Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG tác THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ tại cục THUẾ TỈNH sơn LA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.95 KB, 96 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
-----šš&››-----

TRƯƠNG HÙNG THẮNG

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THANH TRA,
KIỂM TRA THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH SƠN LA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2014


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
-----šš&››-----

TRƯƠNG HÙNG THẮNG


HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THANH TRA,
KIỂM TRA THUẾ TẠI CỤC THUẾ TỈNH SƠN LA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành : Kinh tế, tài chính - Ngân hàng
Mã số

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Đình Chiến

HÀ NỘI - 2014


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Hùng Thắng


4

MỤC LỤC
Trang phụ bìa



5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
CNH
DN
DN NQD
DNNN
DNTN

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp tư nhân

ĐTNN
GTGT
HĐH
HĐND
KBNN
NNT
NSNN
TKTN
TNDN
TNHH
UBND

XHCN

Đầu tư nước ngoài
Giá trị gia tăng
Hiện đại hoá
Hội đồng nhân dân
Kho bạc Nhà nước
Người nộp thuế
Ngân sách nhà nước
Tự khai tự nộp
Thu nhập doanh nghiệp
Trách nhiệm hữu hạn
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ

Tên sơ đồ


Trang


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý nhà nước về thuế nhằm đảm bảo cho Nhà nước có một nguồn thu
ổn định, phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng và lành mạnh, thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Để công tác quản lý thuế thực sự có hiệu quả thì hoạt
động thanh tra, kiểm tra thuế phải luôn được tăng cường. Hoạt động thanh tra,
kiểm tra thuế không những giúp cho hoạt động quản lý thuế đạt được các mục
tiêu đã đề ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn chế của chính sách,
điều chỉnh kịp thời chính sách, chế độ về thuế, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật thuế của cộng đồng và góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng trốn thuế,
chống thất thu thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực
thuế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng, song trên thực tế chưa trở thành
công cụ hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe được các hành vi, vi
phạm về thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của
cơ quan thuế chưa phù hợp với thực trạng của nước ta nói chung và các địa
phương nói riêng, trong đó có tỉnh Sơn La. Bên cạnh đó, nhận thức và trách
nhiệm tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật thuế nói riêng chưa cao nên các
sai sót, gian lận trong thực hiện nghĩa vụ thuế còn nhiều, gây thất thu cho ngân
sách, bất công bằng trong tuân thủ thuế và nhiều hệ lụy khác về kinh tế, xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, việc đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác
thanh tra, kiểm tra thuế nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra thuế góp phần làm cho chính sách thuế thực sự đi vào cuộc

sống cũng như công tác quản lý thuế đạt kết quả cao trong điều kiện hiện nay là
rất cần thiết. Chính vì vậy việc chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ kinh tế “Hoàn
thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Cục Thuế tỉnh Sơn La trong giai
đoạn hiện nay ” vừa có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.


8

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận chung về thanh tra, kiểm tra và thực tiễn công
tác thanh tra, kiểm tra về thuế trên địa bàn tỉnh Sơn La, luận văn đưa ra các quan
điểm nhằm đề xuất các giải pháp đối với công tác thanh tra, kiểm tra để từ đó
thực hiện đúng và đầy đủ hơn các nội dung của chính sách thuế, góp phần phát
huy tác dụng tích cực của chính sách thuế và sự thành công của công cuộc cải
cách thuế trong giai đoạn tiếp theo, thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu,
định hướng phát triển của ngành thuế theo tinh thần Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La cả về lý luận và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Sơn La trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Về lý luận: Hệ thống hóa lý luận về công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Về thực tiễn: Luận văn này có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu và
tham khảo về công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong quá trình học tập, vận dụng
thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy

vật lịch sử. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, diễn giải để giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu nhằm đạt được mục tiêu của luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
kết cấu thành 3 chương:


9

Chương 1: Những vấn đề chung về công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối
với doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng của công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp cơ bản hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra
thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời gian tới.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THANH TRA,
KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ
1.1.1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế
Theo Giáo trình Nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính, “Kiểm tra thuế là
hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng
kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối
tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá”[4, tr.236].
Trên cơ sở quan niệm trên có thể hiểu “Kiểm tra thuế là hoạt động xem xét,

đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá
nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí”.
Theo Giáo trình Nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính, “Thanh tra thuế là
hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan
thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành
vi trái pháp luật'' [4,tr.237]
Trên cơ sở quan niệm trên có thể hiểu “Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân
chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế nhằm kết luận đúng, sai,
đánh giá ưu khuyết điểm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, phòng ngừa
và xử lý các vi phạm pháp luật thuế”.
Mối quan hệ giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế:
- Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý thuế; có
mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những vi phạm pháp luật thuế, góp phần thúc
đẩy các tổ chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của pháp luật thuế.
- Chủ thể là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật,
thường là cơ quan thuế.
- Đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà
nước và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế.
- Nội dung là việc chấp hành pháp luật thuế.


11

- Về phương pháp, phải xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để phát
hiện, phân tích, đánh giá thực trạng đối tượng một cách chính xác, khách quan.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế được thực hiện ở tất cả các giai đoạn
của quản lý thuế.
Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra cũng có sự khác nhau nhất định:
- Thứ nhất, chủ thể của thanh tra thuế không đồng nhất với đối tượng thanh

tra thuế nhưng chủ thể kiểm tra thuế có thể không đồng nhất hoặc đồng nhất với
đối tượng kiểm tra, ví dụ kiểm tra nội bộ.
- Thứ hai, tính chất của thanh tra thuế là một hoạt động dựa vào quyền lực của
cơ quan quản lý nhà nước. Kiểm tra là hoạt động trung tính, có thể là hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước hoặc có thể chỉ là hoạt động quản lý đơn thuần.
- Thứ ba, nội dung hoạt động thanh tra thuế thường là kiểm tra ở giai đoạn
sau, khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Nội dung thanh tra thuế thường là
những vấn đề phức tạp, bản chất vấn đề thường được che giấu có chủ ý nên khó
nhận biết. Nội dung kiểm tra thuế thường là những vấn đề hiện tại, dễ nhận biết.
- Thứ tư, do mức độ nghiêm trọng của sự việc cần thanh tra, nên thời gian
để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn một cuộc kiểm tra thuế.
1.1.2. Mục đích thanh tra, kiểm tra thuế
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nói chung, thanh tra, kiểm tra thuế đối
với NNT nói riêng nhằm đạt được các mục đích sau đây:
- Một là, thanh tra, kiểm tra NNT để góp phần hoàn thiện cơ chế, chính
sách pháp luật về thuế.
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi
sắc thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương
pháp quản lý thu thuế khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều
đã được nghiên cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế nước
ta đang ở thời kỳ chuyển đổi và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới
nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế sẽ cung cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh
một cách chân thực, sống động các hoạt động diễn ra trong thực tế, để phục vụ
cho việc hoàn thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp.


12

- Hai là, phòng ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật thuế và tội

phạm nảy sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu
liên quan đến NNT, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT, xác minh và thu
thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Theo đó, vừa
phòng ngừa các hành vi phạm pháp luật thuế có thể xảy ra; vừa sử dụng các biện
pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm xử lý và răn
đe hành vi vi phạm pháp luật của NNT.
Việc kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
thuế là biện pháp hữu hiệu nhất đối với việc phòng ngừa các loại tội phạm có thể
phát sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
- Ba là, thanh tra, kiểm tra NNT góp phần quan trọng trong việc cải cách
thủ tục hành chính thuế.
Triển khai thực hiện pháp luật thuế, cũng đồng thời với việc triển khai thực
hiện các thủ tục hành chính thuế. Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra phát hiện
những NNT thực hiện không đúng và không đủ các thủ tục hành chính thuế để
kịp thời chấn chỉnh. Đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, những thủ tục
không phù hợp với thực tế để kiến nghị bổ sung hoàn thiện, nâng cao hiệu lực
pháp luật thuế.
1.1.3. Nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
- Thứ nhất, phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm cá nhân trước
pháp luật.
Không được làm trái các quy định của pháp luật là nguyên tắc quan trọng
nhất trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Nguyên tắc này đòi hỏi các đơn vị, cá nhân tham gia quá trình thanh tra,
kiểm tra thuế chỉ được thực hiện những quyền mà pháp luật cho phép và phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
- Thứ hai, bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời.
Tính chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra, kiểm tra phải nhận thức đúng vấn
đề, nội dung kiểm tra, thanh tra; xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự



13

việc để kết luận thanh tra, kiểm tra chính xác.
Tính khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra, kiểm tra phải phản ánh đúng sự
vật, hiện tượng như nó vốn có.
Tính trung thực đòi hỏi chủ thể thanh tra, kiểm tra phải tuân thủ các quy tắc
về đạo đức nghề nghiệp, phản ánh đúng thực tế sự việc.
Tính công khai thể hiện ở chỗ chủ thể thanh tra, kiểm tra phải thông báo
đầy đủ, công khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra, kiểm tra đến kết
luận thanh tra, kiểm tra để các tổ chức, cá nhân liên quan biết, giám sát và phối
hợp thực hiện.
Tính dân chủ nhằm tạo cơ hội cho đối tượng thanh tra, kiểm tra, được trình
bày ý kiến, quan điểm về những nội dung thanh tra, kiểm tra cũng như về hoạt
động của đoàn thanh tra, kiểm tra cụ thể, tránh tình trạng áp đặt của chủ thể
thanh tra, kiểm tra.
Tính kịp thời: Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nhằm phục vụ các mục
tiêu quản lý thuế trong những thời điểm nhất định.
- Thứ ba, không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra,
kiểm tra.
Việc cơ quan chức năng tổ chức tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế tại cơ sở
kinh doanh là cần thiết nhưng ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của đối
tượng bị thanh tra, kiểm tra.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế tối đa những cuộc thanh tra, kiểm tra chồng
chéo của các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra, kiểm tra, đảm bảo về cùng một nội dung, trong một năm đối
tượng chỉ bị thanh tra, kiểm tra một lần.
1.1.4. Nội dung thanh tra, kiểm tra Người nộp thuế
Nội dung thanh tra, kiểm tra NNT tập trung vào những vấn đề chủ yếu như sau:

- Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành những quy định về đăng ký thuế:
Đăng ký kinh doanh và đăng ký nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của NNT
có hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua việc đăng ký kinh doanh, Nhà
nước quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở ngay từ khi bắt đầu
hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nguồn thu cho NSNN.
Nội dung của thanh tra, kiểm tra đăng ký thuế là xem xét trên từng địa bàn, trong


14

từng loại ngành nghề có bao nhiêu DN, hộ kinh doanh hoạt động SXKD, số
lượng NNT đã đăng ký và chưa đăng ký thuế.
Đối với mỗi doanh nghiệp, khi thanh tra, kiểm tra cần đi sâu xem xét tính
pháp lý của đăng ký thuế, kiểm tra tính trung thực của các tài liệu, số liệu kê khai
trong đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế về vốn, về địa điểm, ngành nghề kinh
doanh, mặt hàng kinh doanh, thời gian thực tế kinh doanh, hình thức kế toán áp
dụng, tài khoản giao dịch...
- Thông qua kiểm tra nội dung đăng ký kinh doanh để kiểm tra đăng ký
thuế xem những mặt hàng đăng ký kinh doanh có phù hợp với đăng ký thuế hay
không? Nguyên nhân của những mặt hàng đăng ký kinh doanh nhưng chưa đăng
ký nộp thuế và ngược lại, những mặt hàng có SXKD, có đăng ký nộp thuế nhưng
chưa có giấy phép kinh doanh, từ đó để yêu cầu đăng ký kinh doanh bổ sung hay
xác định mức thuế cho phù hợp.
Như vậy, việc kiểm tra đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế là nội dung
đầu tiên nhằm đảm bảo không bỏ sót NNT và đối tượng chịu thuế, không bỏ sót
nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý các nguồn thu
phải nộp vào NSNN.
- Thứ hai, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn,
chứng từ:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật DN, Luật kế toán...) tất cả các

DN thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể làm kinh tế đều
phải chấp hành chế độ kế toán, thống kê.
Việc thực hiện chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hoá đơn có liên quan mật
thiết đến việc tính thuế, nộp thuế và công tác quản lý của Nhà nước. Bởi vậy sự
chính xác hay không chính xác của số liệu kế toán được phản ánh trên sổ sách kế
toán quyết định tới tính chính xác của số thuế phải nộp nhưng trên thực tế thì quá
trình thực hiện hạch toán kế toán của NNT do vô tình hay hữu ý, hoặc do trình
độ non kém mà dẫn tới vi phạm. Vì vậy cần phải thanh tra, kiểm tra để uốn nắn
kịp thời. Nội dung thanh tra kiểm tra trong lĩnh vực này bao gồm những vấn đề
cơ bản sau:
Một là: Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật kế toán của các cơ sở kinh


15

doanh. Kiểm tra việc mở sổ kế toán, việc quản lý sử dụng các loại chứng từ, hoá
đơn theo chế độ quy định, hình thức hạch toán kế toán, chế độ ghi chép, cập nhật
hoá đơn, chứng từ so với quy định của pháp luật; số liệu giữa sổ tổng hợp và sổ
chi tiết; xác định kết quả SXKD. Từ đó kiểm tra, đối chiếu số thuế phải nộp của
doanh nghiệp trong kỳ tính thuế.
Hai là: Thanh tra, kiểm tra việc lập và sử dụng các loại chứng từ, hoá đơn
có liên quan đến việc tính thuế, nội dung kiểm tra chứng từ hoá đơn là xác định
tính hợp pháp, hợp lý, tính trung thực của từng loại hoá đơn chứng từ có liên
quan như hoá đơn bán hàng, phiếu xuất kho, phiếu thu, phiếu chi, giấy nộp tiền
vào KBNN...
Qua thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách chứng từ
hoá đơn của NNT sẽ bảo đảm chính xác các căn cứ để tính thuế, ngăn chặn kịp
thời việc hạch toán sai để trốn lậu thuế. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra cần
được tiến hành thường xuyên.
- Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế:

Việc kê khai, tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các DN, tổ chức, cá nhân
kinh doanh đối với Nhà nước. Nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra việc kê
khai, tính thuế và nộp thuế bao gồm:
Một là: Kiểm tra căn cứ tính thuế nhằm xác định đúng số thuế phải nộp, số
thuế đã nộp, số thuế được miễn giảm, số thuế được hoàn trong kỳ của doanh
nghiệp. Việc kiểm tra căn cứ tính thuế được thực hiện trên cơ sở kiểm tra sổ sách kế
toán, chứng từ hoá đơn và các tài liệu có liên quan. Thông qua việc kiểm tra, đối
chiếu số liệu trên các tờ khai, bảng kê, quyết toán thuế, báo cáo tài chính mà DN đã
kê khai với cơ quan thuế với số liệu kiểm tra trên sổ sách kế toán và tình hình thực
tế của DN để phát hiện số thuế đơn vị kê khai thiếu, số thuế ẩn lậu.
Hai là: Kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của DN
Yêu cầu của nội dung này là xác định tình hình thực hiện các quy định về
thời hạn nộp thuế, số tiền thuế chậm nộp để chiếm dụng NSNN làm vốn kinh
doanh của DN. Để đạt được yêu cầu trên, cần đối chiếu thời hạn nộp thuế theo
quy định của các luật thuế với thời gian nộp thuế của DN qua các chứng từ nộp


16

thuế như: Giấy nộp tiền vào Kho bạc, biên lai thuế…
1.1.5. Phân loại thanh tra, kiểm tra thuế
* Theo tính kế hoạch
Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế có hai hình thức
là thanh tra, kiểm tra theo chương trình, kế hoạch và thanh tra, kiểm tra đột xuất.
+ Thanh tra, kiểm tra theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo
chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình
hình chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan
thuế xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra và trình cấp thẩm quyền phê duyệt và
tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được phê duyệt.
+ Thanh tra, kiểm tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ

chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, theo yêu cầu của việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
* Theo nội dung và phạm vi thanh tra, kiểm tra.
Theo tiêu thức này, thanh tra, kiểm tra thuế được chia thành hai loại là
thanh tra, kiểm tra toàn diện và thanh tra, kiểm tra bộ phận.
+ Thanh tra, kiểm tra toàn diện: cơ quan chức năng tiến hành thanh tra,
kiểm tra toàn bộ công tác quản lý thu của một cơ quan thuế hoặc toàn bộ quá
trình kê khai, nộp thuế với tất cả các sắc thuế của một NNT.
+ Thanh tra, kiểm tra bộ phận: Hình thức này thường được áp dụng khi
thanh tra, kiểm tra một hoặc một vài sắc thuế; một hoặc một số kỳ tính thuế hoặc
một vài quy trình quản lý thuế.
* Theo địa điểm tiến hành thanh tra, kiểm tra
+ Thanh tra, kiểm tra tại cơ quan thuế (tại bàn): Kiểm tra tại trụ sở cơ quan
thuế được thực hiện thường xuyên đối với các hồ sơ thuế nhằm đánh giá tính đầy
đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật
thuế của NNT. Kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế là việc so sánh, đối chiếu các
nguồn thông tin kê khai của NNT, phân tích so sánh thông tin về NNT qua các
kỳ với nhau và với các biến động của ngành để xác định mức độ ổn định và tuân
thủ của NNT.
+ Thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT: là loại hình thanh tra tổng hợp, toàn


17

diện tình hình tuân thủ pháp luật thuế của DN mà DN đó có nghĩa vụ thực hiện
và ngành thuế có trách nhiệm quản lý.
Thanh tra toàn diện là hình thức thanh tra được tiến hành một cách đồng bộ
đối với tất cả các sắc thuế: GTGT, TNDN và các loại thuế khác trong kỳ kê khai
thuế. Thanh tra toàn diện thường chỉ được thực hiện đối với một hoặc hai kỳ kê
khai thuế thuế gần nhất trừ trường hợp phát hiện NNT có dấu hiệu không tuân

thủ có giá trị trọng yếu. Các cán bộ thanh tra cần áp dụng kỹ thuật chọn mẫu và
mức độ công việc thanh tra và số các kỳ tài chính cần thanh tra sẽ được mở rộng
khi các phát hiện của đội thanh tra yêu cầu phải mở rộng phạm vi thanh tra. Cơ
quan thuế cần dự tính nguồn nhân lực cũng như chi phí để thực hiện thanh tra
toàn diện trong quá trình lập kế hoạch thanh tra hàng năm.
1.1.6. Phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế
* Phương pháp đối chiếu, so sánh
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thanh tra, kiểm
tra thuế. Nội dung của phương pháp này là thực hiện việc so sánh, đối chiếu nội
dung cần thanh tra, kiểm tra với các nguồn thông tin khác nhau để đánh giá, xem
xét nội dung cần thanh tra, kiểm tra.
* Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu kế toán. Theo phương pháp
này, trước hết kiểm tra số liệu tổng hợp sau mới kiểm tra số liệu chi tiết. Việc
kiểm tra tổng hợp nhằm rút ra những nhận xét tổng quát để từ đó định hướng
những nội dung cần đi sâu kiểm tra (kiểm tra chi tiết).
* Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc:
+ Kiểm tra theo trình tự thời gian là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc đã
được sắp xếp theo trình tự thời gian phát sinh. Phương pháp này mất nhiều thời
gian và hiệu quả thấp nên ít được sử dụng.
+ Kiểm tra theo loại nghiệp vụ là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc đã
được phân loại, sắp xếp theo một nghiệp vụ nhất định. Phương pháp này được áp
dụng khi cần rút ra kết luận đầy đủ về một loại nghiệp vụ theo yêu cầu của nội
dung kiểm tra, thanh tra; tiết kiệm thời gian và cho hiệu quả cao.
+ Kiểm tra điển hình là việc kiểm tra ngẫu nhiên một số chứng từ của một


18

loại nghiệp vụ để rút ra kết luận chung. Phương pháp này tiết kiệm nhiều thời

gian nhưng độ tin cậy của kết luận không cao.
* Các phương pháp kiểm tra bổ trợ
+ Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng khi cần thu
thập thông tin từ những người có quan hệ trực tiếp, gián tiếp đến nội dung kiểm
tra, thanh tra.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như: Phương pháp thẩm tra và
xác nhận từng phần, phương pháp quan sát...
1.1.7. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được xem xét, đánh
giá đơn thuần ở khía cạnh vật chất (hiệu quả kinh tế) mà còn được xem xét, đánh
giá dưới giác độ hiệu quả xã hội - chính trị. Vì vậy, các tiêu chí đánh giá hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế được chia làm 2 nhóm là:
- Một là, các tiêu chí định lượng
+ Tình hình thực hiện kế hoạch thanh tra về từng chỉ tiêu định lượng của kế
hoạch: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ hoàn thành
kế hoạch về số đối tượng thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn
thành kế hoạch về số thời gian thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm...
+ Tình hình vi phạm pháp thuế đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra: Đánh
giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ giữa số lượng đối tượng
vi phạm pháp luật thuế/tổng số đối tượng được thanh tra, kiểm tra; Tổng số tiền
thuế truy thu qua thanh tra, kiểm tra; Số tiền thuế truy thu bình quân/đối tượng
thanh tra, kiểm tra.
+ Chi phí vật chất và thời gian cho thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí
này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Thời gian bình quân 01 cuộc thanh tra,
kiểm tra; Số đối tượng được thanh tra, kiểm tra bình quân/thanh tra viên hàng
năm; Chi phí bằng tiền trực tiếp cho thanh tra, kiểm tra.
+ Hiệu quả trực tiếp của thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí này thường
dựa vào các chỉ tiêu như: Chi phí thanh tra, kiểm tra so với số thuế truy thu được
đã nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế
theo biên bản thanh tra, kiểm tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng



19

thanh tra, kiểm tra; Tỷ lệ các trường hợp đối tượng thanh tra, kiểm tra chấp nhận
hoàn toàn kết luận thanh tra, kiểm tra; Tỷ lệ số thuế truy thu được nộp vào
NSNN/tổng số thuế truy thu.
- Hai là, các tiêu chí định tính
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của công tác thanh tra, kiểm tra mà
không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả có
tính xã hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Tiêu chí này có thể đo
lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng thanh
tra, kiểm tra qua các năm.
+ Tác dụng trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự
công bằng giữa các NNT; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
+ Tác dụng trong việc phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan quản
lý thuế và tạo lòng tin của nhân dân vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra, kiểm tra được đánh giá theo
kỳ (quý, năm) và được chia theo sắc thuế; theo hình thức thanh tra; theo loại
NNT và từng nội dung thanh tra, kiểm tra tương ứng.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THANH TRA,
KIỂM TRA THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình cải cách, hiện đại hóa công tác
quản lý thuế, điển hình là sự chuyển đổi cơ chế quản lý thuế từ cơ chế NNT nộp
thuế theo thông báo của cơ quan thuế sang cơ chế NNT tự kê khai, tự nộp thuế.
Bên cạnh đó, với sự mở rộng hội nhập và quan hệ kinh tế quốc tế, sự phát triển
của hạ tầng công nghệ thông tin cũng đòi hỏi có nhiều đổi mới trong công tác
quản lý thuế nói chung, công tác thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng. Trong bối
cảnh đó, yêu cầu về hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác

thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết.
1.2.1. Ảnh hưởng của việc hoàn thiện cơ chế quản lý thuế đến hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế
Khi thực hiện hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, công tác quản lý thuế sẽ có


20

bước chuyển đổi cơ bản. Cơ quan thuế không còn can thiệp vào quá trình kê
khai, nộp thuế của NNT, loại trừ các trường hợp phát hiện có sai sót, vi phạm
hoặc có dấu hiệu không chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên
truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế,
đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT và thông qua
công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi trốn thuế
của NNT.
Việc thực hiện hoàn thiện quản lý thuế đòi hỏi NNT phải có mức độ tuân
thủ nghĩa vụ thuế rất cao. Để nâng cao tính tuân thủ pháp luật thuế của NNT,
ngoài việc tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, cơ quan thuế phải đẩy
mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra,
kiểm tra. Tuy nhiên với một nguồn lực hạn chế, cơ quan thuế không thể thực
hiện thanh tra, kiểm tra tất cả NNT. Do vậy, cơ quan thuế phải xây dựng một cơ
chế thanh tra, kiểm tra để phân bổ hiệu quả nguồn lực nhằm giám sát tốt nhất
hoạt động của NNT, kịp thời phát hiện và xử lý NNT vi phạm pháp luật về thuế
vừa nâng cao trách nhiệm, tính chủ động của NNT trong việc thực hiện pháp luật
thuế và giảm phiền hà, tôn trọng, khuyến khích NNT tuân thủ nghiêm túc pháp
luật thuế. Để đáp ứng yêu cầu này, cơ quan thuế đã thực hiện chính sách thanh
tra, kiểm tra dựa trên phương pháp quản lý rủi ro tuân thủ.
1.2.2. Đặc điểm và yêu cầu đối với công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong
điều kiện hiện nay
1.2.2.1. Thanh tra, kiểm tra thuế được tiến hành trên cơ sở áp dụng phương

pháp quản lý rủi ro tuân thủ
Rủi ro được hiểu là sự kết hợp khả năng xảy ra của một sự kiện và hệ quả
của nó. Nhìn chung rủi ro có thể xảy ra trong mọi lĩnh vực. Rủi ro có tính hai
mặt: Mặt phải (cơ hội có lợi) và mặt trái (sự đe dọa thành công). Trong các lĩnh
vực đặt ra mức độ an toàn thì nhìn chung hệ quả do rủi ro tạo ra chỉ có tính bất
lợi, vì vậy quản lý rủi ro trong lĩnh vực này thường tập trung vào việc phòng


21

chống và giảm nhẹ tác hại mà rủi ro có thể gây ra…
Rủi ro về thuế là những tổn thất có thể xảy ra phát sinh từ các hoạt động
không tuân thủ pháp luật thuế trong một môi trường, hoàn cảnh cụ thể. Rủi ro về
thuế có ở tất cả các hoạt động từ xây dựng chính sách, pháp luật thuế, quản lý
của cơ quan thuế đến việc chấp hành nghĩa vụ thuế của NNT.
Kỹ thuật quản lý rủi ro tuân thủ được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Phân tích xác định rủi ro
- Phân tích xác định rủi ro là việc sử dụng các kỹ thuật phân tích để xác
định, ước tính rủi ro thuế. Kỹ thuật phân tích thường được sử dụng gồm: Phân
tích, kiểm tra tính hợp lý; phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất.
- Phân tích, kiểm tra tính hợp lý thường bao gồm những so sánh cơ bản
như:
+ So sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán...
+ So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân ngành.
+ Nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa các thông tin tài chính và thông
tin phi tài chính.
Từ kết quả so sánh, những khác biệt lớn giữa số thực tế và số kế hoạch sẽ
giúp thanh tra viên phát hiện những sai sót hoặc các biến động lớn trong hoạt
động của đối tượng thanh tra, kiểm tra.
- Phân tích xu hướng là sự phân tích những thay đổi theo thời gian của các

chỉ tiêu. Phân tích xu hướng được sử dụng khi cần xem xét sự biến động của một
chỉ tiêu nào đó giữa các kỳ báo cáo nhằm phát hiện những biến động bất thường
để tập trung kiểm tra, xem xét.
- Phân tích tỷ suất là cách thức so sánh những chỉ tiêu với nhau để xác định
mối quan hệ giữa chúng.
Bước 2: Đánh giá, phân loại rủi ro
Khi quá trình phân tích xác định rủi ro kết thúc, thực hiện so sánh, tổng hợp
những khả năng xảy ra rủi ro đã được phát hiện để đánh giá, phân loại rủi ro.
Thông thường rủi ro thuế được chia theo ba mức là: Cao, trung bình và thấp theo
các tiêu chí được định trước tuỳ thuộc tính chất, đặc điểm của đối tượng thanh
tra và mục đích, yêu cầu quản lý thuế từng thời điểm.
Bước 3: Xử lý rủi ro


22

Các đối tượng có mức độ rủi ro cao và trung bình được phân tích sâu hơn
trên cơ sở đối chiếu kết quả phân tích xác định rủi ro với cơ sở dữ liệu của cơ
quan thuế, các thông tin từ bên thứ ba, tài liệu do đối tượng thanh tra cung cấp để
xác định chi tiết rủi ro thuế về mức độ, nội dung... Thông thường, rủi ro thuế
được xử lý bằng việc tiến hành thanh tra tại cơ sở.
1.2.2.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đòi hỏi phải có một hệ thống hỗ
trợ kỹ thuật hiện đại
Để thực hiện phân tích rủi ro trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế,
ngành thuế phải xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và tập trung
về đối tượng thanh tra, kiểm tra. Hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng trên cơ
sở thông tin từ nội bộ ngành thuế và thông tin từ các ngành liên quan được kết
nối tự động với cơ quan thuế và được chia sẻ trên phạm vi toàn quốc.
Đồng thời, khi phân tích rủi ro thuế, cơ quan thuế phải xử lý một khối lượng
công việc khổng lồ để tra cứu, kết xuất dữ liệu, tính toán các tỷ suất...nên việc xử lý

bằng phương pháp thủ công là bất khả thi. Do đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra
trong điều kiện đổi mới quản lý thuế đòi hỏi phải được hỗ trợ bởi các phần mềm
ứng dụng tin học, thường gồm 3 phần: ứng dụng chuyển đổi dữ liệu đầu vào; ứng
dụng phân tích rủi ro và ứng dụng truy tìm, khôi phục chứng từ điện tử.
1.2.2.3. Hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện theo một quy trình cụ thể
Quy trình hoá hoạt động thanh tra được hiểu là việc xây dựng và chuẩn hoá
trình tự thực hiện các bước công việc trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế và
trách nhiệm thực hiện các bước công việc đó của từng bộ phận, từng viên chức
tham gia quy trình.
Quy trình hoá hoạt động thanh tra, kiểm tra là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, hàng đầu của cơ quan thuế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
tra, kiểm tra, đáp ứng những yêu cầu trong điều kiện thực hiện cơ chế tự khai tự
nộp nói riêng và thực hiện đổi mới quản lý thuế nói chung.
1.2.2.4. Lực lượng thanh tra viên ngày càng chuyên môn hoá
Thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro đòi hỏi


23

cơ quan thuế phải tổ chức, sắp xếp và kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy thanh tra,
kiểm tra thuế. Đồng thời, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện đổi
mới quản lý thuế đòi hỏi thanh tra viên ngoài việc am hiểu sâu sắc chế độ kế
toán, pháp luật thuế còn phải có các kỹ năng về tin học, kỹ năng sắp xếp, phân
loại dữ liệu, phân tích, đánh giá rủi ro tạo điều kiện thuận lợi cho việc cập nhật
kịp thời các tiêu chí lựa chọn đối tượng thanh tra.
1.2.3. Sự cần thiết hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam
hiện nay
- Một là, xuất phát từ mục đích, yêu cầu của công tác thanh tra, kiểm
tra thuế:
Công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, ngăn

ngừa kịp thời những sai phạm và hướng dẫn những tổ chức, cá nhân nghiêm
chỉnh chấp hành chính sách thuế, đồng thời, xử lý nghiêm minh những hành vi
cố tình vi phạm chính sách, chế độ, pháp luật thuế, gây tổn thất tới lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân. Làm được như vậy mới có tác dụng giáo dục mọi
người chấp hành nghiêm kỷ cương pháp luật, tạo niềm tin cho nhân dân, tạo điều
kiện phát huy nhân tố tích cực, ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật thuế của cộng đồng và góp phần phòng ngừa, ngăn chặn
tình trạng trốn thuế, chống thất thu thuế góp phần hoàn thiện chính sách thuế,
tăng cường pháp chế XHCN.
- Hai là, xuất phát từ vai trò của thanh tra, kiểm tra thuế:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế không những giúp cho hoạt động quản lý
thuế đạt được các mục tiêu đã đề ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn
chế của chính sách, điều chỉnh kịp thời chính sách, chế độ về thuế, thông qua
phân tích, đánh giá thực trạng của công tác thanh tra, kiểm tra thuế để đánh giá
sự phù hợp và chưa phù hợp của cơ chế, chính sách, pháp luật và sự hoạt động
của bộ phận thanh tra, kiểm tra. Từ đó xem xét lại chức năng, nhiệm vụ, phương
pháp và tổ chức hoạt động của cơ quan thuế, hoạt động của thanh tra, kiểm tra
thuế, đồng thời, hoàn thiện chính sách cho phù hợp với tình hình và yêu cầu mới


24

nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đối với công tác thuế.
- Ba là, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí và ý thức
tuân thủ thuế của NNT ở nước ta hiện nay:
Điều kiện kinh tế xã hội là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến
quản lý thuế nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng. Cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hội nhập sâu rộng hiện nay thì hệ thống
luật pháp sẽ dần được hoàn thiện, cơ sở trang thiết bị vật chất kỹ thuật ngày càng
được hiện đại hoá và số lượng NNT không ngừng tăng lên nhanh chóng... Tất cả

những biến đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Việc có được một hệ thống pháp luật thuế đồng bộ, hoàn thiện, phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế đi vào khuôn khổ, đồng thời, nó cũng giúp cho NNT hiểu và
nghiêm túc thực hiện theo quy định của pháp luật. Thêm vào đó, việc được đầu tư
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại như: máy móc, thiết bị, hệ thống ứng dụng
tin học hiện đại tích hợp đầy đủ các thông tin về từng NNT nói riêng và các thông
tin ngành nói chung...cũng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế được tiến
hành thuận lợi, có tính chính xác và hiệu quả cao hơn. Số lượng NNT ngày càng
tăng sẽ là một thách thức không nhỏ đến công tác thanh tra, kiểm tra. Bởi cùng với
sự gia tăng về số lượng sẽ là sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp và các hình
thức kinh doanh, kèm theo đó là sự phức tạp, tinh vi hơn về thủ đoạn trốn, tránh,
gian lận thuế của NNT. Nếu không chuẩn bị cho mình một hành trang đầy đủ (pháp
lý, nhân lực, vật lực...), cơ quan quản lý thuế, nhất là bộ phận thanh tra, kiểm tra sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hiện và xử lý kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu
thuế, gây thất thu cho NSNN.
Trình độ dân trí càng cao, sự hiểu biết về pháp luật thuế cũng như ý thức tự
tuân thủ của NNT ngày càng được cải thiện. Bởi họ hiểu rõ quyền, lợi ích và
trách nhiệm của mình khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này
ảnh hưởng lớn tới hiệu quả các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế. Ngược lại, cũng vì
sự hiểu biết về pháp luật thuế mà khả năng, thủ đoạn trốn, tránh thuế của NNT


25

ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây khó khăn cho cán bộ thanh tra, kiểm tra
thuế trong việc phát hiện ra các gian lận, giảm hiệu quả của công tác thanh tra,
kiểm tra thuế.
- Bốn là, xuất phát từ đòi hỏi của công tác quản lý thuế trong điều kiện mới:
Thanh tra, kiểm tra thuế là một tổ chức thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ

Tài chính nên mang đặc điểm của Thanh tra tài chính. Tuy nhiên cũng có những
đặc điểm riêng khác với thanh tra chuyên ngành khác như: Thanh tra Hải quan,
thanh tra giá, thanh tra Kho bạc... ở chỗ: Thanh tra, kiểm tra thuế rất rộng về đối
tượng, phạm vi và lĩnh vực ngành nghề. Tất cả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh dịch vụ của các tổ chức và cá nhân trên mọi lĩnh vực, ngành nghề đều
chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế. Đặc điểm này chi phối trình độ chuyên
sâu, chuyên nghiệp của cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế; chi phối
phương pháp, kỹ năng, kỹ thuật thanh tra, kiểm tra thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế là hoạt động thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với
NNT. Đặc điểm này chi phối đạo đức nghề nghiệp, văn hoá ứng xử, tác phong
mẫu mực của cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Năm là, xuất phát từ thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra thuế hiện hành:
Nhận thức thanh tra, kiểm tra thuế là một chức năng quan trọng trong công
tác quản lý thuế. Vì vậy ngay từ khi thành lập, Tổng cục Thuế đã chú trọng xây
dựng hệ thống thanh tra, kiểm tra thuế trong phạm vi cả nước, từ Tổng cục Thuế
- Cục Thuế - Chi cục Thuế đều có bộ phận thanh tra thuế hoặc kiểm tra thuế
chuyên trách. Lực lượng thanh tra này ngày càng được tăng cường cả về số
lượng và nâng cao chất lượng.
Xây dựng và ngày càng hoàn thiện các quy trình thanh tra, kiểm tra thuế;
chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong toàn hệ thống; đã tăng cường phối
hợp với các cơ quan có liên quan như Quản lý thị trường, Hải quan, Kho bạc nhà
nước, các cơ quan Pháp luật để tổ chức thanh tra xử lý các vi phạm về thuế, thu
hồi tiền hoàn thuế bị gian lận.
Bên cạnh mặt tích cực nêu trên, công tác thanh tra, kiểm tra thuế còn một
số tồn tại và hạn chế cơ bản là:
Tình trạng gian lận về thuế còn khá phổ biến ở một số khoản thu, sắc thuế


×