Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Tư tưởng đạo đức của khổng tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh hải dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.69 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu phương Đông là chiếc nôi lớn của nền văn minh nhân loại thì Ấn Độ
và Trung Quốc là những trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú
nhất của nền văn minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học phương Đông thời
đó mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay về vấn đề luân lý, đạo
đức, chính trị - xã hội đó là những tư tưởng triết học của đạo đức Nho giáo
Nho giáo là học thuyết chính trị ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Trung
Hoa thời cổ đại, sự ra đời của nó gắn liền với tên tuổi của người sáng lập là
Khổng Tử. Những tư tưởng của Nho giáo nằm rải rác ở các bộ Kinh Thư,
Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng tri
thức trong những bộ kinh này thành học thuyết gọi là Nho giáo. Hệ tư tưởng
Nho giáo có nhiều giá trị trong đó đặc sắc nhất là tư tưởng về đạo đức, những
chuẩn mực đạo đức của con người. Những giá trị tư tưởng này là khuôn mẫu,
thước đo phẩm hạnh, góp phần vào xây dựng đạo đức cho mỗi cá nhân và xã
hội, hơn nữa còn giúp con người nhận thức rõ trách nhiệm của mình với gia
đình và xã hội, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa trong xã
hội phong kiến trước đây mà còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội hiện nay.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ngày càng phát triển, sự tác
động hai mặt của nền kinh tế thị trường, của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đã và đang tác động đến mọi mặt của đời sống và mọi tầng lớp trong
xã hội nhất là trong lĩnh vực văn hóa, đạo đức đặt ra hàng loạt nguy cơ và
những thách thức mới. Đó là sự du nhập của các nền văn hóa khác nhau trên
thế giới, sự phương Tây hóa, và phần nào đánh mất đi bản sắc văn hóa dân
tộc kéo theo sự xuống cấp về đạo đức của một bộ phận không nhỏ trong xã
hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, tình yêu thương giữa con người
với con người ngày càng xa cách, mà quên đi những giá trị đạo đức truyền



1


thống tốt đẹp trước đó. Chính vì vậy việc nghiên cứu trở lại học thuyết đạo
đức của Khổng Tử lại vô cùng quan trọng, điều này không những nhằm phát
triển những giá trị nổi bật, những yếu tố tích cực hợp lý của học thuyết mà
còn trên cơ sở đó khẳng định tính thực tiễn và sức sống của nó, là hệ tư tưởng
cho thế hệ sau học tập và làm theo.
Học thuyết về đạo đức của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa quan trọng
đối với đất nước nói chung mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với tỉnh Hải
Dương nói riêng. Hải Dương có vị trí quan trọng trong trục tam giác đồng
bằng sông Hồng, là tỉnh có nhiều tiềm năng đã góp phần cho công cuộc xây
dựng đất nước đi tới thắng lợi. Hiện nay, bên cạnh những tấm gương, những
thế hệ thanh niên có lối sống đạo đức lành mạnh, thì một bộ phận không nhỏ
trong xã hội, tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống, khước từ những giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tệ nạn xã hội, lối sống ích kỷ, vụ lợi ngày càng
gia tăng, làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống. Việc nghiên cứu học
thuyết đạo đức của Khổng Tử sẽ có giá trị tích cực giúp chúng ta trong việc
giáo dục, định hướng đạo đức thế hệ trẻ hiện nay để họ thực sự trở thành
những con người có ích cho gia đình và xã hội.
Việc hiểu và nắm được những giá trị trong học thuyết đạo đức của
Khổng Tử từ đó giáo dục đạo đức cho mọi người có lối sống lành mạnh hơn,
xây dựng một xã hội tốt đẹp là một nhiệm vụ quan trọng và là đòi hỏi cấp
bách hiện nay, nghiên cứu những nội dung cơ bản trong học thuyết đạo đức
của Khổng Tử và vai trò của nó trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở
tỉnh Hải Dương không chỉ dừng lại ở việc hiểu biết rõ hơn về học thuyết đạo
đức của Khổng Tử mà còn thấy được sự ảnh hưởng của nó trong giáo dục đạo
đức, giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng đạo đức của

Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở

2


tỉnh Hải Dương hiện nay” làm luận văn thạc sĩ, nhằm tìm ra những giá trị
của nó để vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải
Dương hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Xung quanh việc bàn về tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có rất nhiều
tác giả đã nghiên cứu theo nhiều phương diện, nhiều chiều hướng khác nhau,
dựa vào góc độ bàn đến mà phân chia thành hai nhóm cơ bản.
Nhóm thứ nhất: là những công trình nghiên cứu về Nho giáo trong đó
có học thuyết về đạo đức của Khổng Tử.
Trong cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, tác giả đã tìm hiểu về hoàn
cảnh ra đời của Nho giáo và phân tích ra những mặt tích cực của tư tưởng
Nho giáo, phê phán những mặt tiêu cực, và chỉ ra rằng đạo đức của một con
người là đạo Nhân, là đạo của người quan tử, là sự hiếu lễ với cha mẹ… Tuy
nhiên hệ thống những chuẩn mực, yêu cầu đạo đức của Nho giáo chưa được
tác giả trình bày đầy đủ, chi tiết và có hệ thống.
Cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu, ông đã phân tích khía cạnh
đạo lý cư xử giữa người với người trong Nho giáo, đề cao quân tử và phân
biệt quân tử với tiểu nhân.
Cuốn Khổng Tử của Nguyễn Hiếu Lê, tác phẩm này chủ yếu bàn về vai
trò của quân tử và thánh hiền trong cuộc sống cũng như lý tưởng xã hội an
thuận thái hòa, nêu lên những quan điểm về đạo đức của Khổng Tử, các
chuẩn mực cơ bản về đạo đức của con người, các tư tưởng đạo đức đó là hình
mẫu lý tưởng người khác hướng tới.
Cuốn “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Quang Đạm (Nhà xuất bản
Văn hóa, Hà Nội (1994), tác giả tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Nho giáo, và

thấy được sự ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của nó và tác giả đã đưa
người đọc đến thời “Xuân thu – Chiến quốc”, với những hiểu biết đầy đủ về

3


tình hình kinh tế, chính trị, xã hội…, những tác động tích cực của Nho giáo
góp phần vào việc xây dựng đạo đức mới ở nước ta, đặc biệt là giáo dục đạo
đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
Bài “Tư tưởng Lễ và Chính danh của Nho giáo” của tác giả Minh Anh
(đăng trên tạp chí Triết học số 5, 2003). Đã trình bày khái quát nội dụng và
vai trò của hai phạm trù cơ bản trong Nho giáo là Lễ và Chính danh, tác giả
quan niệm Lễ và Chính danh trong Nho giáo là những cái cần thiết đối với
việc duy trì kỷ cương, trật tự xã hội, việc kế thừa tư tưởng Lễ và Chính danh
của Nho giáo là việc làm hết sức cần thiết nhất trong điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Bài “Về ba phạm trù đạo đức cơ bản (nhân, trí, dũng) trong triết học
Khổng Tử” của tác giả Trịnh Thị Kim Chi (đăng trên tạp chí Triết học số 11,
2010). Bài viết tập trung trình bày nội dung cơ bản của ba phạm trù đạo đưc
căn bản mang ý nghĩa thông đạt trong thiên hạ là nhân, trí, dũng. Trên cơ sở
Luận ngữ của Khổng Tử, tác giả đã làm rõ nội dung của từng phạm trù, và chỉ
ra mối liên hệ chặt chẽ giữa nhân, trí, dũng, ngoài ra tác giả còn chỉ rõ một số
điểm hạn chế cũng như mâu thuẫn trong cách lý giải của Khổng Tử về “trí”.
Trong bài “Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người” của tác giả
Nguyễn Thị Thọ (đăng trên tạp chí Triết học số 4, 2011), đã đưa ra và luận
giải khái niệm “Đạo làm người”, đạo làm người qua các mối quan hệ. Theo
tác giả, với Nho giáo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, được đặt trong quan hệ của
con người với chính bản thân mình để tu thân, để trở thành người quân tử,
còn chính danh là yêu cầu đạo đức được đặt trong quan hệ với người khác
để mỗi người đều thực hiện đúng phận sự của mình, làm cho xã hội ổn định

và phát triển.
Nhìn chung vấn đề về Nho giáo, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên việc nghiên cứu này chỉ dừng lại ở

4


các bài báo đăng trên tạp chí, chủ yếu nghiên cứu tổng thể về tư tưởng đạo
đức, chính trị của Nho giáo, các tác giả cũng chỉ dừng lại ở nét khái quát nhất.
Nhóm thứ hai: là những nghiên cứu về sự ảnh hưởng, vai trò của Nho
giáo cũng như học thuyết đạo đức của Khổng Tử đối với đời sống đạo đức
con người Việt Nam.
Cuốn “Nho giáo tại Việt Nam” của tác giả Lê Sĩ Thắng chủ biên (Nhà
xuất bản khoa học xã hội, 1994), trong cuốn này tác giả đề cập tới nhiều vấn
đề mang tính hệ thống khá sâu sắc như: tính chất và các nội dụng cơ bản của
Nho giáo, sự phát triển của học thuyết Khổng Mạnh, ảnh hưởng của Nho giáo
trong lịch sử, trong từng lĩnh vực văn hóa, đạo đức, tư tưởng, thái độ cần phải
có đối với Nho giáo trong công cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa hiện nay…
Trong bài viết “Triết học Khổng Tử và ý nghĩa của những tư tưởng
triết học đó trong nhận thức và trong thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay”
của tác giả Phạm Văn Chín (đăng trên tạp chí Khoa học số 2, 2007) trong bài
viết này tác giả nêu lên những tư tưởng triết học cơ bản của Khổng Tử đó là
những quan niệm về vũ trụ và con người, nêu ra học thuyết về luân lý, đạo
đức, chính trị - xã hội từ đó thấy được ý nghĩa của những tư tưởng triết học
Khổng Tử trong nhận thức và trong thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay là
vô cùng cần thiết, tác giả cũng cho rằng trong hoạt động thực tiễn giáo dục
mà thực hiện được những tư tưởng triết học Khổng Tử, chắc chắn rằng nền
giáo dục nước nhà sẽ phát triển.
Bài “Khổng Tử và Hồ Chí Minh những điểm tương đồng và khác biệt
trong tư tưởng đạo đức” của tác giả Trần Ngọc Ánh (đăng trên tạp chí Triết

học số 4, 2009), bài viết so sánh một cách trực diện quan điểm đạo đức của
Khổng Tử và Hồ Chí Minh ở một số vấn đề cụ thể. Theo tác giả, tư tưởng đạo
đức Nho giáo do Khổng Tử sáng lập là một trong những nguồn gốc của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và do đó, những tương đồng trong tư tưởng đạo

5


đức giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh là tất yếu. Do thời đại và lịch sử khác
nhau, việc tồn tại những khác biệt trong tư tưởng đạo đức giữa Khổng Tử và
Hồ Chí Minh cũng là tất yếu.
Bài “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức mới Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Thị Thúy (đăng trên tạp chí Triết học số 1 (2011), tác giả
đưa ra những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo đó là nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín, chính danh…, những chuẩn mực đạo đức này có vai trò quan trọng
không chỉ đối với xã hội bấy giờ mà trong xã hội hiện nay nó cũng có vai trò
nhất định, tác giả cũng đưa ra một cách có hệ thống về sự ảnh hưởng của đạo
đức Nho giáo đối với đạo đức mới Việt Nam.
Cuốn “Luận ngữ với cuộc sống hiện đại” của tác giả Dương Minh Hào
(Nhà xuất bản Thanh niên năm 2012), tác giả làm rõ những nội dung tam tài,
quân tử, giao hữu, xử thế, tâm linh, lý tưởng và nhân sinh, trên cơ sở tư tưởng
của Khổng Tử, tác giả đã giải thích các nội dung trên và và vận dụng nó trong
cuộc sống hiện đại.
Nhìn chung, các công trình ở hai loại hình trên nghiên cứu khá nhiều
nội dung, nhiều phương diện trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử, và sự
ảnh hưởng cũng như vai trò của nó đối với xã hội, con người Việt Nam trong
lịch sử và trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và đánh giá
những nội dung trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử nhất là sự ảnh hưởng
của nó đến đời sống đạo đức của thế hệ trẻ nước ta nói chung thế hệ trẻ tỉnh
Hải Dương nói riêng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, khái quát,

toàn diện. Do đó đề tài luận văn của tôi đi vào tìm hiểu một cách có hệ thống,
khái quát, và làm sáng tỏ một số nội dung học thuyết đạo đức của Khổng Tử
đồng thời vận dụng những nội dung ấy vào giáo dục đạo đức cho thế hệ ở tỉnh
Hải Dương hiện nay.

6


3. Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những giá trị trong tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, và giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là học thuyết đạo đức của Khổng
Tử và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử và ý nghĩa của nó
đối với việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay được
nghiên cứu và đề xuất trên cơ sở thực tiễn, phù hợp với lý luận khoa học, phù
hợp với những điều kiện cụ thể ở các địa phương trên địa bàn tỉnh thì sẽ góp
phần tích cực giúp chúng ta trong việc giáo dục, định hướng đạo đức cho thế
hệ trẻ hiện nay để họ thực sự trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Đồng thời qua đó ta không chỉ hiểu rõ hơn về học thuyết đạo đức của Khổn
Tử mà còn thấy được sự ảnh hưởng của nó trong giáo dục đạo đức, giáo dục
nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải
Dương hiện nay.
Nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm vận dụng tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử trong việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở
tỉnh Hải Dương hiện nay.

7


7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng của Khổng Tử có rất nhiều nội dung khác nhau, tuy nhiên
trong phạm vi của luận văn chỉ dừng lại ở việc khai thác tư tưởng đạo đức
Khổng Tử.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin và kết hợp một số
phương pháp nghiên cứu khác như: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, quy
nạp, diễn dịch…
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm hai chương 5 tiết
10.Tóm tắt cô đọng các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Những luận điểm cơ bản
Hệ thống những nội dung cơ bản trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử
Ý nghĩa và sự vận dụng những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức
của Khổng Tử vào việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
10.2. Những đóng góp mới của luận văn
Về phương diện lý luận
Luận văn khái quát có hệ thống về tư tưởng đạo đức của Khổng Tử và

những giá trị, ý nghĩa trong đạo đức của Khổng Tử.
Về phương diện thực tiễn
Luận văn làm sáng tỏ bức tranh thực trạng giáo dục đạo đức cho thế hệ
trẻ ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu học tập, giảng dạy về Nho giáo nói chung
và tư tưởng đạo đức của Khổng Tử nói riêng.

8


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc
Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không
phải là ngẫu nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó, trong
đó có điều kiện kinh tế xã hội chi phối. Qúa trình hình thành và phát triển tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử cũng không phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy
luật trên, do đó muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử không thể
không đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính
trị của thời Xuân thu – Chiến quốc.
Học thuyết đạo đức của Khổng Tử xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại,
thời đại Khổng Tử là thời kì mà xã hội Trung Quốc diễn ra những biến đổi
sâu sắc trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Ở Trung Quốc đến thời Xuân thu là thời kỳ phát
triển mạnh mẽ của nền nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Trong thời kỳ này, với việc người dân đã biết đến nấu sắt và sử dụng các công
cụ lao động bằng sắt, nó đã kéo theo nhiều biến đổi tích cực trong hoạt động
sản xuất của vật chất của xã hội.

Thời kỳ này nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng
sang thời kỳ đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất. Nó
thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực.
Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống lâu đời và giữ vai
trò hết sức quan trọng ở Trung Quốc. Với sự xuất hiện của đồ sắt đã đem lại
cho người Trung Quốc những tiến bộ mới trong cải tiến công cụ sản xuất và
kỹ xuất sản xuất nông nghiệp… Chính nhờ vậy, vào thời kỳ này, hệ thống

9


thủy lợi đã trải rộng khắp khu vực Trường Giang, diện tích canh tác được mở
rộng, kỹ thuật trồng trọt được cải tiến đã giảm được đáng kể sức sản xuất
trong nông nghiệp và năng xuất lao động tăng.
Với sự ra đời của đồ sắt và những cải tiến mạnh mẽ trong công cụ sản
xuất nông nghiệp tất yếu dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất cổ
truyền. Người ta thấy không cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định
kỳ căn cứ vào đất tốt hay xấu như trước nữa. giờ đây công xã giao hẳn đất
công cho từng gia đình nông nô cày cấy trong thời gian dài. Vì vậy, nông nô
có thể dùng phương pháp lưu canh hay luân canh để tăng năng suất cây trồng.
Mặt khác, một số người bình dân do có chút công trạng trong chiến trận mà
có quyền lực đã ỷ vào đó để chiếm ruộng đất công thành ruộng đất tư, một số
khác là nhà buôn giàu có đã giành tiền để mua ruộng đất… Tình hình trên,
một mặt, đã làm cho chế độ “tỉnh điền” dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất
dần được hình thành và được nhà nước thừa nhận, mặt khác đã hình thành
trong xã hội một giai cấp mới – giai cấp địa chủ
Đồ sắt ra đời không chỉ thúc đẩy nền nông nghiệp Trung Quốc phát
triển mà còn thúc đẩy nền thủ công nghiệp phát triển. Đồ sắt được sử dụng
phổ biến làm cho sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp đạt
tới trình độ cao hơn, chuyên nghiệp hơn, thúc đẩy hàng loạt các ngành thủ

công phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề dệt, nghề làm
đồ gốm… Thương nghiệp cũng có bước chuyển biến đáng kể, ở thời kỳ này,
Trung Quốc xuất hiện nhiều thành thị, nhiều trung tâm thương nghiệp, buôn
bán nhộn nhịp ở các nước Hán, Tề, Sở… Những thành thị này có cơ sở kinh
tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị của quý tộc và
dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tần lớp địa chủ mới lên. Đây
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xã tắc loạn lạc, tình trạng trong thiên hạ
“Vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con” [ 11, tr.189] diễn ra

10


phổ biến. Trong xã hội lúc này đã hình thành một tần lớp thương nhân giàu có
và ngày càng có thế lực. Thương nhân đã có nhiều người giao kết với chư hầu
và công khanh đại phu, gây ảnh hưởng nhất định đối với nền chính trị đương
thời. Với sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra cơ cấu giai cấp
– xã hội một tần lớp mới. Từ tầng lớp này, dần dần xuất hiện một loại quý tộc
mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực với
tần lớp quý tộc cũ.
Trong lĩnh vực xã hội: Sự phát triển trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh
hưởng tác động to lớn đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một
cục diện mới trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, đó là “Triều đại nhà
Chu suy sụp từ đầu Đông Chu đến đây đã hết hẳn. Tình trạng xen kẽ lẫn nhau
giữa hình thái chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và hình thái phong kiến cát cứ mới
nảy sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng mạnh mẽ cũng chấm dứt”
[15, tr.20]. Sự tác động trước hết và rõ rệt nhất là đối với hình thức sở hữu
ruộng đất và kết cấu giai cấp của xã hội. Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng
đất là cơ sở cho sự ra đời các giai cấp và tầng lớp mới trong xã hội. Mâu
thuẫn giữa các giai cấp này ngày càng gay gắt, đó là “Mâu thuẫn giữa tầng
lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với nông dân nông nô; mâu

thuẫn giữa quý tộc cũ muốn duy trì chế độ với một bộ phận quý tộc mới; mâu
thuẫn giữa quý tộc cũ với quý tộc mới nhằm tiêu diệt lẫn nhau để thiết lập
quyền thống trị. Về mặt xã hội, mâu thuẫn gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa
thiên tử và các nước chư hầu” [51, tr.26]. Nếu ở đầu thời nhà Chu, thiên tử có
quyền uy tối cao, mọi việc đều do thiên tử đề xuất, quyết định thì đến thời
Xuân Thu, thiên tử của nhà Chu không còn có vai trò như trước đây, mà giờ
đây nền chính trị do các nước làm bá chủ chi phối. Mâu thuẫn gay gắt trong
giới quý tộc làm cho xã hội rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn. Hiện tượng tranh
giành quyền lực và đất đai đã xảy ra thường xuyên. Khổng Tử gọi đây là thời

11


kỳ con người sống vô đạo “Vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi,
cha không phải đạo cha, con không phải đạo con” [11, tr.189]
Trong xã hội Trung Quốc, tình trạng chính trị rối ren, lãnh thổ chia năm
xẻ bảy, nạn chư hầu, cát cứ làm cho đời sống nhân dân rất khó khăn. Dưới
thời Đông Chu các mối quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các
nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự lễ nghĩa không còn được coi trọng.
Dưới bầu trời nhà Chu, cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em hại nhau trở
nên phổ biến. Thời Xuân Thu tồn tại khoảng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc
chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hơn 1000 nước, cuối thời Xuân Thu
còn hơn 100 nước, các nước nhỏ bị các nước lớn tiêu diệt. Sang thời Chiến
Quốc chỉ còn lại bảy nước lớn tranh giành nhau gọi là Thất Hùng: Tần, Sở,
Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Yên. Chiến tranh liên miên gây thảm họa chết chóc
làm cho đời sống nhân vô cùng cực khổ. Mặt khác, các lãnh chúa tăng cường
bóc lột nhân dân lao động, nông dân đi chiến trận, chịu sưu thuế nặng nề,
đồng ruộng bỏ hoang. Chính sự rối loạn của xã hội đã tạo ra tình trạng phi
nhân tính, vô đạo đức và làm cho các mối quan hệ xã hội giữa người với
người bị biến dạng, lễ nghĩa cương thường bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Đời

sống nhân dân nghẹt thở, mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu phát triển lên đỉnh
cao làm cho phong trào biến pháp ở một số nước phát triển mạnh nhằm ngăn
chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đây là thời kỳ “có một không hai” trong lịch sử
Trung Quốc. Chính trong hoàn cảnh này đã tạo thêm những nhân tố thúc đẩy
sự ra đời học thuyết đạo đức của Khổng Tử và nhiều học thuyết khác.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội như trên để khôi phục trật tự kỷ cương
xã hội và địa vị thống trị của mình các nước đua nhau trọng dụng kẻ sĩ, nhờ
hình thức chiêu hiền đãi sĩ mà các học thuyết, các học phái tư tưởng ra đời và
phát triển mạnh. Các sử gia gọi đây là thời kỳ “bách gia tranh minh” (trăm
nhà đua tiếng). Mỗi trường phái đều đưa ra học thuyết của mình nhằm mục

12


đích đưa xã hội từ loạn thành trị, nhìn chung, các học thuyết đều đạt tới trình
độ tư duy khá cao và sâu sắc, mỗi học phái đều có những cách lý giải riêng.
Mặc gia dùng biện pháp kiêm ái: yêu thương tất thảy đồng loại, Pháp gia chủ
trương dùng pháp luật cai trị, Nho gia lại chủ trương dùng đạo đức, trị nước
dựa trên nền tảng đạo đức của nhà vua và người cầm quyền (hay còn gọi là
đức trị). Khổng Tử cho rằng xã hội loạn lạc là do con người vô đạo, là do
“Nhà vua không đúng đạo làm vua, bề tôi không đúng đạo bề tôi, cha không
đúng đạo làm cha, con không đúng đạo làm con”[11, tr.189]. Bởi vậy theo
ông muốn xã hội thịnh trị thì phải tu dưỡng đạo đức, an tâm, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Có như vậy xã hội mới trở nên yên bình và thịnh trị
theo quan điểm của các nhà tư tưởng. Mỗi học thuyết ra đời thời kỳ này
đều có những giá trị và hạn chế nhất định song tư tưởng chính trị - đạo đức
của Khổng Tử là nổi bật hơn cả. Nó có ảnh hưởng ở Trung Quốc trong thời
gian khá dài thậm chí còn du nhập và ảnh hưởng đến nhiều nước khác
trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Những tiền đề văn hóa – tư tưởng

Mọi học thuyết, tư tưởng ra đời đều gắn liền với hoàn cảnh lịch sử xã
hội cụ thể, sự ra đời học thuyết đạo đức của Khổng Tử bắt nguồn từ đời sống
tư tưởng của Trung Quốc từ trước đến bây giờ, đặc biệt là dưới thời nhà Chu.
Tiền đề tư tưởng: tư tưởng đạo đức Nho giáo ra đời trên cơ sở tiếp thu
và kế thừa những tư tưởng có từ trước thời Xuân Thu ở Trung Hoa như tư
tưởng tôn giáo, chính trị đạo đức
Tư tưởng về tôn giáo: Lịch sử Trung Quốc từ thời nhà Hạ, Thương - Ân
và Tây Chu là giai đoạn hình thành và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ. Để
bảo vệ uy quyền của mình, giai cấp chủ nô dùng thế giới quan duy tâm, tôn
giáo với các hình tượng về thượng đế, quỷ thần, quan điểm thiên mệnh. Nhà
Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “trời và người hợp nhất”.

13


Nhà Chu cho rằng thượng đế là lực lượng có nhân cách có ý chí và quyền lực
tuyệt đối. Chính vì vậy nhà Chu cho rằng vì nhà Ân không biết mệnh trời,
hành động không hợp với mệnh trời, do đó thượng đế đã trừng phạt và để
cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
chịu ảnh hưởng của quan điểm duy tâm, tôn giáo của nhà Chu là đề cao,
tuyệt đối vai trò của nhà vua thay trời thống trị thiên hạ cai trị dân nói
chung, đạo bề tôi nói riêng.
Về chính trị: Những nhà tư tưởng của tầng lớp quý tộc nhà Chu cho
rằng vì nhà Chu biết và làm theo “mệnh trời” và được “nhận dân” từ tay nhà
Ân để “hưởng dân” và “trị dân” suốt đời, nếu kẻ nào chống lại mệnh trời đó
thì nhà Chu vâng mệnh trời và thay trời trừng phạt. Vua nhà Chu là chủ sở
hữu tối cao về ruộng đất và mọi người trong xã hội đều là thần dân của nhà
vua, vua là Thiên tử được thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Điều này cho
chúng ta thấy tư tưởng chính trị dưới thời nhà Chu là hết sức phản động
nhưng lại phủ lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh trời”.

Về đạo đức: tư tưởng đạo đức của nhà Chu có truyền thống trọng đức
đã được thể hiện sâu sắc, lấy hai chữ Đức và Hiếu làm nòng cốt. Hiếu là thờ
phụng tổ tiên phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ gìn phép tắc tổ tiên để lại.
Có Đức, Hiếu như vậy mới nhận được mệnh trời mà được hưởng nước,
hưởng dân mãi mãi. Đây là quan niệm đạo đức duy tâm, bảo thủ và phản
động nhằm củng cố tuyên truyền sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị của tầng
lớp quý tộc nhà Chu và nhà nước quý tộc Chu. Các nhà Nho trong đó có cả
Khổng Tử đã không nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của lịch sử cho
nên ít nhiều sai lầm khi đặt ra tiêu chuẩn của con người, coi hành động, việc
làm của người đi trước là tiêu chuẩn, là chuẩn mực cần có cho hành động của
mình.

14


Học thuyết của Khổng Tử tiếp nhận vào hệ thống của mình những tư
tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức trên đây của nhà Chu, về thực chất cũng
tiếp nhận một phương thức chính trị mà giai cấp thống trị của các triều đại
trước đây đã thực hiện là sử dụng thần quyền để củng cố và thực hiện vương
quyền trong việc cai trị.
Dưới triều đại nhà Chu, địa vị và uy quyền của trời, mệnh trời đã được
vận dụng vào việc chống lại nhà Ân, vào việc luận giải để biện hộ cho sự tồn
tại vĩnh viễn của nhà Chu. Tuy nhiên, đến thời Xuân Thu, sự suy yếu mọi mặt
của nhà Chu đã cho thấy, sự linh thiêng và bất khả xâm phạm của thần quyền
đã bị xâm phạm, nó bảo hiệu sự thắng lợi của quyền lực trần thế trước quyền
lực của thần thánh. Cho đến cuối thời Xuâ Thu với sự suy đồi của tầng lớp
thống trị, trật tự và kỷ cương xã hội theo mô hình nhà Chu ngày thêm rối
loạn. Sự khốn cùng của đời sống nhân dân đã làm lay chuyển gốc rễ địa vị
thống trị của thần quyền. Bởi vậy, một vấn đề đặt ra cho các nhà tư tưởng các
học phái, các tầng lớp thống trị là phải tìm ra và luận giải những công cụ

những phương thức cai trị mới.
Sự xuất hiện của Nho giáo mà người sáng lập là Khổng Tử cũng nhằm
giải đáp nhu cầu thực tiễn của xã hội Trung Quốc đặt ra lúc bấy giờ. Nho giáo
đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là công cụ, là phương thức cai trị, quản
lý xã hội có hiệu quả nhất cũng như trong việc đưa xã hội từ “loạn” tới “trị”.
Có nghĩa là ở Nho giáo, đạo đức và chính trị gắn chặt với nhau và vì vậy có
thể nói, Nho giáo chủ yếu là học thuyết chính trị - xã hội về đạo đức.
1.1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử là người lập sáng lập ra Nho giáo, là nhà tư tưởng nổi tiếng
của Trung Hoa thời cổ đại. Các bài giảng, triết lý tư tưởng của ông có ảnh
hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của nhiều nước ở Đông Á
Cuộc đời của Khổng Tử

15


Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người làng Xương Bình, huyện
Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông sinh năm 551 trước Công nguyên,
lúc đó là lúc xã hội Trung Quốc cổ đại loạn lạc triền miên, các vua chúa
chuyên tâm hưởng thụ hoặc chém giết lẫn nhau để xưng hùng, xưng bá. Đạo
lý, nhân luân xáo trộn, vinh nhục không rõ ràng, thiện ác khó phân biệt, đời
sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Mẹ Khổng Tử là Nhan Trưng Tại còn gọi là Nhan Thị. Cha là Thúc
Lương Ngột, làm quan võ ở triều đình nước Lỗ. Thúc Lương Ngột lấy vợ đầu
sinh được 9 người con gái. Sau đó, ông lấy vợ lẽ sinh được con trai tên là
Mạnh Bì nhưng có tật què chân. Về già hơn 60 tuổi ông mới lấy Nhan Thị.
Họ lên núi Ni Khâu cầu để mong có con trai nối dõi tông đường và sau này
sinh được Khổng Tử.
Lên ba tuổi, Khổng Tử mồ côi cha, gia đình sống trong cảnh bần hàn
nhưng mẹ ông vẫn quyết chí nuôi con ăn học. Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng là

người siêng năng, học giỏi thích chơi trò cúng tế điều này cũng chứng tỏ ông
là người trọng lễ nghĩa. Đến 15 tuổi, ông bắt đầu để trí vào việc học đạo,
nghiên cứu lễ. Từ nhỏ Khổng Tử đã lập chí mang một hoài bão là thông qua
khôi phục lễ mà khôi phục lại trạng thái an thuận, thái hòa như thời Tây Chu.
Ông tự đảm nhận vai trò truyền bá văn hóa lễ, nhạc, Tây Chu mà Chu Công
Đán góp phần tu bổ. Ông ước mơ về một thế giới đại đồng, trong đó người
hiền tài có dịp sửa sang thiên hạ thành nội dung trọng yếu của lý tưởng nhân
sinh mà Khổng Tử luôn theo đuổi. Năm mười chín tuổi, Khổng Tử thành gia
thất. Hai mươi tuổi, ông đã nắm vững nhiều tri thức văn hóa và được ca ngợi
là “bác học hiếu lễ”, năm Khổng Tử hai mươi tuổi thì người mẹ qua đời. Lúc
này Khổng Tử từng làm tướng lễ, sau đó giữ chức ủy lại coi việc gạo thóc
trong kho, sau làm chức quan coi việc nuôi bò, dê để dùng vào việc học đạo
“Thủa ấy tuy Ngài còn trẻ tuổi, nhưng đã nổi tiếng là người giỏi, cho nên

16


quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai người con là Hà Kị và Nam Cung
Quát theo học lễ”[26, tr.48]. Ba mươi tuổi, nhờ sự giúp đỡ của Lỗ hầu, Khổng
Tử đến Lạc Ấp. Tại đây, ông đã tận mắt xem xét các tài liệu mà người xưa để
lại, hiểu được những thể chế, lễ nghi nhà Chu, điều gì chưa rõ thì hỏi han ở
mọi người, ít lâu sau ông trở về nước Lỗ, kiến thức rộng thêm, học trò càng
đông nhưng bản thân ông chưa được trọng dụng.
Năm năm mươi mốt tuổi, ông được vua nước Lỗ cử làm Trung Đô tể.
Một năm sau ông được cử làm Tư khẩu, sau đó được tăng lên chức đại Tư
Khấu (vị quan đứng đầu ngành tư pháp) “Ở chức vụ này trong bốn năm, ông
xem lại luật lệ, đặt ra những phép tắc nhằm cứu giúp người nghèo khó,
khuyến khích dân chúng giữ lấy thuần phong mỹ tục, bày ra một cảnh tượng
thái bình, người đi đường thấy của rơi không thèm nhặt, trộm cắp mất hẳn,
hình phạt đặt ra không cần dùng tới” [29, tr.188]. Sau đó ông được lên chức

Nhiếp tướng sự coi việc hình in, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước. Song do
vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn ca, múa hát xa hoa, bỏ bê triều chính, nên
Khổng Tử chán ngán, bỏ qua nước Vệ được mười tháng, vua nước Vệ không
dùng, ông qua nhà Trần, về Vệ, sang Tống lại qua Trần… Mười bốn năm
cùng học trò bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của mình, nhưng ý
nguyện của ông không thành. Trở lại nước Vệ lần cuối sau năm, sáu năm ông
mới thấy sự bất lực về việc chính trị. Sau mười bốn năm lưu lạc, Khổng Tử
lại trở về nước Lỗ lúc đó đã sáu mươi tám tuổi. Vào những năm cuối đời ông
chuyên tâm vào việc dạy bảo học trò, san định kinh sách. Năm bảy mươi ba
tuổi, Khổng Tử qua đời, mọi người đem thi thể của ông an táng bên sông Tứ
thủy, là nơi mà khi còn sống ông hay lui tới. Có nhiều học học trò đau đớn vì
sư phụ mà giữ chữ hiếu suốt ba năm. Sau đó học trò của Khổng Tử và người
nước Lỗ đã làm nhà cạnh mộ Khổng Tử dần dần tụ thành làng “Khổng”

17


Cuộc đời Khổng Tử đã trải qua nhiều thăng trầm, chính từ môi trường
xã hội, cùng với tư chất, năng lực cá nhân bẩm sinh đã hun đúc lên học thuyết
triết học, tư tưởng đạo đức của ông ra đời. Sau khi ông mất, ông được tôn là
“vạn thế sư biểu”, là bậc thánh nhân của nhân loại.
Những tư tưởng sâu sắc của Khổng Tử về thế giới, về xã hội, về con
người và đạo đức đã đưa ông lên tầm cao của nhà tư tưởng lớn, nhà giáo dục
nổi tiếng và nhà chính trị, đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử Trung Quốc
và nhiều nước Á Đông suốt hai ngàn năm trăm năm qua. Dĩ nhiên, tư tưởng
của ông có không ít những khuyết điểm mà trước hết là do những hạn chế của
thời đại. Nhưng công bằng mà nói, ông là một người có nhiều đóng góp cho
thời đại của ông và cho nhân loại.
Sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học hỏi, hết lòng lo

việc cứu đời, vì dân, vì nước. Nhắc đến Khổng Tử thế giới đều tôn vinh ông
là bậc chí thánh với tư cách là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà đạo đức lỗi lạc
của Trung Quốc và thế giới
Với tư cách nhà tư tưởng: Học thuyết Nho giáo của Khổng Tử ra đời
đặt nền móng cho tư tưởng Trung Quốc về nhiều mặt: triết học, đạo đức,
chính trị, giáo dục, quản lý xã hội.
Về triết học: Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào vấn đề xã hội, luân lý đạo
đức. Tuy nhiên, tư tưởng của ông nằm rải rác và đề cập đến mọi lĩnh vực của
triết học như quan điểm về thế giới, chính trị - xã hội, luân lý đạo đức, cuộc
sống con người. Khổng Tử thừa nhận thế giới là một thể thống nhất luôn vận
động, biến hóa do âm và dương. Sự tương tác chuyển hóa lẫn nhau giữa âm
và dương chính là sự tương tác chuyển hóa giữa hai thế lực căn bản nhất của
vũ trụ, vạn vật. Và ông cho rằng vạn vật đều chung một nguồn gốc và vận
động không ngừng theo đạo của nó “Nhất dĩ quán chi” [11, tr.56] và thường

18


dạy học trò: “Cũng như dòng nước này chảy đi, mọi vật đều qua đi. Ngày và
đêm, không có vật chi ngừng nghỉ” hay “trời có nói chăng? Thế mà bốn mùa
cứ xây vần mãi; trăm vật trong vũ trụ cứ sánh hóa mãi. Mà trời có nói gì
chăng” [11, tr.279]. Đồng thời ông nhấn mạnh, do con người là cái đức của
trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự tích tụ của quỷ thần là cái khí tinh tú
của ngũ hành, cho nên con người có cái sáng suốt để hiểu biết mọi vật. Nhưng
khi giải thích nguồn gốc sâu sa của vũ trụ, ông lại khẳng định là do “Trời”, do
“mệnh trời”, con người phải biết mệnh, dựa vào mệnh, theo mệnh, không thể
cưỡng lại mệnh. Điều này cho thấy trong triết học của Khổng Tử vừa có yếu
tố duy vật chất phác và biện chứng tự nhiên sơ khai lại vừa có yếu tố duy tâm
thần bí, điều mà sau này nhiều Nho giáo đã phát triển thành học thuyết duy
tâm phục vụ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, sự tồn tại của chế độ

phong kiến bảo thù, trì trệ ở Trung Quốc thời cổ - trung đại.
Trong hệ thống triết học của mình, Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các
vấn đề xã hội, mà trọng tâm là đạo đức con người. Ông cho rằng, con người
có cái đức của trời đất, có tri thức để hiểu biết vạn vật mới thông đạt với
thượng đế mà thi hành cái đạo trong xã hội. Người quân tử là mẫu người toàn
thiện trong quan niệm của Khổng Tử. Trong họ cần hội tụ đầy đủ mọi phẩm
chất đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong các đức tính đó thì theo Khổng
Tử đức nhân là trung tâm, là đầu mối của mọi đức tính khác. Chữ nhân trong
quan niệm của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng và sâu sắc, bao quát mọi mặt
của đời sống con người, khi thì thể hiện ra như một khái niệm trừu tượng
khái quát khi thì thể hiện một cách cụ thể sinh động, tùy hoàn cảnh mà biểu
hiện khác nhau. Trí và dũng là tiền đề biểu hiện của đức nhân, người có trí
là người có hiểu biết, biết phân biệt phải trái. Người nhân là người biết
nghi lễ phép tắc ứng xử. Tùy từng mối quan hệ khác nhau mà họ cần đem
những đức tính ấy ứng xử cho phải đạo, hợp lễ giáo. Còn tín là giữ đúng lời

19


hứa, làm đúng điều mình nói, dũng là biểu hiện của sức mạnh và ý chí thực
hiện mục đích của mình. Khổng Tử còn đề cập đến lễ, lễ bao gồm những
quy tắc, những quy định nhằm điều chỉnh hành vi, ứng xử nghiêm ngặt của
con người từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, lễ cũng là những nghi
thức từ việc cúng tế, ma chay, cưới hỏi, đình đám… nhân và lễ có mối
quan hệ khăng khít, nhân là gốc là nội dung còn lễ là biểu hiện của nhân, là
sự biểu hiện của hành vi bên ngoài.
Về đường lối trị nước: để thực hiện hoài bão của mình, Khổng Tử xây
dựng đường lối trị nước bằng đạo đức, để thực hiện đường lối trị nước đạt kết
quả, theo Khổng Tử nhà vua, người cầm quyền phải thi hành nhân, lễ, chính
danh. Bởi theo ông, người có lòng nhân thì mới có thể thi hành được đức trị,

mới đem đạo đức nơi mình ra làm gương trong thiên hạ để mọi người làm
theo và noi theo. Nhờ lễ được thi hành mà trong gia đình và xã hội mới có tôn
ti, trật tự, lễ còn ngăn chặn tình trạng “loạn luân” trong xã hội. Theo ông, mỗi
người cần làm đúng danh phận của mình, còn nếu không làm đúng danh phận
của mình thì làm việc gì cũng không thành công được. Có như vậy, xã hội
mới ổn định, an ninh thịnh trị như thời Tây Chu được.
Về phương thức tổ chức bộ máy nhà nước: Khổng Tử đề xuất phương
thức tổ chức bộ máy nhà nước như sau: trên là vua thay trời lãnh đạo, cai trị
dân chúng, dưới vua có các quan, bộ phận giúp việc cho vua, tiếp theo là các
tướng lĩnh, nho sĩ, binh sĩ, bộ phận dân chúng. Bộ máy nhà nước được tổ
chức chặt chẽ từ trên xuống dưới. Mỗi người phải tự hoàn thiện, tu thân, tích
đức, làm đúng vai trò nghĩa vụ của mình.
Khổng Tử chủ trương sử dụng người có đủ đức và đủ tài thì người dân
mới tin theo “Như bậc quốc trưởng cử những bậc chính trực, bỏ phế những kẻ
cong vậy, thì dân phục. Còn như dùng những kẻ cong vậy, bỏ phế những bậc
chính trực, thì dân chẳng phục” [11, tr.25] . Chính từ đó, Khổng Tử yêu cầu

20


những người cầm quyền phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức bản thân, phải
lấy việc dạy dân làm mục đích căn bản cho hoạt động chính trị của mình.
Với tư cách nhà hoạt động chính trị: Khổng Tử đã sử dụng những định
chế, lễ nghi trong quá khứ nhằm đạt ra hệ thống chính trị cho Trung Hoa thời
kỳ bấy giờ. Khổng Tử là đại diện cho tầng lớp quý tộc trong thời kỳ chế độ nô
lệ đang có xu hướng tan rã. Đây là thời cái cũ và cái mới đan xen ảnh hưởng
lẫn nhau. Ông đứng trên lập trường giai cấp chủ nô và đặt cho mình có trách
nhiệm khôi phục lại trật tự, lễ giáo nhà Chu. Tư tưởng chính trị của Khổng Tử
dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng, chính phủ tốt nhất là chính
phủ cai trị bằng lễ nghĩa, và bằng đạo đức chứ không phải là bằng vũ lực.

Con đường hoạt động chính trị của ông gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Năm mười chín tuổi, ông làm chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất
nạp tiền lương rồi tới chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi.
Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Đại Tư Khấu chuyên quản lý
việc xây dựng công trình. Suốt gần hai mươi năm, Khổng Tử dẫn học trò đi
khắp các nước trong vùng để truyền bá tư tưởng và tìm người dùng tư tưởng
đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm
năm mốt tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm
sau ông được thăng chức Đại Tư Khấu, kiêm quyền Tể tướng nhưng rồi lại
bị li gián, rèm pha, ông bèn từ chức. Tiếp đó ông tiếp tục dạy học, bắt tay
vào soạn sách, có thể thấy, dù tư tưởng của Khổng Tử có nơi không được
trọng dụng nhưng ông vẫn nỗ lực thực hiện lý tưởng chính trị bằng cách dốc
hết sực vào sự nghiệp giáo dục, văn hóa và về sau này tư tưởng của Khổng
Tử đã trở thành hệ tư tưởng chính trị chính thống trong các chế độ phong
kiến Trung Quốc sau này.
Với tư cách là nhà giáo dục: Khổng Tử là người đầu tiên sáng lập chế
độ giáo dục tư thục trong lịch sử Trung Quốc. Những bài giảng của ông sau

21


này được các học trò của ông hệ thống lại thành cuốn Luận ngữ. Mục đích
giáo dục của ông là đào tạo ra những con người lý tưởng, những con người có
đạo đức. Khổng Tử đề xuất và sử dụng nhiều phương pháp dạy học rất độc
đáo như phương pháp đối thoại gợi mở, phương pháp dạy học trao đổi giữa
thầy và trò… Và Khổng Tử luôn xác định “Học đạo mà không biết chán, dạy
người mà không biết mệt mỏi” [11, tr.99]. Trong quá trình giáo dục, Khổng
Tử nhấn mạnh cả thầy và trò đều có nghĩa vụ với nhau, trò phải tôn trọng
thầy, không được bỏ lễ nghĩa. Ông chủ trương “hữu giáo vô loại”, không phân
biệt sang hèn, ai có nhu cầu học đạo ông đều dạy. Khổng Tử xứng đáng là

một nhà giáo lớn, ông được coi là người thầy tiêu biểu của muôn đời.
Khổng Tử chính là một tấm gương giáo dục. Ông đã đóng góp to lớn
trong việc chỉnh lý hệ thống và viết sách phục vụ cho giáo dục. Những trước
tác vĩ đại do ông siêu tầm và hiệu đính như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ,
Kinh Dịch và soạn Kinh Xuân Thu, đã trở thành tác phẩm kinh điển của Nho
học. Hơn hai lăm thế kỷ đã trôi qua, nhưng danh hiệu “chí thánh tiên sư, vạn
thế sư biểu” mà người xưa đã suy tôn cho Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị
với nhân loại thời nay. Năm 1982, để chúc mừng Khổng Tử nhân kỷ niệm
ngày sinh lần thứ 2533, các giới nhân sĩ nước Mỹ tiến hành đại lễ long trọng
ở Cựu Kinh Sơn, Tổng thống Ri Gân co gửi điện mừng và nói rằng “Hành vi
cao quý và tư tưởng đạo đức luân lý vĩ đại của Không Tử không chỉ có ảnh
hưởng ở trong nước mà còn ảnh hưởng đến toàn nhân loại, học thuyết Khổng
Tử đời đời lưu truyền, đưa ra các nguyên tắc đối nhân xử thế cho toàn nhân
loại” [11 , tr.8].
1.2. Nội dung tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
1.2.1. Nội dung tư tưởng đạo đức cơ bản theo quan niệm của Khổng Tử
Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối
tượng và những quy tắc, cách thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức. Khổng Tử

22


rất đề cao việc tu thân, bởi theo ông tu thân là tu theo đức, đạt được đức,
Khổng Tử cho rằng có năm đức cơ bản là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và nhiều đức
khác nữa mà mỗi người cần phải tu dưỡng, học tập.
Thứ nhất là: Đức Nhân
Nhân là một khái niệm đạo đức, là chuẩn mực đạo đức cơ bản của con
người trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử. Khổng Tử và học trò của ông
luôn coi Nhân là một tiêu chuẩn cao nhất trong đạo làm người.
Nhân có nhiều cách hiểu khác nhau, khi các đệ tử hỏi về điều Nhân, với

mỗi học trò khác nhau tùy thuộc vào học lực, tư cách của từng người mà
Khổng Tử trả lời với mỗi người một khác. Như Nhan Hồi hỏi về Nhân Khổng
Tử nói rằng: “Làm nhân là khắc kỷ, phục lễ, tức là chế thắng lòng tư dục,
vọng niệm của mình và theo về lễ tiết” [11, tr.181]. Còn khi Phàn Trì hỏi
nhân thì Khổng Tử khẳng định: “nhân là thương người” [11, tr.193]. Trọng
Cung hỏi về nhân Khổng Tử nói: “Ra cửa phải như tiếp khách lớn, trị dân
phải như làm lễ tế lớn, điều gì mình không muốn ai làm cho mình, thì không
nên làm cho ai. Trong nước chả ai oán mình, ở nhà chẳng ai ghét mình” [11,
tr.181]. Người Nhân theo Khổng Tử còn biết yêu người và ghét người “Duy
có người nhân mới biết yêu người và ghét người một cách chính đáng mà
thôi” [11, tr.51].
Nhân là chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người, Khổng Tử và học
trò của ông luôn coi nhân như một tiêu chuẩn đạo đức cơ bản và cao nhất
trong đạo làm người. Khổng Tử cho rằng dân cần biết điều nhân hơn cả cần
nước và lửa, nghĩa là điều nhân là cái cần có và được thực hiện trong tất cả
mọi người từ vua cho đến thứ dân. Khi dạy học trò mình, ông luôn mong ước
các học trò của mình phải rèn luyện, tu dưỡng, để đạt được đức nhân và ứng
dụng trong thực tiễn.

23


Đức nhân hay con người có nhân được biểu hiện ra là nhân cách. Nhân
cách là là khái niệm chỉ tư cách con người chủ yếu về phương diện đạo đức.
Nhân cách là sự xác định của con người trong các mối quan hệ xã hội, phát
huy các phẩm chất của chủ thể đối với mọi người xung quanh, đó là xác định
tư cách của người có đức nhân. Theo Khổng Tử, muốn vậy mỗi người luôn
phải “Luôn sửa mình theo lễ là người có nhân” [11, tr.181]. Biểu hiện của đức
nhân, khi học trò Tử Trương có hỏi về đức nhân, Khổng Tử nói “Hãy làm
được năm đức tính tốt trong thiên hạ là người nhân. Đó là cung, khoan, tín,

mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan dung thì được mọi
người mến, có chữ tín thì được mọi người tin cậy, cần mẫn thì được công
việc, nhiều ơn huệ thì dễ thu hút được lòng người” [11, tr.213]. Nhân cách
theo Khổng Tử là mỗi người phải tự trau dồi cho mình những đức tính tốt
đẹp, đủ để giáo hóa, làm gương cho mọi người chung quanh học tập, cùng
nhau tiến bộ hơn.
Theo Khổng Tử, đức nhân còn được thể hiện ra là lòng nhân ái. Nhân
là lòng yêu thương mọi người, yêu thương vạn vật muốn cho vạn vật bao giờ
cũng có cái khoái lạc mà sống ở đời. Như khi học trò Phàn Trì hỏi về đức
nhân, Khổng Tử cho rằng đó là yêu người. Yêu thương con người như yêu
thương bản thân mình, mình thành công cũng giúp cho người thành công,
điều gì mình không muốn thì cũng chớ đem cho người khác, và điều nhân
được thể hiện ở ý nguyện của con người, đó cũng là cái đích mà tới ngày này,
loài người vẫn luôn hướng tới.
Khổng Tử ghét một số người như bọn “Xảo ngôn lệnh sắc” (kẻ nào
miệng nói lời hoa mỹ; còn mặt mày thì trau chuốt; hình dạng thì kiểu cách, áo
quần thì lòe loẹt; kẻ ấy hẳn kém lòng nhân) [11, tr.4], bọn bẻm mép lợi khẩu,
“Ghét kẻ bên xấu chuyện của người, ghét kẻ bậc dưới mà nói gièm bậc trên,
ghét kẻ có sức dõng cảm mà chẳng biết lễ phép, ghét kẻ quả quyết làm liều để

24


×