Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phạm trù lễ của khổng tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.22 KB, 13 trang )

Phạm trù lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó
đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh
Việt Nam hiện nay


Nguyễn Thị Lan Minh


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS. ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: TS. Lê Trọng Hanh
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Trình bày cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử. Phân tích phạm
trù Lễ và các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ. Trình bày các nội
dung cơ bản trong phạm trù Lễ của Khổng Tử. Phân tích thực trạng đạo đức học sinh
ở Việt Nam hiện nay. Đưa ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức học sinh
ở Việt Nam và một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay.

Keywords. Triết học; Tư tưởng Khổng Tử; Triết học phương Đông; Giáo dục đạo
đức; Lễ

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng của Khổng Tử có một vị trí rất đặc biệt. Sự đặc
biệt ấy không chỉ bởi những giá trị đặc sắc trong nội dung tư tưởng và tầm ảnh hưởng của nó
đối với thời đại nó ra đời mà còn bởi tư tưởng Khổng Tử đã sống một cuộc sống lâu bền và
rất riêng, vượt qua khuôn khổ một thời đại, một quốc gia. Tư tưởng Khổng Tử nói riêng và tư
tưởng nho giáo nói chung đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến trong suốt tiến


trình phát triển qua các triều đại phong kiến ở Trung Hoa và nhiều nước Á Đông khác trong
đó có Việt Nam.
Với một hệ thống những quan điểm về thế giới và đặc biệt là quan điểm nhân sinh thể
hiện trong quan niệm về chính trị xã hội và luân lý đạo đức, Khổng Tử là người đã đặt nền
móng cho sự phát triển của Nho học trong lịch sử Trung Hoa. Quan điểm về Lễ là một trong
những nội dung chủ yếu trong quan niệm về chính trị xã hội, luân lý đạo đức của Khổng Tử.
Trong học thuyết về chính trị - xã hội của Khổng Tử, Lễ được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau nhưng dù ở khía cạnh nào nó cũng không vượt ra khỏi mục đích tối cao nhằm giải quyết
một vấn đề lớn của thời đại ông là bình ổn xã hội. Khổng Tử muốn khôi phục Lễ để thực hiện
điều Nhân nhằm bình ổn xã hội loạn lạc để quay trở lại như thời Tây Chu. Tất nhiên, từ Lễ
trong nền giáo dục phong kiến đến Lễ trong nền giáo dục hiện đại đã có rất nhiều biến đổi
nhưng ở bất kỳ thời đại nào cũng có những giá trị được bảo tồn. Bởi vậy, hoàn toàn không
ngẫu nhiên khi người Trung Hoa suy tôn Khổng Tử là “Vạn thế sư biểu” (thầy của muôn
đời).
Trong quá trình du nhập vào Việt Nam tư tưởng của Khổng Tử và Nho giáo từ chỗ bị đối
xử thiếu thiện cảm do đi theo gót chân của kẻ xâm lược dần dần nó đã hòa nhập vào đời sống
cộng đồng bởi những nét tương đồng và không ngừng thay đổi thích ứng với văn hóa bản địa.
Người Việt đã sớm tiếp biến tư tưởng Khổng Tử không chỉ bởi sự giao thoa văn hóa tự nhiên
mà còn bởi sự ủng hộ và tiếp sức của giai cấp phong kiến Việt Nam qua nhiều triều đại. Tư
tưởng Khổng Tử và Nho giáo, trong đó có tư tưởng về Lễ cũng như chính Khổng Tử và nhiều
danh nho khác sớm chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền giáo dục phong kiến và đời
sống tinh thần của người Việt Nam.
Trong những năm gần đây cùng với sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, nền giáo dục Việt Nam cũng có những bước chuyển mình quan trọng và đạt được một
số thành tựu nhất định. Tuy nhiên cùng với quá trình ấy cũng đã đưa đến một số thay đổi tiêu
cực trong các quan hệ xã hội. Một bộ phận học sinh có hành vi và suy nghĩ lệch lạc gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường giáo dục và báo hiệu một sự suy thoái về đạo đức và lối sống. Ở
một nền văn hóa tương đối đậm chất nho học như Việt Nam thì điều đó càng khó chấp nhận
vì nó đi ngược lại với truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, Kính
trên nhường dưới. Để phát triển một thế hệ mới trong tương lai làm chủ đất nước và thực hiện

thành công sự nghiệp phát triển đất nước bên cạnh việc giáo dục tri thức khoa học thì giáo
dục đạo đức có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tư tưởng của Khổng Tử nói chung và quan điểm về Lễ nói riêng có ý nghĩa rất lớn trong
việc giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay.
Với những giá trị đã được thẩm định, phát triển qua thực tiễn nhiều thế kỷ cùng với sự
tiếp biến linh hoạt và cho vào Lễ một hơi thở của thời đại thì nó hoàn toàn có thể giúp khôi
phục và định hình một nhân cách chuẩn đối với học sinh, đặc biệt là với một bộ phận học
sinh lệch chuẩn hiện nay ở nước ta.
Với những suy nghĩ đó, tôi đã làm luận văn cao học với đề tài: “Phạm trù Lễ của Khổng
Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nho giáo nói chung và phạm trù Lễ trong triết học của Khổng Tử nói riêng là đối tượng
nghiên cứu đang thu hút nhiều ngành khoa học nghiên cứu trong nhiều thế kỷ qua cho tới
hiện nay, như: triết học, văn hóa học, sử học, tôn giáo học, giáo dục học, đạo đức học… Có
thể khái quát kết quả nghiên cứu đó theo ba hướng sau:
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về Khổng Tử trong tổng thể nền văn hóa
Trung Quốc. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến các tác phẩm như: “Sử ký”
của Tư Mã Thiên, Nxb Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 1988; “Lịch sử văn minh và các triều
đại Trung Quốc”, được biên soạn năm 2004 bởi TS. Dương Ngọc Dũng - Nhà nghiên cứu
Anh Minh, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ C hí Minh; “Lịch sử văn minh Trung Hoa” của sử
gia lớn nhất thời hiện đại Will Durant, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội (dịch giả Nguyễn
Hiến Lê), 2004; “Đại cương triết học sử Trung Quốc”, của nhà triết học Phùng Hữu Lan
(Fung Yu-Lan), Nxb Thanh niên, Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà Nội (người dịch
Nguyễn Văn Dương), xuất bản năm 1999; “Nho giáo Trung Quốc” của tác giả Nguyễn Tôn
Nhan, Nxb Văn hóa thông tin, năm 2005; “Lịch sử triết học phương Đông”, của GS. Nguyễn
Đăng Thục, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, xuất bản năm 2006; “Đạo đức phương Đông cổ
đại”, của PGS. Vũ Tình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản 1998… Các công trình
nghiên cứu đã trình bày một cách khái quát về tư tưởng triết học Khổng Tử, trong đó có tư
tưởng về Lễ của ông tổ Nho giáo để khắc họa chân dung một con người, một nhân cách, một
đại biểu văn hóa.

Hướng thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng Khổng Tử trong dòng phát triển
của lịch sử triết học Trung Quốc. Trong dòng nghiên cứu này có thể kể đến những công trình
tiêu biểu như: “Đại cương triết học Trung Quốc” của Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nxb Cao
Thơm, Sài Gòn, năm 1966; “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc” do Doãn Chính chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1999; Lịch sử triết học sử Trung Quốc (2 tập) của tiến sĩ
Phùng Hữu Lan (Feng You Lan), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2006; Các công trình
nghiên cứu này đã trình bày, phân tích một cách sâu sắc triết học Khổng Tử trong tiến trình
lịch sử triết học. Hơn nữa, các công trình này tập trung phân tích các học thuyết về chính trị,
xã hội của Khổng Tử, ít nhiều có đề cập đến phạm trù Lễ trong mối tương quan đến các phạm
trù đạo đức trong “ngũ thường” như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Trong thời gian gần đây, đã xuất hiện tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử triết học
Trung Quốc là “Từ điển triết học Trung Quốc” của PGS. TS. Doãn Chính, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, xuất bản vào năm 2009; tác phẩm này trình bày, phân tích một cách sâu sắc
những vấn đề như: nội dung các học thuyết trong triết học của Khổng Tử; lịch sử hình thành,
phát triển và sự biến đổi của phạm trù Lễ trong tiến trình lịch sử, nguyên nhân sự ra đời của
Lễ cũng như ý nghĩa, công dụng Lễ Tuy nhiên, do đặc trưng của thể loại Từ điển và do khối
lượng kiến thức đồ sộ mà tác phẩm đề cập đến, nên tác giả đành hạn chế phần phân tích nội
dung của Lễ.
Hướng thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết của các tác giả chuyên
nghiên cứu, dịch thuật và giới thiệu riêng về Lễ trong triết học Khổng Tử, như: “Lễ Ký - kinh
điển về việc lễ” của tác giả Nhữ Nguyên, Nxb Đồng Nai, Biên Hòa, 1996; “Kinh lễ”, do
Nguyễn Tôn Nhan biên dịch và giới thiệu, Nxb Văn học, năm 1996; “Tứ Thư”, Dịch giả
Đoàn Trung Còn, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006;… Những công trình nghiên cứu này biên dịch
phần nguyên bản chữ Hán, đồng thời các nhà nghiên cứu, dịch thuật cũng cố gắng bằng kiến
thức uyên thâm của mình phân tích, thuyết minh một số nội dung nhằm giúp độc giả hiểu
được phần lớn tinh thần của tác phẩm.
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận theo một hướng khác nhau, nhưng chưa có
công trình nghiên cứu nào được coi là có cái nhìn toàn diện về phạm trù Lễ trong triết học của
Khổng Tử, chưa có công trình nào nghiên cứu riêng biệt hoặc trình bày một cách có hệ thống
nội dung của Lễ, chưa có công trình nào đánh giá hết những giá trị, hạn chế của tư tưởng về Lễ

của Khổng Tử, cũng như đề ra phương pháp vận dụng những bài học lịch sử đó vào việc hoạch
định chính sách, biện pháp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay.
Để có cái nhìn toàn điện về đạo đức, lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay, trên cơ
sở nghiên cứu tư tưởng và quan điểm của Đảng, tác giả tham khảo, kế thừa những công trình
khảo sát, thống kê, nghiên cứu về thanh niên, về đạo đức, lối sống của thanh thiếu niên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Những công trình này đã phản ánh thực trạng về tình hình đạo
đức, lối sống của thanh thiêu niên Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường đang phát triển.
Có thể khẳng định đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu của những nhà khoa học,
những công dân đang trăn trở về những biến động trong lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội. Có thể kể đến:
“Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, do Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên),
Nxb Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2008. Nhóm tác giả đã trình bày quan niệm chung về
chuẩn mực đạo đức theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân
tích các giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống con người Việt Nam; đồng thời phân tích các
tác động của nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến sự vận động biến đổi
các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam hiện nay.
ThS. Phạm Tấn Xuân Tước, PGS TS. Huỳnh Thị Gấm (2008), “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội. Công trình trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng, lối sống mới cho thanh niên; phân tích thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên; thực
trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên; đề ra các nhóm giải pháp về giáo dục
đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công trình “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” công bố ngày 26
tháng 8 năm 2005. Tính cho đến nay, đây là cuộc điều tra về vị thành niên và thanh niên lớn
nhất, toàn diện nhất ở Việt Nam, là nguồn thông tin bổ ích, đáng tin cậy về tình trạng sức
khỏe, đời sống xã hội, thái độ, hoài bão của thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay.
Đây là các công trình rất công phu, mỗi tác giả lại có cái nhìn chuyên sâu về từng khía
cạnh của đời sống thanh niên hiện nay và từ đó đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao
đạo đức xã hội. Song, các tác phẩm còn dừng lại ở những giải pháp ở tầm vĩ mô, chung
chung mang tính định hướng mà chưa thực sự cụ thể, phù hợp để xây dựng những chuẩn mực

đạo đức cho từng nhóm bộ phận những người Việt Nam, chưa xây dựng được chương trình,
biện pháp giáo dục đạo đức hiệu quả cho đối tượng thanh thiếu niên.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ triết học đã được bảo vệ xoay quanh vấn đề con
người, mẫu người, đạo làm người và vấn đề giáo dục đào tạo con người theo những nguyên tắc
chuẩn mực đạo đức của nho giáo như: “Tìm hiểu mẫu người quân tử qua hai tác phẩm “Luận
Ngữ” và “Mạnh Tử” của Nguyễn Xuân Lộc, “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con
người qua các mối quan hệ thân - nhà - nước- thiên hạ” của Trần Đình Thảo, “Quan niệm của
Khổng Tử về giáo dục” của Nguyễn Bá Cường, “Quan niệm của Khổng Tử về con người và
giáo dục đào tạo con người” của Nguyễn Thị Tuyết Mai… Mặc dù các luận văn, luận án đều có
phạm vi nghiên cứu cụ thể của từng đề tài xong các tác giả ở những mức độ nhất định đã đề cập
đến tư tưởng về lễ trong quan hệ mật thiết với các phạm trù đạo đức khác góp phần hình thành
nên tính toàn vẹn của mẫu người lý tưởng mà Nho giáo muốn xây dựng.
Với thái độ trân trọng những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước đã cung cấp
nhiều kiến thức về phạm trù Lễ cũng như đạo đức, lối sống xã hội vô cùng bổ ích và có giá
trị, tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc và trung thực nguồn tư liệu quý báu đó trong quá
trình thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

̀
viê
̣
c nghiên cư
́
u co
́

̣
thống tư tươ
̉

ng cu
̉
a khô
̉
ng Tư
̉
về Lê
̃
, luâ
̣
n văn đa
́
nh gia
́
như
̃
ng
giá trị, hạn chế và rút ra bài học lịch sử của nó cùng những kiến nghị đối vơ
́
i sư
̣
nghiê
̣
p giáo
dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử
- Phân tích phạm trù Lễ và các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ.

- Trình bày các nội dung cơ bản trong phạm trù Lễ của Khổng Tử.
- Phân tích thực trạng đạo đức học sinh ở Việt Nam hiện nay
- Đưa ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức học sinh ở Việt Nam và một số
kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay.
4. Đối tượng và pha
̣
m vi nghiên cư
́
u của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Phạm trù Lễ của Khổng Tử để từ đó rút ra ý nghĩa của Lễ
đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Triết học Nho giáo nguyên thủy bao gồm rất nhiều vấn đề như con người, chính trị - xã
hội, giáo dục… nhưng ở đây luận văn chỉ nghiên cứu về phạm trù Lễ của Khổng Tử và ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức học sinh ở Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng - chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vấn đề đạo đức.
Luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgic, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn
dịch…
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn đã làm rõ hơn những nội dung trong quan niệm về Lễ của Khổng Tử và từ đó
làm rõ vai trò quan trọng trong tư tưởng Lễ của Khổng Tử đối với việc giáo dục đạo đức cho
học sinh hiện nay.
- Luận văn góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm lý luận và phương pháp giáo dục đạo
đức con người qua tìm hiểu Lễ trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung và trong triết học
Khổng Tử nói riêng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học và đạo

đức trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, Trung học phổ thông… ở
nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn bao gồm 2 chương,
7 tiết:
Chương 1: Quan niệm Lễ của Khổng Tử
Chương 2: Ý nghĩa của Lễ trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay.

Chương 1
QUAN NIỆM LỄ CỦA KHỔNG TỬ
1.1. Cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử
1.1.1. Khổng Tử cuộc đời và sự nghiệp
Khổng Tử là người ấp Châu, làng Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc. Khổng Tử sinh vào mùa đông tháng 10 năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời
vua Linh Vương nhà Chu, tức là năm 551 trước Công Nguyên. Bà Nhan thị có lên cầu tự trên
núi aNi Khâu, cho nên khi sinh ra ông mới nhân điềm ấy mà đặt tên ông là Khâu, tên tự là
Trọng Ni. Có sách chép rằng trán ông cao và gồ lên cho nên mới đặt tên là Khâu. Khâu nghĩa
là cái gò.
Khổng Tử tôn phù nhà Chu để giảm bớt cái quyền các nước Chư hầu, giữ quyền vua Chư
hầu mà bớt quyền các quan Đại phu. Vì vậy cho nên ông đi chu du khắp thiên hạ mà không
tìm được chỗ nào để thi hành cái đạo của mình.
Cũng bởi vậy nên ông đã chu du nhiều nước song không được trọng dụng. Cuối đời, thấy
thật sự bất lực việc làm chính trị ông về quê dạy học, san định Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của
cổ nhân, viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm của ông thể
hiện qua các buổi tọa đàm mà nội dung của nó sau này được trình bày trong “Luận Ngữ” do
học trò của ông chép lại. Sau khi Khổng Tử mất, nhất là qua giải pháp tàn khốc “đốt sách,
chôn nho” của Tần Thủy Hoàng thì sách của Khổng Tử không còn giữ được là bao. Khi đạo
Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế), sách Nhạc chỉ còn một thiên, được đem ghép vào bộ
“Lễ ký” gọi là thiên “Nhạc ký”. Những sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung
tạo thành năm kinh là: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.

1.1.2. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu
Thời Xuân Thu về mặt kinh tế sức sản xuất đã phát triển. Công cụ sản xuất nhất là công
cụ bằng sắt bắt đầu xuất hiện việc dùng bò kéo cày trở thành phổ biến. Cùng với sự phát triển
của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp, buôn bán cũng phát đạt hơn trước.
Về chính trị - xã hội, suốt thời Xuân Thu vì mệnh lệnh Thiên tử không được chư hầu tuân
thủ, chế độ tông pháp bị phá bỏ, trật tự lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy vi
nên các nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính và tranh giành địa vị của
nhau diễn ra liên miên và vô cùng khốc liệt.
Chính vì vậy trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều học thuyết nhằm tìm cách sửa đổi để
cứu vớt thiên hạ trong đó có học thuyết của khổng Tử, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí để dạy người,
lấy cương thường mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự ở trong xã hội cho bền vững.
1.2. Khổng Tử bàn về Lễ
1.2.1. Phạm trù Lễ
Trước Khổng Tử, kể từ thời Chu Công, Lễ đã có hai nghĩa: nghĩa cũ là tế lễ có tính chất
tôn giáo, nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công chế định, có tính cách chính trị, để
duy trì trật tự xã hội. Sau dùng rộng ra ý nghĩa của Lễ chỉ cả phong tục tập quán và sau cùng
qua thời Đông Chu nhất là từ Khổng Tử nó có một nội dung mới, nội dung luận lý chỉ sự kỷ
luật về tinh thần: Người có lễ là người biết tự chủ khắc kỷ
Khổng Tử chủ trương tòng Chu, giữ pháp điển lễ nhạc của Chu Công thì tất nhiên rất
trọng Lễ và buộc vua chúa phải trọng Lễ. Lễ để duy trì trật tự xã hội, có trật tự đó thì vua mới
được tôn, nước mới được trị, nếu vua không trọng lễ thì còn bắt ai trọng nó được nữa.
Chính vì vậy trong việc trị nước cũng như tu thân học đạo, sửa mình để đạt đức “Nhân”
thì “Lễ” là một trong những yếu tố được Khổng Tử rất mực coi trọng. Điều này được thể hiện
rõ trong cuốn Luận ngữ.
Quan niệm về Lễ không chỉ dừng ở Khổng Tử mà nó đã được phát triển và mang những
hàm nghĩa khác nhau trong quan niệm của một số triết gia khác như Mạnh Tử, Tuân tử hay
trong cả Lễ Ký - một tập sách do nhiều nho gia thời Hán viết ra.
Nói tóm lại dù Lễ có được hiểu ở những khía cạnh nào và ở các nhà Nho khác nhau, ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau song vẫn lấy tư tưởng Lễ của Khổng Tử làm tiền đề lý
luận bởi mục đích của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng là nhằm ổn định trật tự xã

hội và giáo hóa con người. Và chúng ta không thể phủ nhận phạm trù Lễ của Khổng Tử đã ít
nhiều thực hiện được mục đích đó trong lịch sử xã hội Trung Hoa.
1.2.2. Các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ
1.2.2.1. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhân
Trong Luận Ngữ khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần tùy từng đối tượng,
từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng nhất Nhân
là nguyên tắc đạo đức. Theo Khổng Tử Nhân là nội dung, Lễ là hình thức của Nhân và Chính
danh là con đường để đạt đến điều Nhân.
Để đạt được đức Nhân con người phải có Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân, con
người sẽ không đạt được Nhân nếu như: xem, nghe, nói, làm điều trái Lễ. Và vì vậy cũng như
nhạc, thi, thư, Lễ là phương tiện để giáo hóa con người. Nếu không có Nhân mà dùng Lễ thì
Lễ chỉ là hình thức sáo rỗng mà thôi.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa Lễ và Nghĩa
Theo Khổng Tử Nghĩa chính là để cái thích đáng hay cái đạo lý. “Khổng Tử nói: …thấy
việc nghĩa mà chẳng làm, ấy là người chẳng có khí dõng” (Tử viết: …kiến nghĩa bất vi, vô
dõng dã) [Luận ngữ, Vi chính, 24]. Hay Khổng Tử còn nói: “…Này, đạt nhân là phải có tính
chất phác và ngay thẳng”.
Theo Khổng Tử Nghĩa trái ngược với lợi “Bực quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu
nhơn rành rẽ về việc lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) [Luận ngữ, Lý nhân, 16].
Nghĩa chính là cơ sở để hình thành Lễ còn Lễ chính là mục tiêu, tiêu chuẩn để xác hành
vi có Nghĩa hay không.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa Lễ và Pháp
Pháp theo nghĩa hẹp là luật lệ, quy định, là điều luật, hiến lệnh có tính chất khuôn mẫu mà
mọi người không phân biệt vua tôi, trên dưới, sang hèn đều phải tuân theo, theo nghĩa rộng
pháp có thể hiểu như là thể chế chế độ xã hội.
Lễ và Pháp đều là những quy định nhằm ổn định trật tự xã hội. Nếu như Khổng Tử chủ
trương giáo hóa con người bằng đạo đức thì Hàn phi lại chủ trương trị nước bằng Pháp.
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhạc
Nhạc cũng như Lễ rất có ảnh hưởng về đường chính trị. “Thanh tâm chi đạo, dữ chính
thông hỹ: đạo thanh âm thông với chính trị vậy” (Nhạc ký, XIX). Dùng Nhạc cũng như dùng

Lễ phải lấy giữ đạo trung. Nhạc khiến người ta đồng thương, đồng vui. Nhưng thương hay
vui đều phải lấy điều hòa làm chủ.
Lễ và Nhạc đều dùng để sửa đổi tâm tính cho ngay chính hay nói cách khác Lễ và Nhạc
đều là phương tiện nhằm giáo hóa con người góp phần ổn định trật tự xã hội.
1.2.2.5. Mối quan hệ giữa Lễ và Hòa
Việc thực hiện Nhân và khôi phục Lễ là Hòa. Tuy nhiên quan điểm Hòa của Khổng Tử
còn có phần hạn chế đó là thủ tiêu sự đấu tranh bởi theo ông người nghèo vùng lên đấu tranh
là không nên, người quân tử cũng vậy họ chỉ biết nên tranh việc thi bắn mà thôi.
1.3. Một số nội dung cơ bản của Lễ
1.3.1. Lễ là những quy định về nghi thức tế lễ
Lễ bái là việc mang ý nghĩa tôn giáo nhưng nó không chỉ là những nghi thức có tính hình
thức.
Với Khổng Tử, khi tế lễ phải kính cẩn nghiêm túc ông nói “Cư thượng bất khoan, vi lễ
bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan tri tạng” nghĩa là ở bậc trên mà không khoan
nhượng, làm lễ mà không nghiêm túc sẽ gặp việc tang mà không bi thương hạng người đó
còn gì cho ta xem xét nữa.
Ngoài ra Khổng Tử còn quan tâm tới cả nghi thức, nghĩa vụ, bổn phận của mỗi con người
khi tế lễ. Điều đó nghĩa là khi tế lễ phải đúng danh phận của mình, đúng những nghi thức,
quy định mà xã hội đã đặt ra thì không được vi phạm nếu vi phạm thì sẽ là người thất lễ, tiếm
lễ, tiếm quyền.
Khổng Tử không chỉ quy định địa vị cho mỗi con người khi tế lễ mà còn quy định cả cách
ăn mặc khi tế lễ. Cách ăn mặc trong lúc tang chế, ở chỗ triều đường hay khi đi trận mạc phải
theo Lễ cũng là có ý để gây nên những tình cảm cho xứng đạo nhân.
Trong những quy định của Lễ trong việc tế lễ tang ma còn có cả thời gian để tang và cư
tang.
Ngoài thời gian cư tang còn quy định cách thức cư tang nhất là đối với cha mẹ, nhưng khi
cha mẹ chết phải làm nhà tạm ở nơi chôn cất và ở đó ba năm.
1.3.2. Lễ là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia
Lễ được vận dụng trong lĩnh vực chính trị còn có tên là đường lối trị nước gọi là Lễ trị.
Lúc bấy giờ có hai quan điểm khác nhau về đường lối trị nước đó là Pháp trị và Lễ trị. Khổng

Tử phê phán Pháp trị và đề cao Lễ trị. Khổng Tử cho rằng dùng đức và Lễ để trị nước thì có
sức quy tụ lớn. Ông nói: “Lấy đức làm cơ sở cho chính sự thì như sao Bắc đẩu ở trên trời, chỉ
đứng một chỗ mà các sao khác đều chầu về”.
Phạm trù Lễ của Khổng Tử còn được dùng về phương diện phân tôn ti trật tự, tức là phép
tắc để tổ chức luân lí ở trong gia đình, xã hội và quốc gia.
1.3.3. Lễ là chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội
Mục đích cơ bản của Khổng Tử là xây dựng Lễ, xây dựng mẫu người có đạo đức nhân
nghĩa mong muốn có một xã hội bình yên theo quan niệm của giai cấp phong kiến đương
thời.
Trước hết những quan hệ đạo đức đó được thể hiện trong gia đình, tế bào của xã hội mà
trước hết là mối quan hệ với cha mẹ, bởi vì cha mẹ là người đầu tiên của các mối quan hệ xã
hội.
Lễ còn được quy định cả những cách ứng xử của những người có chức, có quyền trong
xã hội như trong quan hệ vua tôi
Lễ giáo khuyên người ta trong quan hệ với bạn bè phải chân thành thân mật “Cửu nhi
kính chi”.
Trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức ấy mà con người điều chỉnh hành vi xử thế của
mình trong các quan hệ cho phù hợp.
1.3.4. Lễ là công cụ tiết chế hành vi của con người
Khổng giáo vốn lấy tình cảm làm trọng nhưng cái tình cảm của con người mà không được
hạn chế thì thành hư hỏng.
Sự giáo hóa Lễ của Khổng Tử rất sâu sắc. Trong Lễ ký đã viết “Lễ chi giáo hóa giã vi, kỳ
chỉ tà giả ư vị hình, sử nhân nhật tỷ thiện, viễn tộ, nhi bất tự tri giã: sự giáo hóa của lễ rất cơ
màu, khăn cấm điều bậy ngay lúc chưa hình ra khiến người ta ngày ngày đến gần điều thiện
tránh xa điều tội mà tự mình không biết”.

́
t luâ
̣
n chương 1

Lễ là một trong những phạm trù đạo đức có ý nghĩa rất phổ biến trong đời sống văn hóa
tinh thần của người Trung Quốc; và cũng là một trong năm đức cơ bản nhất của con người
trong thuyết “ngũ thường” của Nho gia là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Lễ là phạm trù xã hội tổng hợp, bao gồm những nghi thức trong tế lễ, những nguyên tắc
về tổ chức và hành động chính trị, những chuẩn mực về tư tưởng và hành vi của con người
nhằm bảo đảm trật tự và sự yên bình của xã hội phong kiến Tông pháp Trung Quốc đương
thời.
Lễ còn được coi là đường lối chính trị gọi là “Lễ trị” xã hội có trật tự được xem là xã hội
có lễ, con người có đạo đức được đánh giá là con người có lễ: Hiểu lễ là điều kiện để hiểu
được thực chất các phạm trù và các khái niệm khác của học thuyết Khổng Tử.

Chương 2
Ý NGHĨA CỦA LỄ TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát quá trình du nhập Lễ của Khổng giáo ở Việt Nam
Một dân tộc tiếp thu tư tưởng văn hóa của một dân tộc khác là một việc làm thường thấy
trong lịch sử. Việt Nam tiếp thu Khổng giáo trong lịch sử cũng là một việc làm khách quan.
Lễ được du nhập vào nước ta lúc đầu không phải là kết quả của sự trao đổi văn hóa giữa
hai quốc gia, hai dân tộc. Nó cũng không phải là quá trình “gặp gỡ” tự phát hay tự giác nào
mà là sự xâm nhập của một nền văn hóa nước lớn đối với một nước nhỏ bị gọi là “Man di”.
Sự du nhập của Lễ vào Việt Nam là để thực hiện mục đích đồng hóa người Việt Nam của
phong kiến phương Bắc.
Lễ giáo trong quá trình du nhập, truyền bá vào nước ta đã gặp phải sự đấu tranh quyết
liệt, trước hết là của truyền thống văn hóa Việt Nam, được biểu hiện bằng những cuộc nổi
dậy của quần chúng nhân dân chống lại bọn xâm lược, chống mọi âm mưu đồng hóa.
Sự diễn biến về tư tưởng người Việt Nam trong lịch sử không chỉ có sự tác động của
riêng lễ giáo mà còn là sự tác động chung của tam giác (Thế kỷ XVI), nghĩa là ngoài nho
giáo ra còn chịu ảnh hưởng của cả phật giáo và đạo giáo.
2.2. Thực trạng đạo đức học sinh hiện nay
Hiện nay, ở nước ta sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển cả về qui mô,

chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
Bên cạnh đó khi đất nước bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho ngành giáo dục đặc biệt trong lĩnh vực
giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự gia tăng
khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, các khuyết tật của nền kinh thị trường cũng
xuất hiện và tác động mạnh mẽ tới nhận thức và tư tưởng của nhân dân.
Những biểu hiện đáng báo động về đạo đức, lối sống trong một bộ phận học sinh là điều
cần được quan tâm và cần phải có những biện pháp kịp thời. Song trước tiên cần tìm hiểu
nguyên nhân nào đã dẫn đến những hiện tượng trên.
Thứ nhất, Ngành giáo dục những năm qua đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong
việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần vào
thành tựu phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề khoa học xã hội, từng bước đưa Việt
Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhìn lại trước yêu cầu của sự phát triển,
giáo dục và đào tạo đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
Thứ hai, bên cạnh việc chưa thực sống trong môi trường sư phạm nhân văn thì một bộ
phận học sinh khi về nhà lại phải sống trong môi trường dạy dỗ bạo lực.
Thứ ba, những tác động tiêu cực từ xã hội đó là tác động của phim ảnh, sách báo, trò
chơi bạo lực, phản giáo dục cũng như do ảnh hưởng của công nghệ thông tin, đặc biệt là do
ảnh hưởng của mạng intenet.
2.3. Mô
̣
t sô
́
gia
̉
i pha
́
p giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay
2.3.1. Phạm tr Lễ trong triết học Khổng Tử với việc giáo dục đạo đức học sinh Việt
Nam hiê

̣
n nay
Phạm trù Lễ trong triết học Khổng Tử là phạm trù nếu gạt bỏ những yếu tố mâu thuẫn,
những hạn chế về mặt lịch sử, những ràng buộc bởi lợi ích giai cấp thì có thể vận dụng vào
nhiều môi trường như học đường, gia đình, xã hội để góp phần vào việc khắc phục những
diễn biến phức tạp của đạo đức trong xã hội, hàm dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, lương
thiện làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Với nội dung Lễ của Khổng Tử chúng ta có thể vận dụng những nội dung phù hợp với
điều kiện của từng địa phương, của từng chủ thể đạo đức cho phù hợp, nhằm nâng cao hiệu
quả chiến lược giáo dục toàn diện.
Dùng Lễ để góp phần bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tự giác làm điều thiện, đề cao thực
hành đạo đức, tu dưỡng đạo đức cá nhân
Việc dùng Lễ để giáo dục học sinh là biện pháp để nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, cổ
động những hành vi đạo đức, uốn nắn những hành vi chưa thật sự phù hợp, phòng ngừa
những mầm họa, những hành vi quá khích, quá lố, cự đoan.
Dùng Lễ để rèn luyện năng lực tiết chế cảm xúc, hành vi trước những tác động của
ngoại cảnh, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội hài hoà
Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, ở mỗi mối quan hệ con người có vai trò,
trách nhiệm khác nhau nên có cách xử sự khác nhau. Để duy trì được hoà khí con người phải
sử dụng Lễ để cư xử cho phù hợp. Dùng Lễ để giúp các em phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự
để các em ý thức hơn về phạm vi của mình là một điều cần thiết giúp các em ăn ở cho phải
đạo.
Dùng Lễ để góp phần tạo lập môi trường đạo đức, hình thành đời sống tinh thần lành
mạnh
Đạo đức trong thanh thiếu niên đang biến đổi quá nhanh. Một bộ phận không nhỏ thanh
thiếu niên đã bị tiêm nhiễm bởi lối sống ích kỷ, chỉ biết đến bản thân, không quan tâm, chia
sẻ, giúp đỡ người khác, vô lễ với người trên, bất hiếu với cha mẹ, lười học, dối trá, xa vào tệ
nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm… Nếu áp dụng những nội dung của Lễ thì sẽ góp phần
hình thành những kỷ cương trật tự trong nhà trường, gia đình và xã hội, các em sẽ được hấp
thụ bởi bầu không khí lễ nghĩa, hoà thuận, biết chấp nhận sự khác biệt để cư xử cho hợp Lễ.

Lễ không phải là phương tiện cũng như phương pháp duy nhất trong việc tìm kiếm
những định hướng giá trị đạo đức cho học sinh hiện nay. Một nền giáo dục hiện đại, thông
minh là nền giáo dục coi trong việc giáo dục đạo đức bên cạnh dạy kiến thức, thực hiện song
hành giữa dạy người và dạy chữ.
2.3.2. Một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay
Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, phòng chống
tội phạm, tệ nạn xã hội trong nhà trường
Để tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, phòng chống tội phạm trong nhà
trường, trước hết tạo điều kiện cho học sinh học tập chủ nghĩa Mác-Lênin.
Bên cạnh việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà trường còn tạo điều kiện cho các em học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó, dần dần trang bị cho mình
những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Song song với quá trình trang bị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh của mình, nhà
trường cần tạo cho học sinh môi trường học đường an toàn.
Nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của học sinh về vấn đề đạo đức, lối sống, nhà quản lý
giáo dục, và người trực tiếp làm công tác giáo dục phải hiểu đối tượng được giáo dục là ai, có
đặc trưng gì, thường có biểu hiện gì…
Phải hiểu tâm lý, tính cách của đối tượng học sinh được giáo dục
Nhà giáo dục vĩ đại người Nga Usinxki nói rằng: Muốn giáo dục con người về mọi mặt
thì phải hiểu con người về mọi mặt. Phải hiểu tâm lý, tính cách thanh thiếu niên, phải tạo điều
kiện để thanh thiếu niên được học hành, tu dưỡng, tự rèn luyện. Do đó, không thể xem nhẹ
việc giáo dục đạo đức, không thể coi giáo dục đạo đức là kết quả đương nhiên của dạy trí.
Muốn vậy, phải coi giáo dục đạo đức là một khoa học thực sự, có đối tượng, có nội dung, có
phương pháp đặc thù.
Để hiểu tâm lý các em, giáo viên cần thường xuyên cập nhật những tài liệu chuyên về tâm
lý của từng lứa tuổi, lối sống của giới trẻ, những thay đổi của xã hội. Khi xã hội thay đổi,
điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì tâm sinh lý của trẻ em cũng có nhiều biến đổi mà các tài
liệu ở giảng đường đại học chưa thể dự biến được. Để tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao
sự hiểu biết về tâm lý học sinh, ngành giáo viên cần tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên
theo chu kỳ cho giáo viên.

Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục của các tổ chức thanh niên, nhà trường, các đoàn
thể xã hội với quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của thanh niên
Thực hiện thành công sự nghiệp giáo dục con người toàn diện, trong đó chú trọng cả dạy
chữ và dạy người cần phát huy sức mạnh tổng hợp của sự phối kết giữa gia đình, nhà trường
với các tổ chức thanh niên, các tổ chức nhà trường, các đoàn thể xã hội. Tăng cường vai trò
của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cha mẹ học sinh, Hội chữ thập
đỏ, trong việc tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa gia
đình, nhà trường và cộng đồng để thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh toàn diện.
Coi giáo dục Lễ như một môn khoa học về đạo làm người của học sinh
Dân tộc ta đã có truyền thống giáo dục lâu đời dựa trên phương châm “Tiên học Lễ, hậu
học Văn”. Đó là một di sản quí báu. Mỗi thời đại giải thích phương châm này theo cách của
mình nhưng cái chung nhất vẫn là đề cao những giá trị đạo đức, đề cao việc làm người.
Chúng ta phải thấy được chính đạo đức là yếu tố quan trọng hình thành nhân cách của mỗi
con người. Chính vì vậy cần phải đưa việc giáo dục Lễ nói riêng và đạo đức nói chung trở
thành môn khoa học trong mỗi nhà trường để giúp các em ngay từ bước chân đầu đời phải
hiểu được tại sao phải “Tiên học Lễ” rồi mới “Hậu học Văn”.
Tăng cường giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh
Hành vi đạo đức của trẻ đầu tiên bị điều khiển bởi người khác qua những hướng dẫn trực
tiếp, sự giám sát, sự trừng phạt, phần thưởng và sửa chữa cho đúng, hình thành trong trẻ quan
điểm về đạo đức.
Vấn đề đặt ra làm thế nào xây dựng được cầu nối từ thông tin, tình cảm, thái độ đến sự
thay đổi của hành vi? Giáo dục kỹ năng sống là giúp cho học sinh nâng cao năng lực để lựa
chọn giữa các giải pháp khác nhau để đưa ra quyết định. Hình thành thói quen hành động có
giá trị, có kỹ năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, thích ứng với điều kiện xã hội; biết
áp dụng kinh nghiệm để ứng xử tốt, hài hoà với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, ông bà, anh chị em,
những người xung quanh.
Tăng cường hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp theo nội dung phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Trong giờ học chính khoá, cả giáo viên và học sinh đều hết sức căng thẳng để hoàn thành
đủ chương trình giáo khoa. Do đó, giáo viên khó có thể tổ chức các hoạt động giáo dục tăng

cường kỹ năng sống cho học sinh. Nhà trường cần phối hợp cùng giáo viên bộ môn, giáo viên
chủ nhiệm, các tổ chức đoàn thể để tăng cường hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ
lên lớp theo nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm
đảm bảo tính linh hoạt về hình thức dạy học, hình thức kiểm tra, đánh giá, rèn luyện kỹ năng
sống và kỹ năng hoạt động xã hội cho học sinh.

́
t luâ
̣
n chương 2
Hồ Chí Minh, một nhà giáo dục, một người thực hành đạo đức rất trân trọng trí tuệ, con
người và nhân cách của Khổng Tử. Hồ Chí Minh đánh giá cao quan điểm đề cao sự “tu thân”,
tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cá nhân của Khổng Tử. Bác luôn nhắc nhở con cháu phải luôn
ý thức việc thực hành, rèn luyện đạo đức cách mạng, kêu gọi mọi người cùng tu dưỡng đạo
đức.
Nhằm vận dụng những bài học bổ ích từ phạm trù lễ, cần phải có một số điều kiện nhất
định từ phía nhiều phía, nhiều ban ngành. Song, ở đây chỉ đề cập đến những giải pháp trong
phạm vi nhà trường: thứ nhất, phải hiểu tâm lý, tính cách của đối tượng học sinh được giáo
dục; thứ hai, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, phòng
chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong nhà trường; thứ ba, kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục
của các tổ chức thanh niên, nhà trường, các đoàn thể xã hội với quá trình tự tu dưỡng, tự rèn
luyện của học sinh; thứ tư, phải coi giáo dục Lễ như một môn khoa học về đạo làm người;
thứ năm, tăng cường giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh; thứ sáu, tăng cường
hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp theo nội dung phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

KẾT LUẬN
Lễ là toàn bộ những quy tắc ứng xử lớn nhỏ mà Khổng Tử đòi hỏi mọi người phải nhất
thiết tuân theo. Với chữ Lễ, Khổng Tử đã trên cơ sở của tâm lý học đề ra những biện pháp
giáo dục có hiệu quả nhất, tạo ra những sợi dây vô hình buộc chặt nhân dân vào chế độ tông

pháp nhà Chu với hy vọng kéo dài chế độ ấy từ đời này sang đời khác. Khổng Tử không
muốn mọi người tùy tiện vì ông biết vi phạm những nguyên tắc nhỏ là bước đầu đi đến vi
phạm những nguyên tắc lớn nên ông đóng khung ý nghĩ, hành động của con người vào phạm
vi thực hiện những quy tắc rất nghiêm ngặt trong cuộc sống gọi là Lễ. Lễ với ý nghĩa là cái
không thể vi phạm được, cái được nhận thức một cách sâu sắc như niềm tin tôn giáo, thậm
chí hơn cả pháp luật, nó được thể hiện một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn như bản năng sức
mạnh tinh thần con người. Để tạo lập được những con người thể hiện Lễ như là hành động
bản năng, Khổng Tử yêu cầu phải rèn luyện con người đi vào những quy tắc đó ngay từ thưở
còn ấu thơ vì con người sinh ra vốn hiền lành trong trắng, gần gũi với tính tự nhiên của trời
đất, chỉ do bởi tập quán mà người ta đi xa, đi trệch… Do vậy, Khổng Tử đòi hỏi phải xây
dựng cho trẻ em những khuôn phép tốt để chúng suốt đời phải tôn trọng và làm theo.
Việc giáo dục Lễ sẽ hình thành thói quen tốt buộc con người phải noi theo, ảnh hưởng
tích cực tới việc hình thành nhân cách con người. Trong phạm trù Lễ, Khổng Tử đề cao vai
trò của mỗi cá nhân trong việc làm chủ bản thân, biết tự kiềm chế để có một nếp sống lành
mạnh, tiết độ. Xét đến cùng, tuy có nhiều hạn chế nhưng những giá trị tích cực của phạm trù
Lễ vẫn có ý nghĩa đem đến sự hoà hợp cho môi trường sư phạm, góp phần đem lại thái bình
thịnh trị cho xã hội. Như vậy, Lễ của Khổng Tử có sự giao thoa với những quy tắc xử sự
trong xã hội và được xem như một phần của văn hóa nhân loại. Vì thế, những giá trị tích cực
của phạm trù Lễ đáng được trân trọng và kế thừa trong xây dựng con người đạo đức hoàn
thiện.


References
1. Lê Ngọc Anh (1999), “Về ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học,
(06).
2. Ngọc Anh (2003), “Tư tưởng lễ và chính danh của Nho giáo”, Tạp chí Triết học, (5).
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Tài liệu quản lý giáo dục trung học, Nxb. Giáo dục.
Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Bình (1994), Quan điểm của Nho giáo về các mối quan hệ xã hội và ảnh
hưởng của nó tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Triêt học. Viện Triết học.

5. Nguyễn Thị Kim Bình (1998), Đường lối đức trị của Khổng Tử, nội dung và vai trò
lịch sử, Luận văn thạc sĩ Triêt học, Viện Triết học.
6. Hoàng Thị Bình (2001), “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong “Luận Ngữ” và “Mạnh
Tử””, Tạp chí Triết học, (11).
7. Phan Văn Các (3/1991), “Việc nghiên cứu của Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc
thập kỳ 80”, Tạp chí Triết học, (1).
8. Doãn Chính (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Doãn Chính (2003), Đại cương lịch sử triết học phương Đông Cổ đại, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội.
10. Doãn Chính - Nguyễn Sinh Kế (2004), “Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam
- từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX”, Tạp chí Triết học, (9-1960).
11. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Tập 1, Nxb.
Thanh niên, Hà Nội.
12. Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Tập 2, Nxb.
Thanh niên, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Kim Chung (2004), Quân tử - mẫu người toàn thiện trong tác phẩm Luận
ngữ, Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học.
14. Đoa
̀
n Trung Co
̀
n (Dịch giả), năm 1950, Luận ngữ, Nxb. Trí Đức Tòng Thơ, Sài Gòn.
15. Hoàng Tăng Cường (2000), “Quan niệm của Nho giáo về nghĩa và lợi”, Tạp chí Triết
học, (4).
16. Phan Đại Doãn (1997), “Một số đặc điểm Nho giáo ở Việt Nam”, Tập san Khoa học
Xã hội nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, (3).
17. Will Durant (2004), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội
(dịch giả Nguyễn Hiến Lê).
18. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20. Đa
̉
ng Cô
̣
ng sa
̉
n Viê
̣
t Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần IV - Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII (1993), Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Văn Đoàn (2003), “Lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh”, Tập San Triết
Đạo Việt Nam, (10).
22. Trần Văn Giàu (1978), “Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam”, Tạp
chí Triết học, (1).
23. Nguyễn Hùng Hậu (2003), “Đặc điểm của Nho Việt”, Tạp chí Triết học, (3-142).
24. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu,
Nxb. Văn học, Hà Nội.
25. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb. Đại học Quốc
gia Ha
̀
Nội.
26. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
27. Vũ Khiêu (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Phùng Hữu Lan (1999), Đại cương triết học sử Trung Quốc, Nxb. Thanh niên, Trung
tâm Nghiên cứu Trung Quốc học.
30. Nguyễn Hiến Lê (1991), Khổng Tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
31. Nguyễn Xuân Lộc (1994), Tìm hiểu mẫu người quân tử qua hai tác phẩm Luận ngữ và
Mạnh Tử, Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học.

32. C.Mác - Ănghen (1994), Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2005), Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục
đào tạo con người, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học.
34. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Phan Ngọc (1990), Cách tiếp cận của Khổng Tử trong sách: Nho giáo xưa và nay (Vũ
Khiêu chủ biên), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay vấn đề và giải pháp,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. TS. Nguyễn Thanh (2007), Vấn đề con người và giáo dục con người nhìn từ góc độ
triết học xã hội, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
48. Lê Sĩ Thắng (chủ biên - 1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Trần Đình Thảo (1996), Quan niệm về Nho giáo nguyên thủy về con người qua các
mối liên hệ thân - nhà - nước - thiên - hạ, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học.
50. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - một số vấn đề lí luận và
thực tiễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Trần Nguyên Việt (Chủ biên, 2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Văn tuyển, Tập 1 (Tư
tưởng Việt Nam từ đầu Công nguyên đến cuối thời Lý), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

̣
i.

52. Trần Nguyên Việt (2004), “Phạm trù đức trong học thuyết của Khổng Tử”, Tạp chí
Triết học, (3).
53. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên, 2006), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. TS. Lê Văn Yên (Chủ biên, 2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động,
Hà Nội.
55. Giáo dục và thời đại online ngày 8/7/2010.
56.
57.
58. www.dantri.com.vn/c20/s202-452722




×