Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Hoàn thiện kiểm soát nội bộ tại công ty TNHH xây dựng và xuất nhập khẩu phú lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.65 KB, 136 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

Học viện

LỜI CẢM ƠN
Qua 4 năm học tập và rèn luyện tại trường Học Viện Ngân Hàng, được sự
chỉ bảo và giảng dạy nhiệt tình của quý thầy cô, đặc biệt là quý thầy cô khoa Kế
toán – Kiểm toán đã truyền đạt cho em những kiến thức về lý thuyết và thực hành
trong suốt thời gian học ở trường. Và trong thời gian thực tập và làm việc tại Công
ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm, em đã có cơ hội áp dụng những
kiến thức học ở trường vào thực tế ở công ty, đồng thời học hỏi được nhiều kinh
nghiệm thực tế tại công ty. Cùng với sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành luận
văn tốt nghiệp của mình.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn và tri ân sâu sắc
nhất đến quý thầy cô trường Học Viện Ngân Hàng đã truyền đạt những kiến thức
quý báu trong suốt thời gian em học tập tại trường. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng
chân thành sâu sắc tới cô ThS. Nguyễn Thị Lê Thanh, giảng viên khoa Kế toán
Kiểm toán - Học Viện Ngân Hàng, người đã tận tình hướng dẫn và nhiệt tình giúp
đỡ em trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp này.
Xin cảm ơn Ban Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú
Lâm và các đồng nghiệp công ty đã tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận
văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu, cũng như trình độ lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, nên không thể tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo để khóa luận
được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng em xin kính chúc quý Thầy, Cô luôn dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp trồng người cao quý này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Lê Phương Thu
Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

Học viện

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan, luận văn với đề tài “ Hoàn thiện kiểm soát nội bộ tại Công
ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm “ là do em nghiên cứu thực hiện
dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Lê Thanh. Các thông tin trong luận văn là
những thông tin thu thập thực tế tại công ty. Luận văn này chưa được công bố dưới
bất kỳ hình thức nào. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2016
Sinh viên
Thu
Lê Phương Thu

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB



Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

Học viện

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa Tiếng Anh

Nghĩa Tiếng Việt

KSNB

Kiểm soát nội bộ

CBNV

Cán bộ nhân viên

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

BCTC

Báo cáo tài chính

TSCĐ


Tài sản cố định

CTKT

Chứng từ kế toán

TKKT

Tài khoản kế toán

SKT

Sổ kế toán

BCKT
COSO

FED
AICPA

Báo cáo kế toán
Committee of Sponsoring

Federal Reserve System

SAP

Statement on Auditing Procedure


Hiệp hội Kế toán viên công
chứng Hoa Kỳ
Thủ tục kiểm toán

SAS

Statement on Auditing Standard

Chuẩn mực kiểm toán

SEC

Security Exchange Commission

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ

AAA

American Accounting Asociation

Hội Kế toán Hoa Kỳ

FEI

Financial Executives Institute

IMA

Institute of Management
Accountants


Hiệp hội các nhà quản trị tài
chính
Hiệp hội kế toán viên quản trị

IIA

The Institute of Internal Auditors

Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ

ISA

International Standard on
Auditing

Hệ thống chuẩn mực kiểm toán
quốc tế

The International Auditing and
Assurance Standard Board
Certified Public Accountant

Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán
và dịch vụ đảm bảo Quốc tế
Ủy ban thủ tục kiểm toán

IAASB
CPA


American Institute of CPA

Ủy ban thuộc Hội đồng quốc
gia Hoa kỳ về chống gian lận
khi lập báo cáo tài chính
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

Học viện

MỤC LỤC
+ Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.........................107
+ Có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.........................................107
+ Có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
...................................................................................................................................................107
+ Cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.............................107

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB



Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

Học viện

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
+ Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.........................107
+ Có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.........................................107
+ Có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
...................................................................................................................................................107
+ Cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.............................107

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

1

Học viện

LỜI MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài
Trên thế giới, khái niệm kiểm soát nội bộ ra đời đã lâu và đặc biệt phát triển
khi đạo luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Hiện nay với kênh thông tin

rộng rãi, khái niệm kiểm soát nội bộ cũng không còn xa lạ đối với các doanh nghiệp
Việt Nam. Tuy nhiên xu hướng toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ, và Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế đó. Trước tình hình này, các nhà quản lý doanh
nghiệp rất cần phải quan tâm tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm soát
nội bộ là một công cụ quản lý hữu hiệu giúp các cấp lãnh đạo có thể biết được sự
kém hiệu quả xảy ra ở những khâu cụ thể và những nguyên nhân của nó. Họ cũng
có thể xác định rõ ràng trách nhiệm thuộc về ai.
Theo các báo chí hiện nay, đa số các sự thua lỗ, tham nhũng trong các doanh
nghiệp tại Việt Nam đều có nguyên nhân là sự quản lý yếu kém, kiểm soát nội bộ
lỏng lẻo. Các doanh nghiệp muốn tồn tại vững mạnh trong môi trường cạnh tranh
như hiện nay thì phải có một hệ thống quản lý hiệu quả. Theo ông Chris Freund,
Tổng giám đốc, Quỹ Đầu tư Mekong Capital: “Khi đầu tư vào các công ty tư nhân,
chúng tôi cho rằng vấn đề lớn nhất về quản trị doanh nghiệp là tính minh bạch thấp
của công ty này. Cụ thể là phần lớn hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
của các công ty chưa được phát triển, điều này khiến cho các cổ đông khó nắm
được chính xác tình hình tài chính của công ty.” (1). Hơn nữa để thu hút vốn đầu tư
trong tình hình kinh tế hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dựa vào kết
quả kinh doanh trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, mà chính bản thân doanh
nghiệp phải kiểm soát được hoạt động chính mình, biết được vị trí của doanh
nghiệp trên thị trường. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể sử dụng đồng vốn một
cách có hiệu quả.
Trong một doanh nghiệp bất kỳ, sự xung đột giữa lợi ích chung và lợi ích
riêng luôn luôn tồn tại. Nếu không có kiểm soát nội bộ sẽ không có qui định để
hướng người lao động hành động không vì lợi ích riêng của mình mà làm tổn hại để
lợi ích chung của toàn doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ sẽ giúp nhà quản trị giảm
thiểu được những rủi ro thông qua việc phân quyền, ủy nhiệm, giao việc cho cấp
dưới một cách chính xác, khoa học chứ không phải dựa trên sự tin tưởng cảm tính.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện, môi trường và rủi ro
kinh doanh luôn thay đổi. Kiểm soát nội bộ cũng cần phải vận động biến đổi theo.
Do đó, việc hoàn thiện kiểm soát nội bộ để phù hợp với các thay đổi là một yêu cầu


Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

2

Học viện

thiết yếu của cấp quản lý doanh nghiệp. Như vậy, một KSNB vững mạnh là một
nhân tố của hệ thống quản trị doanh nghiệp vững mạnh và điều này rất quan trọng
đối với doanh nghiệp khi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Báo cáo COSO năm 1992 và năm 2013 được xây dựng trên cơ sở khảo sát
các Tổng công ty lớn và rất lớn ở Hoa Kỳ với quy mô khác biệt rất nhiều so với các
loại doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, lý luận mới về rủi ro theo Báo cáo
COSO năm 2013 vẫn còn là một điều mới mẻ đối với doanh nghiệp Việt Nam và
các nước. Để nhìn nhận rủi ro một cách đầy đủ và hệ thống, cũng như xây dựng một
chu trình KSNB để quản trị rủi ro một cách hiệu quả, Công ty cần có thời gian và
cách thức tiếp cận khoa học.
Vì vậy, em chọn đề tài “Hoàn thiện kiểm soát nội bộ tại Công ty TNHH Xây
dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm“ trên cơ sở kết hợp với việc tìm hiểu và đánh giá
những thuân lợi và nguy cơ rủi ro trong KSNB của Công ty TNHH Xây dựng và
Xuất nhập khẩu Phú Lâm, em đề xuất những định hướng chung nhằm thay đổi quan
điểm, cách thức tiếp cận và quản lý các rủi ro, giúp Công ty TNHH Xây dựng và
Xuất nhập khẩu Phú Lâm hoàn thiện KSNB của mình. Tuy nhiên, để Công ty thực

hiện tốt mục tiêu của mình cần phải có những điều kiện phụ trợ từ bên ngoài, từ
chính sách và quy định của Nhà nước, do đó em cũng đề xuất các giải pháp phụ trợ
từ Nhà nước và các đối tượng liên quan để hỗ trợ Công ty xây dựng được một quy
trình KSNB hiệu quả để quản lý tốt hơn các loại rủi ro.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu và đánh giá kiểm soát nội bộ tại Công ty TNHH Xây dựng và Xuất
nhập khẩu Phú Lâm để tìm ra các hạn chế, tồn tại của kiểm soát nội bộ và các
nguyên nhân của các nhân tố đó. Thông qua kết quả tìm hiểu, đề ra các biện pháp để
nâng cao tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ.
Nội dung nghiên cứu
Thông qua mục tiêu nghiên cứu, nội dung nghiên cứu tập trung vào các vấn
đề sau:
− Tìm hiểu và đánh giá các thành phần của kiểm soát nội bộ trong Công ty
TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm.
− Xác định các hạn chế và tồn tại của kiểm soát nội bộ và nguyên nhân của
các hạn chế đó.

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

3

Học viện


− Đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ
tại Công ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là kiểm soát nội bộ tại Công ty TNHH Xây dựng và
Xuất nhập khẩu Phú Lâm, cụ thể là những người có chức vụ quan trọng trong Công
ty ( 15 đối tượng ) như: Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phòng, Phó Phòng, … và
những người có thâm niên công tác.
- Phạm vi nghiên cứu: Tại Công ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu
Phú Lâm.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể như sau:
- Phương pháp so sánh: so sánh khuôn khổ mô hình lý thuyết theo COSO
2013 với mô hình kiểm soát nội bộ đang áp dụng tại công ty.
- Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát thực tế công tác kiểm soát nội bộ
tại công ty từ bộ máy quản lý đến chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban liên
quan đến công tác kiểm soát để tìm hiểu thực trạng công tác kiểm soát nội bộ tại
công ty.
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn trực diện, qua điện thoại hoặc qua
email các cá nhân có trách nhiệm liên quan công tác kiểm soát nội bộ để tìm hiểu
thực trạng công tác kiểm soát nội bộ tại công ty.
- Phương pháp phân tích: nghiên cứu và tìm hiểu về thực trạng kiểm soát nội
bộ tại Công ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm nhằm nắm bắt một
cách thật tường tận, rõ ràng và cụ thể những mặt tích cực cũng như những điểm hạn
chế còn tồn tại của kiểm soát nội bộ tại công ty, từ đó đề xuất một số giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Công ty.
Những điểm mới của đề tài
- Trình bày các vấn đề cơ bản để hiểu được chức năng, vai trò, nhiệm vụ,
tầm quan trọng, cách thức xây dựng nội dung một KSNB hữu hiệu.
- Làm rõ định nghĩa và vai trò của KSNB theo báo cáo COSO 1992 và theo
báo cáo COSO 2013 nhằm phù hợp với môi trường kinh doanh ngày càng phức tạp

với sự phát triển công nghệ hiện đại.
- Dựa trên bảng câu hỏi khảo sát, em đã tổng hợp lại các vấn đề liên quan
đến thực trạng KSNB tại Công ty TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm,
dựa trên cơ sở lý thuyết, em thực hiện đánh giá KSNB tại công ty cụ thể cho từng

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

4

Học viện

bộ phận hợp thành KSNB theo COSO 2013. Bên cạnh đó, việc phân tích nguyên
nhân của những hạn chế trong KSNB làm cơ sở cho những kiến nghị ở chương 3.
Đưa ra các giải pháp cụ thể về hoàn thiện từng bộ phận cấu thành
KSNB, các giải pháp mang tính chính sách, các hỗ trợ từ Nhà nước, … góp phần
giảm thiểu rủi ro, sai sót, gian lận, nâng cao việc điều hành kiểm soát các hoạt động
đáp ứng các mục tiêu của Công ty.
Bố cục của luận văn như sau:
Lời mở đầu.
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về kiểm soát nội bộ
Chương 2: Thực trạng kiểm soát nội bộ tại Công ty TNHH Xây dựng và
Xuất nhập khẩu Phú Lâm
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kiểm soát nội bộ Công ty

TNHH Xây dựng và Xuất nhập khẩu Phú Lâm
Kết luận

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

5

Học viện

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1.1. Tổng quan về kiểm soát nội bộ
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Từ khi có hoạt động kinh doanh, những nhà quản lý đều phải sử dụng các
biện pháp để kiểm soát các hoạt động tại đơn vị mình. Hoạt động kinh doanh càng
phát triển thì chức năng kiểm soát càng chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình
quản lý.Thông qua các hoạt động kiểm soát, nhà quản lý đánh giá và điều chỉnh
việc thực hiện nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đã đề ra với hiệu quả cao nhất.
Để thực hiện chức năng kiểm soát, nhà quản lý sử dụng công cụ chủ yếu là
kiểm soát nội bộ (KSNB) của đơn vị. Trên thế giới, lý luận về kiểm soát nội bộ đã
được các tổ chức nghiên cứu trải qua hơn một thế kỷ với bốn thời kỳ từ thời sơ khai
cho đến thời kỳ hiện đại hiện nay.
 Giai đoạn sơ khai:

Trong thời kỳ sơ khai từ năm 1900 đến năm 1949, những nhận thức ban đầu
về KSNB được hình thành gắn với việc phục vụ cuộc kiểm toán và mục tiêu của
KSNB từng bước được bổ sung. Trước đó, những năm cuối thế kỷ 19, khi thực hiện
chức năng nhận xét báo cáo tài chính, các kiểm toán viên đã sớm nhận thức rằng
không cần thiết, cũng như không thực tế khi yêu cầu kiểm tra tất cả các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh mà chỉ cần chọn mẫu để kiểm tra và dựa vào sự tin tưởng về kiểm
soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán trong việc thu nhận, xử lý và tổng hợp các
thông tin để lập báo cáo tài chính (BCTC). Vì vậy, các kiểm toán viên bắt đầu quan
tâm đến KSNB.
Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ 20 trong các tài liệu
về kiểm toán. Năm 1905, xuất hiện từ “ kiểm soát nội bộ “ trong “ lý thuyết và thực
hành kiểm toán “ của Robert Montgomery. Lúc đó, KSNB được hiểu như là một
biện pháp để bảo vệ tiền nhằm ngăn chặn hành vigian lận được thực hiện bởi các
nhân viên.
Năm 1929, theo Công bố của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED), khái
niệm này dần được mở rộng: KSNB không chỉ dừng lại ở việc bảo vệ tài sản (không
chỉ có tiền) mà còn nhằm đảm bảo việc ghi chép kế toán chính xác, nâng cao hiệu
quả hoạt động và khuyến khích tuân thủ các chính sách của nhà quản lý.
Năm 1936, trong một công bố của Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa
Kỳ (AICPA), KSNB được mở rộng là các biện pháp và cách thức được chấp nhận

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng


6

Học viện

và được thực hiện trong một tổ chức để bào vệ tiền và tài sản khác, cũng như kiểm
tra sự chính xác trong ghi chép sổ sách.
Năm 1949, AICPA lại công bố công trình nghiên cứu: “Kiểm soát nội bộ,
các nhân tố cấu thành và tầm quan trọng đối với việc quản trị doanh nghiệp và đối
với kiểm toán viên độc lập”. Trong báo cáo này, AICPA đã mở rộng KSNB còn
nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động có hiệu quả, khuyến khích sự tuân thủ các chính
sách của nhà quản lý.
 Giai đoạn hình thành:
Trong thời kỳ hình thành từ năm 1950 đến năm 1973 với nỗ lực của các
chuẩn mực kiểm toán, khái niệm KSNB đã không ngừng được mở rộng ra khỏi
những thủ tục bảo vệ tài sản và ghi chép sổ sách kế toán. Tuy nhiên, trong thời kỳ
này, KSNB vẫn mới chỉ dừng lại như là một phương tiện phục vụ cho kiểm toán
viên trong kiểm toán BCTC.
Năm 1958, Ủy ban thủ tục kiểm toán (CPA) trực thuộc AICPA ban hành báo
cáo về thủ tục kiểm toán số 29 (SAP 29): “Phạm vi xem xét kiểm soát nội bộ của
kiểm toán viên độc lập“, trong đó lần đầu tiên phân biệt KSNB về quản lý và KSNB
về kế toán. Kiểm soát kế toán ảnh hưởng trực tiếp đến thông tin tài chính, bao gồm:
kế hoạch tổ chức, các phương pháp và thủ tục liên hệ trực tiếp đến việc bảo vệ tài
sản và tính đáng tin cậy của số liệu kế toán. Còn kiểm soát quản lý chỉ ảnh hưởng
gián tiếp đến thông tin tài chính, bao gồm: kế hoạch tổ chức, các phương pháp và
thủ tục liên quan chủ yếu đến tính hữu hiệu trong hoạt động và sự tuân thủ chính
sách quản trị.
Dựa trên các khái niệm KSNB về kế toán và KSNB về quản lý, năm 1962,
CAP đã ban hành SAP 33 – Các tiêu chuẩn và thủ tục kiểm toán, trong đó yêu cầu
công ty kiểm toán nên giới hạn nghiên cứu trong phạm vi KSNB về kế toán.
Năm 1972, CAP ban hành SAP 54 – Tìm hiểu và đánh giá KSNB, giải thích

thêm các thủ tục KSNB về kế toán, đảm bảo nghiệp vụ chỉ được thực hiện khi đã
được phê chuẩn, ghi nhận đúng đắn mọi nghiệp vụ để lập báo cáo, hạn chế sự tiếp
cận tài sản và kiểm kê.
Những năm sau đó, AICPA tiếp tục sàng lọc, ban hành và sửa đổi các chuẩn
mực về đánh giá của kiểm toán viên độc lập về KSNB (SAS) thay thế cho các thủ
tục kiểm toán (SAP), trong đó, SAS 1 (1973) về trách nhiệm của kiểm toán viên đã
soát xét lại SAP 54 và đưa ra một khuôn khổ đầy đủ hơn về kiểm soát kế toán. SAS
1 cho rằng kiểm soát quản lý không chỉ hạn chế ở kế hoạch tổ chức và các thủ tục,
mà còn bao gồm quá trình ra quyết định cho phép thực hiện nghiệp vụ của nhà quản
lý. Các mục tiêu kiểm soát kế toán được nêu ra trong SAS 1 như sau:
Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

7

Học viện

- Các nghiệp vụ thực hiện phù hợp với sự ủy quyền và xét duyệt của Ban
giám đốc.
- Các nghiệp vụ được ghi nhận để: Lập BCTC phù hợp với chuẩn mực kế
toán hay các quy định có liên quan; Thực hiện trách nhiệm báo cáo.
- Việc tiếp cận tài sản chỉ được thực hiện khi có sự cho phép của Ban giám
đốc.
- Các báo cáo về tài sản phải được so sánh với tài sản hiện hữu trong thực tế

và cần có biện pháp xử lý thích hợp đối với các chênh lệch.
 Giai đoạn phát triển:
Trong thời kỳ phát triển từ năm 1973 đến năm 1992, với sự ra đời của Báo
cáo COSO năm 1992, lần đầu tiên khuôn mẫu lý luận về KSNB được nghiên cứu và
trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống. Đặc biệt vào năm 1977, lần đầu tiên, hoạt
động KSNB trong các tổ chức được đề cập đến trong một văn bản pháp luật. Đó là
đạo luật chống hành vi hối lộ nước ngoài (Foreign Corrupt Practices Act) nhằm đáp
ứng sự quan tâm của công chúng đối với BCTC của các công ty kinh doanh Mỹ có
hoạt động ở nước ngoài, trong đó nhấn mạnh vai trò của KSNB nhằm ngăn ngừa
những khoản thanh toán bất hợp pháp. Luật này ra đời xuất phát từ việc ngày càng
có nhiều vụ gian lận gây tổn thất lớn cho nền kinh tế, điển hình là vụ tai tiếng chính
trị Watergate. Theo đó, Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) cũng đưa ra điều luật
bắt buộc các công ty phải công bố báo cáo về KSNB tại đơn vị mình.
Yêu cầu về báo cáo KSNB của công ty cho công chúng chưa thực sự thuyết
phục, có nhiều tranh luận về việc đánh giá tính hữu hiệu của KSNB. Trước thực tế
này, năm 1985, Ủy ban chống gian lận về BCTC thuộc Hội đồng quốc gia Mỹ (gọi
tắt là ủy ban Treadway) đã thành lập tổ chức COSO. COSO được thành lập với mục
đích thống nhất định nghĩa về KSNB để phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng
khác nhau và đưa ra các bộ phận cấu thành để giúp các đơn vị có thể xây dựng một
hệ thống KSNB hữu hiệu.
Năm 1992, COSO đã phát hành báo cáo dưới tiêu đề Kiểm soát nội bộ Khuôn khổ hợp nhất (Internal Control – Intergrated framework). Báo cáo COSO
năm 1992 là tài liệu đầu tiên trên thế giới nghiên cứu và định nghĩa về KSNB một
cách đầy đủ và có hệ thống. Báo cáo COSO năm 1992 đã mở rộng phạm vi của
KSNB. KSNB không chỉ còn là một vấn đề liên quan đến BCTC mà được mở rộng
ra các phương diện hoạt động và tuân thủ. Mục tiêu của báo cáo này nhằm định
nghĩa KSNB, mô tả các thành phần của KSNB, cung cấp các tiêu chuẩn và các công
cụ hỗ trợ cho việc đánh giá KSNB và trọng tâm chính của KSNB là một quá trình
“Kiểm soát nội bộ được định nghĩa như một quá trình, chịu ảnh hưởng bởi Ban
Lê Phương Thu
– K15


Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

8

Học viện

Giám đốc, các nhà quản lý và các thành viên khác trong tổ chức, được thiết kế để
cung cấp sự đảm bảo hợp lý liên quan đến việc đạt được các loại mục tiêu sau đây:
Hiệu quả và hiệu lực của hoạt động; Sự tin cậy của báo cáo tài chính; Tuân thủ
pháp luật và các quy định liên quan (COSO 1992). Xuất phát từ các chức năng và
các quá trình trong quản lý thì kiểm soát nội bộ bao gồm 05 thành phần chính sau:
Môi trường kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Giám sát; Các hoạt động kiểm soát và
Thông tin và truyền thông”. (COSO 1994 Tr.13).
COSO là một ủy ban gồm nhiều tổ chức nghề nghiệp nhằm hỗ trợ cho Ủy
ban Treadway. Các tổ chức nghề nghiệp bao gồm: Hiệp hội kế toán công chức Hòa
Kỳ (AICPA), Hội kế toán Hoa Kỳ (AAA), Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA),
Hiệp hội các nhà quản trị tài chính (FEI) và Hiệp hội kế toán viên quản trị (IMA).
Báo cáo COSO 1992 gồm có 4 phần:
 Phần 1 – Bản tóm lược: Tổng quan về KSNB cho nhà quản lý cấp cao
 Phần 2 – Hệ thống lý luận: Định nghĩa về KSNB, mô tả các yếu tố của
KSNB và chỉ ra những tiêu chí để kiểm soát hệ thống.
 Phần 3 – Báo cáo cho các thành viên bên ngoài: Hướng dẫn cách thức báo
cáo cho các đối tượng bên ngoài về KSNB liên quan đến tài chính.
 Phần 4 – Các công cụ đánh giá: Bao gồm các bảng biểu phụ vụ cho việc
đánh giá sự hữu hiệu của KSNB.

 Giai đoạn hiện đại (thời kỳ hậu COSO – từ năm 1992 đến nay):
Báo cáo của COSO đã nhấn mạnh KSNB là một phương sách của quản lý,
báo cáo này tuy chưa thực sự hoàn chỉnh nhưng đã trở thành các tiêu chuẩn mà rất
nhiều tổ chức theo đuổi mong muốn hướng tới hoạt động kinh doanh của mình
(Knechel 2007). Cho đến nay có rất ít những phản bác về định nghĩa KSNB của
COSO, định nghĩa này đã được thừa nhận rộng rãi và là cơ sở định nghĩa về KSNB
trong các quy định ngày nay. Sau đó, hàng loạt các nghiên cứu phát triển về KSNB
trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã ra đời như phát triển về Quản trị rủi ro (ERM
2004), về công ty nhỏ, phát triển theo hướng công nghệ thông tin (COBIT), theo
hướng kiểm toán độc lập, chuyên sâu về những ngành nghề cụ thể và giám sát
(2008), cụ thể như sau:
 Phát triển về phía quản trị
Năm 2001, COSO tiếp tục triển khai nghiên cứu hệ thống đánh giá rủi ro
doanh nghiệp (ERM) trên cơ sở báo cáo COSO 1992. Tháng 7/2003, bản dự thảo đã

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

9

Học viện

được công bố. Trong bản dự thảo, ERM được định nghĩa gồm 8 bộ phận: Môi
trường nội bộ, thiết lập mục tiêu, nhận diện sự kiện, đánh giá rủi ro, đối phỏ rủi ro,

các hoạt động kiểm soát, thông tin truyền thông và giám sát.
Đến 2004, ERM đã được chính thức ban hành, theo đó ERM không nhằm
thay thế cho báo cáo COSO 1992 mà chỉ được xem là cánh tay nối dài của báo cáo
này.
 Phát triển cho doanh nghiệp nhỏ
Năm 2006, COSO nghiên cứu và ban hành hướng dẫn “Kiểm soát nội bộ đối
với báo cáo tài chính – hướng dẫn cho các công ty đại chúng quy mô nhỏ” (Gọi tắt
là COSO Guidance 2006). Hướng dẫn này vẫn dựa trên nền tảng của báo cáo COSO
1992 và giải thích về cách thức áp dụng kiểm soát nội bộ trong các công ty đại
chúng quy mô nhỏ (smaller publicly traded companies).
 Phát triển theo hướng công nghệ thông tin
Tại Mỹ năm 1996 thì Hiệp hội về kiểm tra hệ thống thông tin và kết hợp
kiểm soát ISACS (Information Technology Governance Institute) đã ban hành một
bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý công nghệ thông tin COBIT. COBIT cung cấp cho
các nhà quản lý, những người kiểm tra và những người sử dụng IT một loạt các
phép đo, dụng cụ đo, các quy trình và các hướng dẫn thực hành tốt nhất để giúp họ
quản lý và kiểm soát IT trong công ty. Mục đích của COBIT là “nghiên cứu, phát
triển, quảng bá và xúc tiến một tập hợp các mục tiêu kiểm soát công nghệ thông tin
được chấp nhận phổ biến để các nhà quản lý doanh nghiệp và những người kiểm
tra sử dụng hàng ngày”. COBIT đã phát triển định nghĩa KSNB dựa vào khuôn khổ
hợp nhất của COSO “Là các chính sách, các thủ tục, công việc và cơ cấu tổ chức
được thiết kế để cung cấp sự đảm bảo hợp lý cho việc đạt được các mục tiêu trong
kinh doanh và ngăn ngừa, phát hiện, sửa chữa những sự kiện xảy ra không mong
muốn” (COBIT 2000; 10).
 Phát triển theo hướng kiểm toán độc lập
Các chuẩn mực kiểm toán của Hoa Kỳ cũng chuyển sang sử dụng Báo cáo
COSO làm nền tảng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm:
- SAS 78 (1995): Xem xét kiểm soát nội bộ trong kiểm toán báo cáo tài
chính (điều chỉnh SAS 55). Các định nghĩa, nhân tố của kiểm soát nội bộ trong báo
cáo COSO (1992) đã được đưa vào chuẩn mực này.

- SAS 94 (2001): Ảnh hưởng của công nghệ thông tin đến việc xem xét kiểm
soát nội bộ trong việc kiểm toán báo cáo tài chính.

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

10

Học viện

- Hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA – International Standard on
Auditing) cũng sử dụng báo cáo của COSO khi yêu cầu xem xét hệ thống kiểm soát
nội bộ trong kiểm toán báo cáo tài chính, cụ thể là:
+ Vào năm 2003, Ủy ban Chuẩn mực kiểm toán và các Dịch vụ đảm bảo
quốc tế (IAASB – The International Auditing and Assurance Standard Board) thuộc
liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) đã ban hành một số chuẩn mực Kiểm toán mới,
trong đó có Chuẩn mực ISA 315 “Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
thông qua hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị” trên cơ sở
đề cập một cách toàn diện về khái niệm rủi ro trong kiểm toán. Chuẩn mực này đã
thay thế cho các Chuẩn mực trước đó như ISA 310 – Hiểu biết về hoạt động kinh
doanh; ISA 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ. Quan điểm về KSNB trong
ISA 315 đã có rất nhiều thay đổi so với các Chuẩn mực trước đó, và về cơ bản là
thừa nhận định nghĩa về KSNB theo khuôn mẫu của COSO “Là một quy trình do
Ban quản trị, Ban Giám đốc và các cá nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực hiện và

duy trì để tạo ra sự đảm bảo hợp lý về khả năng đạt được mục tiêu của đơn vị trong
việc đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt
động, tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan. Thuật ngữ “kiểm soát” được
hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần của kiểm soát nội bộ”.
Và kiểm soát nội bộ bao gồm 05 thành phần: Môi trường kiểm soát; Quy trình đánh
giá rủi ro của đơn vị; Hệ thống thông tin liên quan đến việc lập và trình bày báo
cáo tài chính, bao gồm các quy trình kinh doanh có liên quan, và trao đổi thông tin;
Các hoạt động kiểm soát; Và Giám sát các kiểm soát.
+ ISA 265 yêu cầu kiểm toán viên độc lập thông báo về các khiếm khuyết
của kiểm soát nội bộ do kiểm toán viên phát hiện được cho những người có trách
nhiệm trong đơn vị.
 Phát triển theo hướng kiểm toán nội bộ
Ủy ban kiểm toán nội bộ của Mỹ (Institute of internal auditors – IIA) đã đưa ra một
báo cáo về nghiên cứu cơ sở của hệ thống kiểm tra và kiểm soát SAC (Research
foundation’s system Auditability and Control). Báo cáo này đã cung cấp những
hướng dẫn cho việc sử dụng, quản lý và bảo vệ nguồn nhân lực công nghệ thông tin
và thảo luận những ảnh hưởng đối với người sử dụng máy tính, viễn thông và
những công nghệ mới (Colbert et al 2005). SAC đã đưa ra định nghĩa về KSNB “là
một tập hợp các quá trình, chức năng, các hoạt động, các phân hệ và nhân sự,
những nhân sự trong tổ chức sẽ được nhóm lại hoặc phân công nhiệm vụ rõ ràng
để có thể đạt được các mục tiêu mà tổ chức đặt ra”. (Colbert el al 2005).

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng


11

Học viện

Các chuẩn mực của IIA không đi sâu vào nghiên cứu các thành phần của
kiểm soát nội bộ, vì IIA là một thành viên của COSO nên về các nguyên tắc không
có sự khác biệt giữa định nghĩa của IIA và COSO.
 Hướng dẫn về giám sát hệ thống kiểm soát nội bộ
COSO cũng đưa ra Dự thảo Hướng dẫn về giám sát hệ thống kiểm soát nội
bộ (Exposure Draft, COSO 2008) dựa trên khuôn mẫu COSO 1992 nhằm giúp các
tổ chức tự giám sát chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Hướng dẫn này
(COSO Guidance 2008) bao gồm 3 phần: Hướng dẫn, Ứng dụng và Thí dụ.
Mặc dù các định nghĩa trên về cơ bản bao gồm nhiều khía cạnh giống nhau,
nhưng cũng có một vài điểm khác biệt. COSO đã nhấn mạnh KSNB như một quy
trình. COBIT xem xét KSNB như một quy trình gồm có các chính sách, các thủ tục,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức trợ giúp cho các quá trình và mục tiêu kinh doanh. SAC
đã nhấn mạnh KSNB là một hệ thống. Tuy nhiên chỉ có báo cáo của COSO, và sau
này là Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA 315) và Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
(VSA 315) là tập trung ở góc độ tổng thể doanh nghiệp, còn các cơ sở khác chủ yếu
tập trung vào một vài khía cạnh cụ thể trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp.
Cơ sở cho việc thiết lập kiểm soát nội bộ: Trong những năm gần đây, các
kiểm toán viên, các nhà quản lý, kế toán viên và các nhà hành pháp dành rất nhiều
sự quan tâm tới việc xây dựng, thiết kế KSNB. Cho đến nay có 05 tài liệu quan
trọng làm cơ sở cho việc thiết kế và vận hành KSNB bao gồm: Khuôn khổ kiểm
soát và kiểm tra hệ thống thông tin – COBIT (Controls Objectives for Information
and related Technology); Khuôn khổ kiểm tra, kiểm soát của Ủy ban kiểm toán nội
bộ (IIA); Khuôn khổ hợp nhất kiểm soát nội bộ của COSO; Quản lý rủi ro – Một
khuôn khổ hợp nhất COSO (ERM); Và các chuẩn mực xem xét KSNB trong thực
hiện kiểm toán báo cáo tài chính (SAS 55; SAS 78; SAS 94) của AICPA.

Như vậy, đến nay, sau hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, hệ thống lý
luận về KSNB đã có khung lý thuyết căn bản và đầy đủ. Tuy nhiên, cùng với sự
biến đổi của môi trường kinh doanh, khả năng tư duy, nhận thức của nhà quản lý và
các cá nhân có liên quan, lý luận về KSNB vẫn tiếp tục được nghiên cứu bổ sung và
phát triển chuyên sâu vào những ngành nghề cụ thể.
1.1.2. Khái niệm và mục tiêu kiểm soát nội bộ
1.1.2.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ
Khái niệm KSNB là một khái niệm có ý nghĩa rộng và hiện đang có rất nhiều
quan điểm khác nhau về KSNB trên thế giới. Trong quá khứ thì khái niệm “kiểm
Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

12

Học viện

soát nội bộ” được giới hạn trong phạm vi “kiểm tra nội bộ”. Và đến năm 1992.
AICPA đã mở rộng và định nghĩa KSNB là “việc lập kế hoạch của tổ chức và tất cả
sự kết hợp cách thức, đo lường được thừa nhận trong phạm vi tổ chức để đảm bảo
an toàn của tài sản, kiểm tra tính đúng đắn và tin cậy của các dữ liệu kế toán, thúc
đẩy tính hữu hiệu của hoạt động, thúc đẩy sự tham gia các quy định của tổ chức”.
Khái niệm của AICPA đã mở rộng hơn rất nhiều so với các quan điểm trước đó về
KSNB, AICPA cho rằng KSNB không chỉ liên quan đến việc kiểm tra kế toán mà
còn gắn liền với việc đảm bảo an toàn của tài sản, tuân thủ các quy định của đơn vị,

giảm thiểu rủi ro và đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Theo Báo cáo của COSO năm 1992, KSNB là một quá trình do người quản
lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung
cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu dưới đây:
- Báo cáo tài chính đáng tin cậy
- Các luật lệ và quy định được tuân thủ
- Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả.
Kế thừa quan điểm của COSO để ứng dụng khái niệm về KSNB sử dụng cho
mục ddischs của kiểm toán nội bộ, trong tác phẩm “Kiểm toán nội bộ hiện đại của
Brink” Robert R. Moeller đã bổ sung thêm một số mục tiêu mà KSNB cần phải
hướng đến, theo đó KSNB là “một quá trình được thiết kế bởi các nhà quản lý và
áp dụng trong đơn vị nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp lý về:
- Độ tin cậy của thông tin tài chính và thông tin hoạt động
- Tuân thủ các chính sách, thủ tục, nội quy, quy chế và luật pháp
- Bảo vệ tài sản
- Đảm bảo hiệu quả hoạt động
- Thực hiện được sứ mệnh, mục tiêu và các kết quả của các hoạt động hoặc
chương trình của đơn vị
- Đảm bảo tính chính trực và các giá trị đạo đức”.
Theo khái niệm này, ngoài các mục tiêu truyền thống mà các khái niệm về
KSNB đã được đề cập trước đó, thì mục tiêu về đảm bảo tính chính trực và các giá
trị đạo đức được coi là điểm mới. Với khái niệm này, vai trò của kiểm soát được mở
rộng ý nghĩa không chỉ giới hạn ở việc đảm bảo mà còn hỗ trợ cho đơn vị trong việc
thực hiện sứ mệnh và tạo ra giá trị cho đơn vị.
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế, ISA 315 thì KSNB được hiểu là “một
quá trình được thiết kế và chịu sự chi phối của các nhà quản lý và các nhân viên
trong một tổ chức nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp lý về việc đạt được các mục tiêu
liên quan đến độ tin cậy của báo cáo tài chính, hiệu quả hoạt động cùng hiệu năng
quản lý và tuân thủ các quy định, luật lệ”.
Lê Phương Thu

– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

13

Học viện

Kế thừa quan điểm của COSO và IFAC để ứng dụng khái niệm KSNB sử
dụng cho mục đích kiểm toán nội bộ. Tại Việt Nam, năm 2012, trong chuẩn mực
kiểm toán VSA 315 “Xác định và đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu thông qua
hiểu biết về đơn vị được kiểm toán và môi trường của đơn vị”, Bộ Tài chính đã đưa
ra định nghĩa về Kiểm soát nội bộ như sau: “Kiểm soát nội bộ là quy trình do Ban
quản trị, Ban Giám đốc và các cá nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực hiện và duy
trì để tạo ra sự đảm bảo hợp lý về khả năng đạt được mục tiêu của đơn vị trong
việc đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính, đảm bảo hiệu quả, hiệu suất hoạt
động, tuân thủ pháp luật và các quy định có liên quan. Thuật ngữ “kiểm soát” được
hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần của kiểm soát nội bộ“.
Như vậy, khái niệm về KSNB theo quan điểm của chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam với tư cách hướng dẫn quá trình thực hành của kiểm toán viên về thực
chất quan tâm nhiều đến KSNB kế toán hơn là kiểm soát quản trị nội bộ. Đây là đặc
điểm phổ biến không chỉ thể hiện ở Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam mà nó còn thể
hiện ở tinh thần của Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế, hoặc chuẩn mực kiểm toán của
từng quốc gia như chuẩn mực của AICPA.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về kiểm soát nội bộ nhưng nhìn chung,
kiểm soát nội bộ đều có đặc điểm như sau:

 Kiểm soát nội bộ là một quá trình: Kiểm soát nội bộ bao gồm một chuỗi
các hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với
nhau thành một thể thống nhất. Quá trình kiểm soát là phương tiện để giúp cho đơn
vị đạt được các mục tiêu của mình.
 Kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người: Kiểm soát
nội bộ không chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu, … mà phải bao
gồm những con người trong tổ chức như: Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, và các
nhân viên. Chính con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi
và vận hành chúng.
 Kiểm soát nội bộ cung cấp một đảm bảo hợp lý, chứ không đảm bảo
tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện.
Hiện nay, trong một số nghiên cứu về KSNB không có sự phân biệt rõ giữa
khái niệm KSNB và khái niệm hệ thống KSNB. Theo quan điểm của em, khái niệm
KSNB và khái niệm hệ thống KSNB có sự khác nhau nhất định. Định nghĩa về
KSNB của COSO đã chỉ rõ KSNB là một quá trình với các hoạt động được thực
hiện trong đơn vị nhằm đạt được các mục tiêu liên quan đến hiệu quả, hiệu lực hoạt
động, độ tin cậy của báo cáo, và tuân thủ pháp luật. Ở phương diện này, thuật ngữ “
kiểm soát “ được hiểu là bất cứ khía cạnh nào của một hoặc nhiều thành phần
Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

14

Học viện


KSNB. Theo quan điểm của em, KSNB là một chức năng trong quá trình quản lý,
còn hệ thống KSNB trước hết được hiểu không phải là một yếu tố mà phải là một
tập hợp các yếu tố cùng loại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để nhằm đạt được các
mục tiêu đơn vị đã đặt ra. Bởi vì, theo cách hiểu chung thì “ hệ thống là tập hợp
nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng, có quan hệ hoặc liên hệ với
nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất ”.
1.1.2.2. Mục tiêu của kiểm soát nội bộ
Thứ nhất, bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp: tài sản của doanh nghiệp bao
gồm các tài sản hữu hình và vô hình, kể cả tài sản là thông tin được thể hiện trongt
các tài liệu khác nhau. Chúng có thể bị đánh cắp, bị hư hỏng, hoặc sử dụng sai mục
đích nếu nhà quản lý không quan tâm đến việc thiết kế các thủ tục kiểm soát và yêu
cầu nhân viên trong đơn vị thực hiện để hạn chế thấp nhất các rủi ro liên quan đến
tài sản.
Thứ hai, đảm bảo độ tin cậy của thông tin: trong quá trình ra quyết định và
điều hành các hoạt động của doanh nghiệp, nhà quản lý cần đến nhiều loại thông tin
khác nhau (kể cả thông tin tài chính và thông tin hoạt động; thông tin chính thức
hoặc không chính thức; thông tin nội bộ và thông tin bên ngoài doanh nghiệp,…).
Thông tin phải kịp thời, đảm bảo độ tin cậy nhằm phản ánh nhanh, đầy đủ, khách
quan nhất về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp. Nhờ thực hiện các thủ tục
kiểm soát thích hợp, các đặc tính này mới có thể đảm bảo để có được thông tin khả
dụng và hữu dụng phục vụ cho quá trình quản lý.
Thứ ba, đảm bảo việc tuân thủ các chế độ pháp lý: hoạt động sản xuất kinh
doanh thể hiện mối quan hệ của doanh nghiệp với các bên hữu quan kể cả bên trong
và bên ngoài đơn vị. Chúng bị điều tiết và chi phối bởi các quy định pháp lý. Khi
các quy định này không được tôn trọng, hoạt động của doanh nghiệp không thể diễn
ra bình thường. Các thủ tục kiểm soát thích hợp là cơ sở để tạo lập và duy trì ý thức
chấp hành luật pháp, chế độ, nội quy, quy chế của các thành viên trong đơn vị, nhờ
vậy, doanh nghiệp mới có điều kiện tồn tài và phát triển bền vững.
Thứ tư, đảm bảo hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý: Hiệu quả hoạt

động là mục tiêu mà bất cứ nhà quản lý trong doanh nghiệp nào cũng cần theo đuổi.
Các hoạt động kiểm soát trong doanh nghiệp hợp lý được thực hiện có thể ngăn
ngừa và giảm thiểu các nguy cơ gây lãng phí nguồn lực hoặc sử dụng nguồn lực
không có hiệu quả tại đơn vị. Bên cạnh đó, thông qua đánh giá khả năng đạt được
mục tiêu hoặc kế hoạch đề ra, kết hợp với cơ chế giám sát thường xuyên hoặc định

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

15

Học viện

kỳ các hoạt động, kiểm soát nội bộ góp phần thúc đẩy, nâng cao năng lực của nhà
quản lý trong doanh nghiệp.
Như vậy, kiểm soát nội bộ hữu hiệu có vai trò cơ bản giúp doanh nghiệp hiện
thực hóa được các mục tiêu khác nhau. Song với sự phát triển của nhận thức về
kiểm soát nội bộ phù hợp với những yêu cầu mà thực tiễn đặt ra, vai trò của kiểm
soát nội bộ không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo các mục tiêu truyền thống mà còn có
tác dụng hỗ trợ tổ chức và tạo ra giá trị gia tăng cho đơn vị, thậm chí còn giúp
doanh nghiệp hướng đến những giá trị phi vật chất, chẳng hạn tính chính trực và giá
trị đạo đức.
1.1.3. Nguyên tắc thiết kế kiểm soát nội bộ
Ba nguyên tắc chỉ đạo chung trong việc thiết lập KSNB có hiệu quả là phân

công phân nhiệm; bất kiêm nhiệm; và phê chuẩn, ủy quyền.
Nguyên tắc phân công phân nhiệm:
Trong một tổ chức có nhiều người tham gia thì các công việc cần phải được
phân công cho tất cả mọi người, không để tình trạng một số người làm quá nhiều
việc trong khi một số khác lại không có người làm. Theo nguyên tắc này, trách
nhiệm và công việc cần được phân loại cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều
người trong bộ phận. Việc phân công phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hóa
trong công việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra thường dễ phát hiện.
Mục đích của nguyên tắc này là không để cho cá nhân hay bộ phận nào có
thể kiểm soát được mọi mặt của nghiệp vụ. Khi đó, công việc của người này được
kiểm soát tự động bởi công việc của một nhân viên khác. Phân công công việc làm
giảm rủi ro xảy ra gian lận và sai sót, đồng thời tạo điều kiện nâng cao chuyên môn
của nhân viên.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm:
Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách nhiệm trong các
nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm (nhất là sai phạm cố ý) và
hành vi lạm dụng quyền hạn.
Đặc biệt, trong những trường hợp sau, nguyên tắc bất kiêm nhiệm phải được
tôn trọng:
+ Bất kiêm nhiệm trong việc bảo vệ tài sản với kế toán.
+ Bất kiêm nhiệm trong việc phê chuẩn các nghiệp vụ kinh tế với việc thực
hiện các nghiệp vụ đó.
+ Bất kiêm nhiệm giữa việc điều hành với trách nhiệm ghi sổ.
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn:
Để thỏa mãn các mục tiêu kiểm soát thì tất cả các nghiệp vụ kinh tế phải

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB



Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

16

Học viện

được phê chuẩn đúng đắn. Trong một tổ chức, nếu ai cũng làm mọi việc thì sẽ xảy
ra hỗn loạn, phức tạp. Phê chuẩn là biểu hiện cụ thể của việc quyết định và giải
quyết một công việc trong phạm vi nhất định. Sự phê chuẩn được thực hiện qua 2
loại:
+ Phê chuẩn chung: Được thực hiện thông qua việc xây dựng các chính sách
chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ.
+ Phê chuẩn cụ thể: Được thực hiện cho từng nghiệp vụ kinh tế riêng biệt.
Phê chuẩn cụ thể được áp dụng đối với những nghiệp vụ có số tiền lớn hoặc quan
trọng, những nghiệp vụ không thường xuyên xảy ra.
Ngoài 3 nguyên tắc quan trọng chỉ đạo chính trên, thiết kế KSNB còn tuân
thủ một số các nguyên tắc sau: Nguyên tắc toàn diện (Thiết kế bao trùm tất cả các
hoạt động của doanh nghiệp; Thường xuyên phải tiến hành rà soát xem phù hợp với
thực tế hay không, có cần bổ sung, sửa đổi gì không); Nguyên tắc “bốn mắt” (Tất
cả các nghiệp vụ được thực hiện bởi ít nhất hai người, một người làm, một người
kiểm tra; Nguyễn tắc này chịu ảnh hưởng bởi tầm quan trọng của vụ việc, phụ thuộc
vào khả năng sai phạm; Rủi ro, thiệt hại xảy ra càng lớn bao nhiêu thì số “mắt” càng
lớn bấy nhiêu); Nguyên tắc cân nhắc Lợi ích – Chi phí (Khi xây dựng, thiết kế và
vận hàng KSNB phải đảm bảo rằng lợi ích thu được lớn hơn chi phí bỏ ra); Các thủ
tục phê chuẩn đúng đắn; Chứng từ và sổ sách đầy đủ (Nếu không có chứng từ thì
không được ghi nhận giao dịch, sổ sách đầy đủ chứng minh giao dịch đã thực tế
phát sinh); Bảo vệ tài sản vật chất và sổ sách; Kiểm tra độc lập (Bộ phận kiểm toán

nội bộ khi tiến hành kiểm tra, kiểm soát phải độc lập với các quy trình nghiệp vụ
của doanh nghiệp, không tham gia bất kỳ quy trình nghiệp vụ nào, không trực thuộc
phòng ban nào của doanh nghiệp); Phân tích rà soát.
1.1.3.1. Hạn chế vốn có của kiểm soát nội bộ
Do KSNB trực thuộc nằm trong chính đơn vị và bao gồm các nguyên tắc
thiết kế nêu trên, vì vậy nên bất kể một KSNB được thiết kế và vận hành tốt đến đâu
đi nữa thì nó cũng chỉ cung cấp đảm bảo hợp lý việc đạt được các mục tiêu về hoạt
động, báo cáo tài chính đáng tin cậy và sự tuân thủ các qui định pháp luật. Đây là
một hạn chế cố hữu của KSNB. Hạn chế này xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Kiểm soát nội bộ tiến hành bởi con người
Sự xét đoán của con người có thể đúng mà cũng có thể sai. Tổn thất vẫn có
thể xảy ra do sự thiếu thận trọng, xao lãng, sai lầm trong xét đoán hoặc hiểu sai các
Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

17

Học viện

hướng dẫn của cấp trên. Ngoài ra, kiểm soát nội bộ do cấp quản lý thiết kế, do đó nó
không ngăn ngừa được những hành vi cố ý sai phạm của cấp quản lý và thông đồng
giữa các nhân viên trong doanh nghiệp với nhau hoặc với bên ngoài.
Không thể loại trừ được hoàn toàn những sai sót do bất cẩn, thiếu hiểu biết
và đãng trí của con người. Nguy hiểm hơn nếu nhân viên của đơn vị không làm chủ

được mình trước những cám dỗ vật chất, gian lận có nguy cơ xuất hiện và KSNB
không thể đảm bảo tính hữu hiệu. Nhiều trường hợp khả năng vượt tầm kiểm soát
của KSNB do có sự thông đồng của một người trong ban giám đốc hay một nhân
viên với những người khác ở trong hay ngoài đơn vị, do thiếu nhân viên, hoặc do
khối lượng công việc quá nhiều là những nguy cơ giảm tính hữu hiệu của KSNB.
Thứ hai, Quan hệ giữa lợi ích và chi phí
Không phải mọi rủi ro đều có những thủ tục kiểm soát tương ứng vì chi phí
mà doanh nghiệp bỏ ra để ngăn ngừa những rủi ro đó là không hợp lý, vượt quá
mức tổn thất do sai phạm nếu có xảy ra. Ban Giám đốc thường yêu cầu giá phí của
một thủ tục kiểm tra không được vượt quá những lơi ích mà thủ tục đó đem lại. Vậy
nên, nhà quản lý có thể bỏ qua một loại hình kiểm soát nào đó mà chi phí thực hiện
lợi ích mà nó mang lại. Chính điều này đã hạn chế chất lượng và tính chính xác của
cuộc kiểm tra.
Thứ ba, Kiểm soát nội bộ không bao quát được những rủi ro không lường
trước
Kiểm soát nội bộ được xây dựng trên cơ sở dự tính trước các rủi ro do gian
lận, sai sót có thể xảy ra, và phần lớn công tác kiểm tra nội bộ thường tác động đến
những nghiệp vụ lặp đi lặp lại mà không tác động đến nghiệp vụ bất thường, vì thế
khó có thể ngăn chặn và phát hiện những sai phạm đột xuất, hay bất thường. Do đó,
kiểm soát nội bộ cần phải thường xuyên được hoàn thiện.
Thứ tư, Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm soát có khả năng
không còn thích hợp và do đó không được áp dụng
Các thủ tục kiểm soát thường chỉ áp dụng trong một khoảng thời gian nhất
định bời nhiều lý do khác nhau. Trước hết, biến đổi của môi trường kể cả bên trong
và bên ngoài đơn vị khiến cho các thủ tục kiểm soát không còn thích hợp. Bên cạnh
đó, khi thiết kế, các nhà quản lý thường chỉ quan tâm đến các nghiệp vụ hoặc hoạt
động thông thường, trong khi đó, những nghiệp vụ không thường xuyên nằm ngoài
Lê Phương Thu
– K15


Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

18

Học viện

dự kiến của nhà quản lý với bản chất phức tạp và khó khăn trong kiểm soát hơn lại
không được điều chỉnh bởi các thủ tục kiểm soát thích hợp.
Thứ năm, Thiếu sự quan tâm của nhà quản lý đến KSNB
Nếu nhà quản lý không quan tâm thích đáng đến việc xây dựng, thiết kế, vận
hành các chính sách và thủ tục kiểm soát hoặc những người chịu trách nhiệm thực
hiện KSNB lạm dụng quyền hạn của mình, thì không thể có KSNB hữu hiệu.

1.2. Các bộ phận cấu thành của kiểm soát nội bộ
1.2.1. Các bộ phận cấu thành của kiểm soát nội bộ theo thông lệ quốc tế
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 315 của IFAC, kiểm soát nội bộ
gồm có 5 thành phần: môi trường kiểm soát, thông tin và truyền thông, quá trình
đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, giám sát các kiểm soát. Hiệp hội các tổ
chức tài trợ của Mỹ (COSO) cũng có quan điểm tương đồng với IFAC về các bộ
phận cấu thành của KSNB. Lý do thống nhất Báo cáo về KSNB của COSO để phục
vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau, không chỉ sử dụng riêng trong kiểm toán
tài chính nên COSO tiếp cận và trình bày những khía cạnh ở phạm vi rộng hơn.
Cơ sở cho việc thiết kế: Kiểm soát nội bộ được thiết lập sẽ hướng các công
ty vào kết quả kinh doanh, đạt được các mục tiêu của nó, và giảm thiểu những hoạt
động bất thường xảy ra trong quá trình hoạt động. Kiểm soát nội bộ giúp cho các
nhà quản lý thích ứng với sự thay đổi nhanh của môi trường cạnh tranh và môi

trường kinh tế, sự thay đổi trong nhu cầu và những mong muốn của khách hàng, cấu
trúc tăng trưởng trong tương lai. KSNB thúc đẩy hiệu quả, giảm thiểu rủi ro do
thiếu hụt tài sản và trợ giúp trong việc đảm bảo lập báo cáo tài chính trung thực
cũng như tuân thủ các quy định và luật pháp liên quan (COSO 1992).
Mục tiêu KSNB của COSO: hiệu quả và hiệu lực của hoạt động; Lập BCTC
tin cậy; Tuân thủ luật pháp và các quy định có liên quan. (Colbert & Bowen,
1996.26)

Lê Phương Thu
– K15

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

19

Học viện

MÔI TRƯỜNG KIỂM SOÁT
Các nhân tố phản ánh nhận
thức, quan điểm và thái độ của
nhà quản lý liên quan đến vấn
đề kiểm soát

- Triết lý quản lý và phong cách điều hành
- Cơ cấu tổ chức
- Phương pháp ủy quyền

- Khả năng đội ngũ nhân viên

ĐÁNH GIÁ RỦI RO
\

( ASSESSMENT OF
RISK )

- Chính sách nguồn nhân lực
Đánh
Nhận
giá
dạng
- Xác định mục
tiêu
- Thiết
lập cơ chế
nhận dạng rủi ro

- Thiệt hại
- Xác suất
xảy ra

Biện
pháp

- Mua bảo hiểm
- Tăng kiểm soát
- Không làm gì hết
- Tăng tốc độ thu

hồi

- Phân chia trách nhiệm
HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT

- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin

Những chính sách và thủ tục để
đảm bảo cho các chỉ thị của
nhà quản lý được thực hiện

- Bảo vệ tài sản
- Phân tích rà soát
THÔNG TIN

THÔNG TIN & TRUYỀN
THÔNG
Information &
Communication

- Hệ thống thông tin
- Chiến lược thông tin
- Chất lượng thông tin
TRUYỀN THÔNG

GIÁM SÁT
Thường xuyên và định kỳ
giám sát các hoạt động để
Lê Phương
Thu

đánh giá chất lượng của
– K15
KSNB

- Bên trong

Lớp: KTB


Khóa luận tốt nghiệp
Ngân hàng

20

Học viện

- Bên ngoài
- Giám sát thường xuyên
- Các chương trình đánh giá
- Báo cáo phát hiện
Hình 1.1: Khái quát về các thành phần của kiểm soát nội bộ
1.2.1.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm các chức năng quản trị và quản lý, các quan
điểm, nhận thức và hành động của Ban quản trị và Ban Giám đốc liên quan đến
kiểm soát nội bộ và tầm quan trọng của KSNB đối với hoạt động của đơn vị. Môi
trường kiểm soát tạo nên đặc điểm chung của một đơn vị, có tác động trực tiếp đến
ý thức của từng thành viên trong đơn vị về công tác kiểm soát. Môi trường kiểm
soát là nền tảng cho bốn bộ phận còn lại của kiểm soát nội bộ nhằm xây dựng
những nguyên tắc và cơ cấu hoạt động phù hợp.
Môi trường kiểm soát được thể hiện thông qua tính kỷ luật, cơ cấu tổ chức,

giá trị đạo đức, tính trung thực, triết lý quản lý, phong cách điều hành. Môi trường
kiểm soát ảnh hưởng đến cách thức kinh doanh của một tổ chức, đến các mục tiêu
được thiết lập, đến các bộ phận còn lại của KSNB. Điều này không chỉ đúng trong
giai đoạn thiết kế mà cả trong hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp.
Các nhân tố trong môi trường kiểm soát nêu trên đều quan trọng, nhưng mức
độ quan trọng của mỗi nhân tố tùy thuộc vào từng doanh nghiệp.
Thứ nhất: Truyền đạt thông tin và yêu cầu thực thi tính chính trực và các giá
trị đạo đức
Là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát, nó tác động đến việc thiết
kế, thực hiện và giám sát các nhân tố khác của kiểm soát nội bộ. Thái độ và sự quan
tâm của nhà quản lý cao cấp đối với kiểm soát nội bộ hữu hiệu phải được lan tỏa
đến toàn doanh nghiệp.
Ứng
xửTIN
có &đạo
đức và tính trung thực của toàn thể nhân viên chính là văn
THÔNG
TRUYỀN
THÔNG
hóa của tổ chức.
Văn hóa của tổ chức bao gồm các chuẩn mực về cách thức ứng xử
và các giá Information
trị đạo đức,& cách thức truyền đạt và thực hiện trong thực tiễn. Sự hữu
hiệu của KSNB
trước tiên phụ thuộc vào tính trung thực và việc tôn trọng các giá trị
communication
đạo đức của những người có liên quan đến quá trình kiểm soát. Tuy nhiên sự hữu
SÁT
hiệu của kiểm GIÁM
soát nội

bộ không chỉ tạo bởi tính trung thực và các giá trị đạo đức
Thường
xuyên
định kỳ
giámlý mà là của toàn thể nhân viên trong đơn vị.
của người
sáng
lập,vàngười
quản
Tính
hữuđộng
hiệuđểcủa
cácgiákiểm soát không thể cao hơn các giá trị đạo đức và
sát
các hoạt
đánh
chất lượng
của HTKSNB
tính chính
trực của
những người tạo ra, quản lý và giám sát các kiểm soát đó. Tính
-Giám sát thường xuyên

Lê Phương Thu
– K15 -Các chương trình đánh giá
-Báo cáo phát hiện

Lớp: KTB



×