân biệt VB và DN không còn quan trọng nữa.
Cùng với việc hiểu khái niệm về DN/VB, việc nắm các đặc trưng, tính chất
các thuật ngữ này đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ. Ở
phương diện lý thuyết, nêu đặc trưng của VB là nêu cái tính chất quyết định “là
một VB”. P. Hartmann 1965 cho rằng: "Các thành tố tạo VB được coi là những
yếu tố tạo nên đặc trưng cho VB, đó là các yếu tố thông qua khả năng đồng hiện
mà tạo nên “ngữ cảnh”, đó là “sự tổ hợp” xuất hiện trong quan hệ nghĩa nhờ
hiện tượng “cùng lệ thuộc” (dẫn theo Diệp Quang Ban [11; 223]). M. A. K.
Haliday & R.Hasan 1976 coi VB là đơn vị của nghĩa, thuộc loại khác hẳn đơn vị
câu. VB được đặc trưng bằng tổ chức đặc thù của nó trong mạng mạch (dẫn theo
Diệp Quang Ban [11; 229]).
Ngoài ra, Nguyễn Hòa còn cho rằng DN có tính kí hiệu và quan yếu.

13


Với tư cách là một đơn vị giao tiếp ở bậc lớn hơn câu, DN tất yếu phải có
tính kí hiệu. Qua DN, chúng ta chuyển tải các thông điệp hay trao đổi nội dung ý
nghĩa của một nền văn hóa. Tính chất kí hiệu của DN được thể hiện qua các phạm
trù thể loại DN, DN và VB. Thể loại DN là các DN cụ thể được khái quát và qui
ước qua các tiêu chí tình huống cũng được khái quát và được qui ước hóa. Còn các
VB là sự thể hiện của DN. Cũng giống như các từ - kí hiệu, DN cũng đồng thời

tham gia vào cả hai loại quan hệ chủ yếu trong ngôn ngữ là quan hệ cú đoạn và
quan hệ hệ hình.
Tính quan yếu là sự thích hợp về nội dung của các đóng góp trong quá trình
giao tiếp. Quan yếu được thực hiện hóa bởi các yếu tố quan yếu và các yếu tố này
lại: thường xuyên xuất hiện cùng với nhau tạo nên cấu trúc quan yếu. Cấu trúc quan
yếu tạo nên mạch lạc cho DN.
Theo Diệp Quang Ban, về mặt thực tế, DN / VB có 6 đặc trưng:
Thứ nhất là mục đích sử dụng: mục đích này có quan hệ với đề tài – chủ đề,
lĩnh vực xã hội của việc sử dụng VB (phong cách chức năng), phương tiện truyền
tải VB (nói hay viết) và nó chi phối cách cấu tạo VB, hệ quả là nó được phản ánh
trong cấu trúc của VB.
Thứ hai là yếu tố nội dung: DN (được dùng để chỉ mọi sự kiện nói và không
phân biệt với tên gọi VB), luôn có đề tài hoặc luôn có chủ đề thống nhất và thường
có thế xác định được. Yếu tố này giúp phân biệt giữa VB với chuỗi câu nối tiếp tình
cờ đứng cạnh nhau, tạo ra chuỗi bất thường về nghĩa hoặc cái gọi là phi VB.
Thứ ba là cấu trúc DN: cấu trúc là sự tổ chức các yếu tố nội dung theo những
cách thức hay trật tự nhất định phù hợp với các quy định của các phong cách chức
năng hoặc với với các thể loại văn chương nghệ thuật. Cấu trúc có vai trò quan
trọng trong việc tạo nên mạch lạc.
Thứ tư là yếu tố mạch lạc và liên kết: Mạch lạc là một vấn đề cốt yếu của
PTDN, là yếu tố quyết định việc tạo thành một DN hay VB, trong đó, nói rõ lên
việc tạo thành tính thống nhất đề tài (chủ đề) của VB. Liên kết chỉ là một trong
những phương thức tạo mạch lạc hoặc hiện thực hóa mạch lạc. Mạch lạc có thể

14


không cần dùng đến phương tiện liên kết, và trái lại có khi dùng phương tiện liên
kết chưa chắc đã tạo ra được mạch lạc cho VB.
Thứ năm là các yếu tố chỉ lượng: DN (VB) thường được tạo thành từ nhiều

câu, phát ngôn. Trong trường hợp chỉ có một câu, phát ngôn thì đó cũng là một DN
(khi nó mạch lạc với tình huống sử dụng)
Thứ sáu là yếu tố định biên: DN (VB) có biên giới phía bên trái (đầu vào) và
biên giới phía bên phải (đầu ra) và nhờ đó có tính kết thúc tương đối trọn vẹn.
Việc khám phá đặc trưng của DN (không phân biệt với VB) của một số nhà
nghiên cứu cho thấy vấn đề này không đơn giản khó tìm được tiếng nói chung, Vì
thế, tốt nhất nên nhìn nhận những điểm gặp nhau và bổ sung cho nhau trong những
cách quan niệm khác nhau vừa nêu các yếu tố chung nhất (được nhiều người đề
cập) đặc trưng cho DN gồm có:
a. DN có tổ chức về mặt hình thức và tổ chức về mặt nghĩa.
b. DN có quan hệ chặt chẽ với tình huống vật lý và văn hóa xã hội
c. Cơ sở hình thành DN là mạch lạc gồm: mạch lạc đối với chính DN (liên
kết); mạch lạc với ngữ cảnh tình huống và mạch lạc DN.
d. DN có thuộc tính phong cách (hay ngôn vực)
Thuộc tính phong cách là cơ sở đề tổ chức đúng DN (về hình thức và về
nghĩa) xét trong quan hệ với các lĩnh vực hoạt động xã hội sử dụng DN cũng tức là
cơ sở làm cho DN phù hợp với ngữ cảnh sử dụng nó.
1.1.2. DN trong ngôn vực văn chương nghệ thuật
Đối với NNH VB, sự phân loại các VB trong lĩnh vực sáng tác nghệ thuật
được coi là một ngoại lệ: các sáng tác nghệ thuật bằng ngôn ngữ từ được phân loại
theo “thể loại văn học”, với sự đề cập các thể loại văn học (như văn xuôi,
thơ,kịch…) và các hình thái thể loại. Nguyễn Hòa nhận thấy rằng: "Các nhà phân
tích DN thường ít khi bàn đến DN văn chương. Loại DN này thường là đối tượng
của tu từ học. Bởi DN văn chương có đặc tính nghệ thuật, mang nhiều dấu ấn của
tác giả. Chẳng hạn, Morohovski đã cho rằng, văn chương tạo nên một kiểu loại
ngôn ngữ" [43; 68]. Tuy nhiên, càng về sau thì loại DN này càng được chú ý đến,
nhất là với các tác giả của đường huớng PTDN phê bình (PTDNPB).

15



Theo M.A.K. Halliday, tác phẩm văn chương cũng là một thứ DN, bên cạnh
các thứ DN khác. Ông phân loại DN theo trường DN (không gian, thời gian, nhân
vật, đề tài của DN), bầu không khí DN (thái độ của các cá nhân tham gia), và cách
thức DN (phong cách của ngôn ngữ được sử dụng), từ đó phân loại các ngôn vực
(register) - tức các kiểu ngôn ngữ được sử dụng trong các tình huống. Theo đó,
ngôn vực văn chương gồm các tiểu ngôn vực như văn xuôi, thơ, văn học dân gian
và các loại cụ thể như: truyện ngắn, tiểu thuyết văn học, tiểu thuyết lịch sử, thơ ca,
kịch…(dẫn theo Nguyễn Hòa [43; 7]. Mỗi thể loại có những tác phẩm cụ thể, là
những VB - sản phẩm mà người PTDN có nhiệm vụ phân tích.
DN văn chương cũng có những đặc trưng tính chất chung của DN như trên,
nhưng nó còn có thêm một số nét riêng biệt khác với các DN thuộc các ngữ vực
khác. Đó là tính hình tượng, tính cá thể hóa, tính biểu cảm…
Một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn ngữ quan trọng ở tính nghệ thuật hơn
việc sử dụng ngôn ngữ. Các yếu tố nghệ thuật thể hiện trực tiếp trước hết trong việc
sử dụng ngôn ngữ , từ sắc độ của âm thanh ngôn ngữ, đến từ ngữ, đến việc dùng các
kiểu câu, các cấu tạo lớn hơn câu…
VB văn chương nghệ thuật có cấu tạo riêng và ở thể loại khác nhau thì có
cấu tạo VB khác nhau, như truyện khác với thơ, khác với kịch…Tất cả các yếu tố
thuộc DN văn chương, thuộc tác phẩm văn học nghệ thuật đều được tạo nên do chủ
quan của tác giả, theo phương pháp sáng tác nhất định. Những vấn đề này thuộc về
lĩnh vực lí luận văn học.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu DN là cái được tạo ra trong sự kiện nói. DN
có nội dung và cấu trúc nhất định, có tính quan yếu, có liên kết, yếu tố chỉ lượng,
yếu tố định biên. Trong đó mạch lạc là yếu tố quan trọng, quyết định việc câu
hay một tập hợp các câu trở thành một DN. Ở phương diện khác, DN được coi là
một đơn vị có tính kí hiệu. Đó là những vấn đề cần được quan tâm trong PTDN.
DN thuộc ngôn vực văn chương là một thể loại DN đặc biệt, với những đặc trưng
riêng như: tính hình tượng, tính điển hình và tính cá thể hóa cao.


16


1.2. Sơ lược về PTDN (Discourse Analysis)
1.2.1. Cách hiểu về PTDN - một số đường hướng PTDN
Thuật ngữ PTDN xuất hiện vào thời kì hậu ngữ pháp VB, khi vấn đề mạch
lạc và cấu trúc của VB được quan tâm hơn thay vì liên kết như trước. Mặc dù là
thuật ngữ đã được xuất hiện từ năm 1952 bởi Harris trong bài báo PTDN, song cho
tới năm 1979 mới có bài nhận định nhằm kết thúc thời kì ngữ pháp VB. PTDN sau
đó đã trở thành một thuật ngữ xuất hiện phổ biến trong nhiều nghành khoa học, do
đó, cũng tồn tại nhiều cách cách hiểu về thuật ngữ tùy vào mỗi chuyên ngành.
Với tư cách là một môn học riêng trong NNH, PTDN được M.Stubbs 1983
cho rằng: Thuật ngữ PTDN là rất mơ hồ. Tôi sẽ sử dụng nó trong sách này chủ yếu
để chỉ sự phân tích NNH đối với DN nói hoặc viết có nối kết, sự xuất hiện tự
nhiên… Theo ông PTDN bao quát được những vấn đề chung cho cả ngôn ngữ quy
thức lẫn ngôn ngữ không quy thức, cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết (dẫn theo
Diệp Quang Ban [11; 160]
D. Schiffrin 1994 cũng nhận xét rằng: “…PTDN vẫn còn là một tiểu lĩnh vực
mênh mông và ít nhiều còn mơ hồ của NNH” (Dẫn theo Nguyễn Hòa [43; 17]).
Có thể thấy rằng khái niệm PTDN còn mơ hồ như chính những nhận xét về
nó của các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ. Tuy vậy, có thể hiểu khái niệm này một
cách đơn giản như những định nghĩa của G. Brown & G. Yule1983. Hai ông cho
rằng: "Nghành PTDN một mặt bao gồm việc nghiên cứu hình thức ngôn ngữ, tần
suất xuất hiện của chúng; mặt khác tính đến các nguyên lí nhận thức nói chung mà
nhờ đó người ta hiểu được điều người ta đọc và nghe” (Samuel Butler [17; 11] và
khẳng định rõ: “PTDN nhất thiết là sự phân tích ngôn ngữ hành chức. Như vậy,
không thể giới hạn nó trong việc miêu tả các hình thức ngôn ngữ tách biệt với các
mục đích hay chức năng mà các hình thức này được sinh ra để đảm nhận trong xã
hội loài người [45; 97]; hay nói khác đi: nhà PTDN xử lí dữ liệu của anh ta như là
dữ kiện (VB) của một quá trình động, trong đó ngôn ngữ được sử dụng như một

công cụ giao tiếp trong ngữ cảnh mà qua đó người viết / người nói thể hiện nghĩa
và đạt được ý định (DN). Từ dữ kiện này, nhà PTDN tìm cách mô tả các quy tắc

17


trong ngôn ngữ được mọi người sử dụng để giao tiếp ý nghĩa và ý định [17; 51]. Và
khi xem xét các vấn đề chính yếu của PTDN, hai ông tập trung đến những vấn đề
liên quan đến quy chiếu, và các vấn đề khái quát đến tính mạch lạc và tính quan
yếu [17; 419].
R. Fasold 1990 cho rằng: nghiên cứu DN là nghiên cứu mọi khía cạnh sử
dụng ngôn ngữ (dẫn theo Nguyễn Hòa [43; 26]).
D. Numan cũng đưa ra một hướng nghiên cứu: PTDN liên quan đến việc
nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng: Để hiểu được con người có thể giao tiếp với
nhau theo một cách thành công như thế nào, cần phải xem xét không những các từ
xuất hiện trên mặt giấy, mà còn phải xem xét các kiến thức và các kĩ năng của bản
thân người sử dụng ngôn ngữ [30; 134].
Sự phân biệt DN và VB kéo theo sự phân biệt PTDN với phân tích VB
(PTVB). Dù có mối quan tâm chung là nhận diện những cái đều đặn và những khuôn
mẫu trong ngôn ngữ nhưng PTVB chỉ mới làm được một phần việc của PTDN, khi
PTVB đã xong nhiệm vụ thì PTDN vẫn tiếp tục với mục đích sâu hơn là nhằm vừa
chỉ ra vừa giải quyết mối quan hệ giữa những cái đều đặn đó với ý nghĩa và những
mục đích được diễn đạt qua DN [30; 22]. PTVB là sự nghiên cứu các phương thức
hình thức của ngôn ngữ để chỉ làm rõ đặc điểm hình thức của VB trong nội tại VB
mà thôi. Còn PTDN dù nghiên cứu các phương thức tạo thành VB như thế nhưng
mục đích cuối cùng của công việc này lại là nhằm xem xét những mục đích và những
chức năng mà vì chúng DN đã được tạo lập, cũng như cái ngữ cảnh mà trong đó DN
được tạo ra.
Như vậy, PTVB xem xét các đặc điểm hình thức của ngữ cảnh ngoài ngôn
ngữ, còn PTDN quan tâm tới mặt chức năng (Theo D. Numan). Và có thể nói,

PTVB là chặng đường đầu trong quá trình tiếp cận DN.
Trong các quan điểm đa dạng, có phần phức tạp về PTDN hiện nay, định
nghĩa theo cách hiểu dựa trên tổng hợp của nhà nghiên cứu Diệp Quang Ban có thể
xem là có nội hàm rõ rệt, tiện dụng nhất. Chúng tôi hiểu PTDN theo định nghĩa này
và xin tóm lược lại như sau:

18


PTDN là đường hướng tiếp cận tài liệu ngôn ngữ nói hoặc viết bậc trên câu
(DN/ VB) từ tính đa diện hiện thực của nó, bao gồm các mặt ngôn từ và ngữ cảnh
tình huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực mà nội dung
hết sức phong phú và đa dạng (gồm các hiện tượng thuộc thể loại và phong cách
chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện tượng xã hội, văn hóa, dân tộc
[11; 158]).
Định nghĩa này đề cập đến yếu tố quan trọng nhất:
a. Đối tượng khảo sát: tài liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu (DN hay VB)
b. Đối tượng nghiên cứu: tính đa diện hiện thực của tài liệu ngôn ngữ đó.
Yếu tố này có nội dụng phong phú gồm những yếu tố nhỏ hơn:
(i) “Mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình huống” được hiểu qua hai khía cạnh:
- Ý nghĩa của các từ ngữ trong VB/ DN xét trong quan hệ giữa chúng với
nhau (ngữ cảnh trong VB) và trong quan hệ với ngữ cảnh bên ngoài.
- Các hiện tượng thuộc liên kết (giữa các từ ngữ trong VB) và mạch lạc
(giữa các từ ngữ trong VB và quan hệ với những cái hữu quan bên ngoài VB).
(ii) “Các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn vực” được giải thích ở
phần tiếp theo đó. “Ngôn vực” được hiểu rộng hơn phong cách học; nó thể hiện
trong tất cả các dấu vết của âm thanh, từ ngữ, chữ viết, những dấu vết có khả năng
mang nghĩa hoặc mang một giá trị nào đó có thể nhận biết được (biện luân được),
được gọi chung là các “dấu nghĩa tiềm ẩn”. Các dấu nghĩa này thuộc về ba mặt với
cách hiểu vắn tắt như sau:

- Trường (field) là sự kiện tổng quát trong đó DN/VB hành chức, cùng với
tính chủ động có mục đích của người nói/người viết, gồm cả đề tài - chủ đề. Nói
vắn tắt trường là tính chủ động xã hội được thực hiện.
- Thức (mode) là chức năng của VB trong sự kiện hữu quan, gồm nói và viết,
ứng khẩu và có chuẩn bị, các thể loại DN/VB, các phép tu từ… Nói vắn tắt, thức là
vai trò của ngôn ngữ trong tình huống.
- Không khí chung (tenor) phản ánh các kiểu trao đổi theo vai, gồm các quan
hệ xã hội thích ứng với các vai, quan hệ lâu dài nhất thời, giữa những người tham
dự cuộc tương tác. Nói vắn tắt, không khí chung là các vai xã hội được trình diễn.

19


c. Phương pháp tiếp cận là phân tích (phân tích ngôn ngữ trong sử dụng). Và
phân tích chủ yếu là đề hiểu (lí giải) cách sử dụng ngôn ngữ trong thực tế.
Cách hiểu trên mới chỉ đề cập đến PTDN như là một phương pháp nghên
cứu không bàn đến tư cách “lí thuyết” của nó đề tiện làm việc. Cho đến nay, vấn
đề còn lại của PTDN vẫn là sự thảo luận xem về thực chất phân môn mới của
NNH này chỉ là phương pháp nghiên cứu các DN hay là một lí thuyết hoàn chỉnh
hay “phương pháp và lí thuyết có thể không tách rời nhau”. Và tuy có người
chuộng người không, trên thực tế PTDN vẫn phát triển và ngày càng được ứng
dụng rộng rãi.
Paul Gee 1990 nhận xét: “Có nhiều cách tiếp cận ngôn ngữ khác nhau,
không cách nào trong số đó, kể cả cách này (cách của tác giả Diệp Quang Ban) là
đúng một cách độc nhất vô nhị” (dẫn theo Diệp Quang Ban [7; 163]). Tựu trung có
thể kể đến các đường hướng cơ bản sau đây:
1.2.1.1. Đường hướng dụng học (Pragmatics)
Đây là một đường hướng có đối tượng gồm ý nghĩa, ngữ cảnh và giao tiếp.
Đường hướng này có hai nhánh. Một nhánh dựa trên lí thuyết hành động nói của J.
L. Austin 1962 và J. R. Searle 1969 tập trung xem xét đến ý nghĩa của phát ngôn

như là các hành động chứa nội dung giao tiếp. Nhánh thứ hai dựa trên tư tưởng của
H. P. Grice 1967 về hai căn cứ cơ bản của DH là ý nghĩa của người nói và nguyên
tắc cộng tác. Để giải mã được ý nghĩa của người nói, người nói và người nghe cần
tuân thủ quy tắc cộng tác (bao gồm 4 qui tắc: lượng, chất, cách thức, yếu tố).
1.2.1.2. Đường hướng biến đổi ngôn ngữ (Language variation – LA)
Đối tượng chủ yếu của LA là tìm kiếm những đơn vị hay bộ phận của DN
nằm trong những mối quan hệ hệ thống và khuôn mẫu với nhau (từ vựng, âm vị hay
cú pháp). Các ngữ vực chính là bằng chứng thừa nhận tính chất khả biến của ngôn
ngữ. Đường hướng này thừa nhận việc nhận diện và miêu tả DN hoặc thể loại của
DN không thể tách rời khỏi 3 yếu tố trường, thức và không khí. M. A. K. Halliday
là người đã xây dựng và phát triển phương pháp phân tích ngữ vực dựa trên việc
miêu tả hai khía cạnh của ngôn ngữ là người sử dụng và cách thức sử dụng.

20


×