ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
♣♣♣♣♣
HỌ VÀ TÊN
: PHÙNG THỊ NHƯ HOA
MÃ SINH VIÊN: 9024700213
NGÀY SINH
: 19/12/1974
NƠI SINH
: GIA ĐỊNH –SÀI GÒN
NGÀNH
: SƯ PHẠM MẪU GIÁO
HỆ ĐÀO TẠO :
5 NĂM
BÀI THU HOẠCH
VÀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Ngành sư phạm mẫu giáo
1
KHÓA HỌC : 2005 – 2010
Môc lôc
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I . Tên và địa chỉ trường đi thực tế
1. Trường mẫu giáo
2. Trường Mẫu Giáo Phước Lộc
II . Thời gian đi thực tế
III . Lý do chọn trường mầm non trên
1.Lý do chọn đề tài
a. Cơ sở lý luận
b. Cơ sở thực tiễn.
2.Mục đích nghiên cứu
B.PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1 : Cơ sở khoa học của đề tài
I.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
II.Khái quát vài nét về nghệ thuật múa
1.Khái niệm về nghệ thuật múa
2.Khái niệm về múa dân gian
3.Khái niệm về tính tích cực
III.Những vấn đề chung
1.Chức năng của nghệ thuật múa đối với sự phát triển con người
1.1 Chức năng giáo dục
1.2 Chức năng phản ánh xã hội
1.3 Chức năng định hướng thẩm mỹ và phát triển thẩm mỹ
1.4 Chức năng giải trí
2. Vai trò của nghệ thuật múa dân gian đối với xã hội
2
3.Vai trò của nghệ thuật múa dân gian đối với trẻ mẫu giáo lớn(5-6
tuổi)
3.1 Múa góp phần giáo dục thể chất cho trẻ
3.2 Múa góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
3.3 Múa góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ.
3.4 Múa góp phần giáo dục trí tuệ cho trẻ.
IV.Đặc điểm tâm sinh lý và khả năng hoạt động múa của trẻ mẫu
giáo lớn.
1.Đặc điểm tâm- sinh lý
2.Khả năng hoạt động múa của trẻ mẫu giáo lớn.
3.Một số dạng múa dân gian trong trường mầm non
Kết luận chương 1
Chương 2 : Đề xuất các nhiệm vụ ,giái pháp thực hiện vấn đề mà đề tài
triển khai.
I.Xây dựng một số biện pháp nâng cao tính tích cực của trẻ 5-6
tuổi trong hoạt động múa thông qua âm nhạc dân gian
2.Nội dung thực nghiệm.
C.PHẦN KẾT LUẬN
I .Kết luận
II .Đề xuất ,kiến nghị
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Tên trường và địa chỉ trường MG nơi thực tế:Trường MG Phước Lộc ,
khu phố 9 phường Phước Lộc Thị xã LaGi tỉnh Bình Thuận
II.Thời gian thực tế: 3 tuần
III.Lý do chọn trường MG trên: trường mầm non trên có đủ điều kiện cho
tôi học hỏi được nhiều điều,có thể giúp cho tôi hoàn thành bài viết của mình…
tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi vừa hoàn thành việc giảng dạy vừa hoàn
thành việc học tốt hơn
IV . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.Lý do chọn đề tài
a. Cơ sở lý luận
Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam có lưu giữ biết bao nhiêu
những giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại. Một trong những giá trị văn hoá có
sức trường tồn, có ảnh hưởng lớn và một trong những yếu tố quan trọng đóng
góp vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người toàn diện đó là văn
hóa múa.
Múa là một loại hình nghệ thuật biểu diễn mang tính tổng hợp khách
quan, đặc thù, phương tiện thể hiện bằng cơ thể con người. Ngôn ngữ biểu
hiện là động tác, dáng dấp, cử chỉ, hành động, điệu bộ, tư thế, đường nét
chuyển động trong âm nhạc, diễn ra trong không gian sân khấu và thời gian
được ấn định trước.
Nghệ thuật múa là dạng văn hóa phi vật thể hay còn gọi là nghệ thuật
của không gian và thời gian.
Mặc khác, ta lại thấy sự hiện diện của múa có trong tất cả các loại hình
hoạt động nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn học, vui chơi, sân khấu, điện
1
ảnh…Nhưng có lẽ với âm nhạc, nghệ thuật múa có mối quan hệ khăng khít
hơn cả bởi lẽ: “âm nhạc chính là âm hồn của múa và múa là hình ảnh cụ thể
hóa của âm nhạc”. Điều đặc biệt hơn nữa, khi nhìn lại lịch sử văn hóa truyền
thống của dân tộc ta, ngay từ thời thơ ấu, mỗi người trong chúng ta ai cũng đã
từng một lần được đắm mình trong những lời hát ru của bà, của mẹ, “ầu ơ…
hãy ngủ, ngủ đi con, hãy ngủ ngủ đi con, con hời là con hỡi…”. Âm nhạc dân
gian và múa dân gian tương đồng hòa đồng bởi nó được trường tồn trong lịch
sử dựng nước, giữ nước của dân tộc. Để song hành cho sự phát triển ấy, tại
sao chúng lại không để tâm tới giúp trẻ mầm non nói chung, trẻ mẫu giáo lớn
nói riêng, có thể phát huy được tính tích cực của mình trong hoạt động múa
thông qua âm nhạc dân gian góp phần bảo tồn và phát huy nét văn hóa truyền
thống của dân tộc.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ bộc lộ
rõ nét tính tích cực của mình trong mọi hoạt động, trẻ có nhu cầu cao trong
việc tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, chủ động, độc lập, tích cực, cố
gắng giải quyết những nhiệm vụ được giao, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Đây
thực sự là giai đoạn rất phù hợp để nâng cao tính tích cực của trẻ trong hoạt
động múa.
b. Cơ sở thực tiễn.
Tuy nhiên việc nhận thức về nghệ thuật múa, điều kiện cơ sở vật chất còn hạn
chế, cũng như sự gò ép bắt buộc về mặt thời gian cho tiết dạy: giáo viên vừa
phải bảo đảm cho trẻ vừa thuộc bài hát, vừa có thể vận động đúng theo nhạc
chỉ trong khoảng thời gian nhất định… thực tế hiện nay hoạt động múa dân
gian chưa được trẻ tiếp cận nhiều, một số giáo viên chưa thật sự hiểu biết giá
trị của hoạt động múa dân gian.
2
Ngoài ra, chương trình biên soạn những bài hát, những điệu múa cho trẻ
còn đơn điệu nghèo nàn theo mô típ quen thuộc mà chưa có hoạch định
chương trình cho từng lứa tuổi nên chưa tạo được sự hứng thú, kích thích
được tính tích cực của trẻ trong hoạt động múa thông qua giờ học âm nhạc,
đặc biệt là qua giờ học âm nhạc dân gian.
Mặc khác, âm nhạc dân gian chiếm vị trí không nhỏ trong chương trình
giáo dục âm nhạc dành cho lứa tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo
lớn.Tuy nhiên, trong thực tế, âm nhạc dân gian chỉ sử dụng để cho trẻ nghe và
hát nhưng sử dụng để cho trẻ múa thì chưa nhiều…Do vậy, để nâng cao tính
tích cực của trẻ trong hoạt động múa thông qua âm nhạc dân gian cần phải có
những nghiên cứu đề xuất ra các biện pháp phong phú, phù hợp, nhằm khơi
gợi tiềm năng hứng thú hoạt động múa của trẻ.
Chính vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là: “Một
số biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực của trẻ 5 đến 6 tuổi trong hoạt
động múa thông qua âm nhạc dân gian”.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực
của trẻ mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi) trong hoạt động múa thông qua âm nhạc dân
gian. Qua đó, giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu hoạt động múa, nâng cao nâng cao
năng lực cảm thụ nghệ thuật múa của trẻ đồng thời khơi dậy ở trẻ lòng mong
muốn tham gia, chủ động sáng tạo trong hoạt động múa. Từ đó hình thành ở
trẻ được làm quen và hiểu hơn về nền âm nhạc dân gian, hình thành ở trẻ lòng
mong muốn giữ gìn và bảo vệ nét đẹp văn hóa dân tộc – một phẩm chất nhân
cách quan trọng, cần cho trẻ trong thời đại hội nhập sau này.
B.PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
3
I.VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Giáo dục mầm non là một mắc xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân chịu trách nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ thơ từ 0-6 tuổi. Đây là
giai đoạn đặt nền móng đầu tiên và có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc chăm sóc, giáo dục trẻ
trong những năm đầu thì sau này việc giáo dục sẽ gặp hết sức khó khăn và
phức tạp.
Các vấn đề về lý luận, dạy học và việc phát huy tính tích cực nhận thức
của trẻ đã được nghiên cứu qua công trình: J.A.Comenxki, JJ.Rutxo,
KD.Usinxki, L.X.Vưgôxki…các công trình nghiên cứu đã khẳng định tầm
quan trọng đặc biệt của việc phát huy tính tích cực của trẻ trong học tập.
Cômenxki (thế kỷ VIII) nói: “giáo dục có mục đích đánh thức chức
năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách…hãy tìm ra
những biện pháp để phát huy tính tích cực của người học và cho phép giáo
viên dạy ít hơn học sinh học nhiều hơn.[67].
Theo L.X.Vưgốtxki, tính tích cực độc lập, sáng tạo của trẻ chỉ xuất hiện
từ những hứng thú của trẻ.V.B.Kominxkaia cùng đồng nghiệp đã nêu lên
mối liên hệ, quan hệ chặt chẽ giữa tính tích cực nhận thức và dạy học tính
tích cực của trẻ phụ thuộc vào mức độ hiểu biết, hiểu về thế giới xung
quanh bao nhiêu và càng nắm vững kỹ năng, kỹ xảo bao nhiêu thì càng
tích cực và chủ động sáng tạo trong hoạt động nhận thức bấy nhiêu.
Vấn đề phát huy tính tích cực của trẻ cũng được nhiều nhà khoa học
Việt Nam quan tâm nghiên cứu như: Đặng Vũ Hoạt, Hồ Ngọc Đại, Thái
Duy Tuyên…
4
PGS-TS Phạm Viết Vượng nhấn mạnh lấy người học là trung tâm là
một quan điểm giáo dục, tổ chức quá trình dạy học theo tin thần vì học sinh
và bởi học sinh, phương pháp giáo dục tích cực xuất phát từ quan điểm lấy
người học là trung tâm [66-trang 5].
Trong những năm gần đây, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào
tạo và đổi mới phương pháp dạy học, các cán bộ nghiên cứu, các giảng
viên ở trường sư phạm, các cán bộ chỉ đạo…đã đi sâu, nghiên cứu và đưa
ra nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao chất lượng dạy múa ở trường
mầm non, đưa ra các loại chương trình chăm sóc- giáo dục cho trẻ lứa tuổi
mầm non. Trong đó, chương trình dạy múa cho trẻ luôn có sự chỉnh lý,
thiết kế phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội.
Tôi mong rằng với kết quả nghiên cứu thực trạng và một số biện pháp
nâng cao tính tích cực của trẻ trong luận văn này sẽ góp một phần công sức
nhỏ bé của mình để nâng cao chất lượng hoạt động múa cho trẻ 5-6 tuổi ở
Trường mầm non.
II.KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT MÚA
1- Khái niệm về nghệ thuật múa:
Nghệ thuật múa là một loại hình nghệ thuật biểu diễn mang tính tổng
hợp khách quan đặc thù, phương tiện thể hiện bằng cơ thể con người. Ngôn
ngữ biểu hiện là động tác, dáng dấp, cử chỉ, hành động, điệu bộ, tư thế, đường
nét chuyển động trong âm nhạc. Diễn ra trong không gian sân khấu và thời
gian được ấn định trước.
2. Khái niệm về múa dân gian:
Múa dân gian là một hình thái của nghệ thuật múa. Nó xuất hiện ở tất cả
các thời kỳ phát triển của xã hội loài người: Từ thời kỳ nguyên thủy- thời kỳ
5
bộ lạc- thời kỳ nhà nước.Có thể nói, múa dân gian ra đời cùng với sự hình
thành và phát triển xã hội loài người.
Múa dân gian mang tính chất riêng của từng vùng, dân tộc, từng đất
nước.
3- Khái niệm về tính tích cực:
Khi bàn về tính tích cực P.Ăngghen cho rằng: “Tính tích cực là đặc
điểm chung của mọi sinh vật sống, là sự vận động của sinh vật sống. Tính tích
cực không những là nguồn gốc duy trì hay biến đổi các mối quan hệ có ý
nghĩa sống còn của sinh vật sống với thế giới xung quanh mà còn mang đến
cho sinh vật sống khả năng tự điều chỉnh thích nghi với thế giới xung quanh
ấy”.
Dưới góc độ triết học, tính tích cực có nguồn gốc bên trong và bên
ngoài, trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò quyết định, tính tích cực là một
đặc tính của sinh vật sống luôn luôn vận động và phát triển.Tính tích cực
chính là thái độ cải tạo và biến đổi của chủ thể với khách thể vì nó có vai trò
quan trọng đối với hiện thực xung quanh, có thể làm biến đổi và cải tạo nó.
Dưới góc độ tâm lý học tính tích cực gắn liền với hoạt động, với hoạt
động bên trong của cơ thể, nó bao hàm tính chủ thể, tính chủ định, có ý thức
của chủ thể, nó thể hiện ổn định của hoạt động, thể hiện ý chí và tính độc lập
cơ thể với môi trường bên ngoài.
Như vậy, các quan điểm đều đề cập đến tính tích cực thống nhất tính
tích cực với nhau ở việc cho rằng:
Tính tích cực gắn liền với hoạt động, với phong thái hoạt động của chủ thể.
Tính tích cực bao hàm tính chủ động, tính chủ động có ý thức của chủ thể
nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển.
6
III.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Chức năng của nghệ thuật múa đối với sự phát triển con người
1.1- Chức năng giáo dục
Nghệ thuật múa nói chung, tác phẩm múa nói riêng tồn tại và phát triển
không chỉ đem lại cho con người những cái đẹp, cảm xúc, tình cảm mà luôn
gắn liền với giáo dục. Múa cảm hóa con người, thúc đẩy con người tới “Chân,
Thiện, Mỹ”.
1.2- Chức năng phản ánh xã hội
Thông qua nghệ thuật múa, mọi hoạt động, lao động thể hiện một cách
đầy đủ, khái quát hay chi tiết phản ánh bóng dáng của cuộc sống. Nó như tấm
gương phản chiếu, phản ánh hiện thực với sự chọn lọc nhào nặn, sáng tạo của
người nghệ sĩ. Qua thưởng thức nghệ thuật, người xem tự nhận thức vận dụng
vào cuộc sống. Như vậy, việc phản ánh trên đồng thời góp phần cải tạo xã hội
một cách tinh tế và sâu sắc.
1.3- Chức năng định hướng thẫm mỹ và phát triển thẩm mỹ
Nghệ thuật múa là loại hình nghệ thuật mang tính nguyên hợp. Các
thành tố nghệ thuật biểu diễn luôn hướng tới cái đẹp, cái đẹp khỏe khoắn và
thanh khiết, sự lành mạnh trong thể hiện nghệ thuật múa hướng con người
vươn đến cái đẹp.
Nghệ thuật múa giúp con người có thể tự điều chình hành vi, hành
động. Có cảm giác cảm nhận ý thức hoàn thiện dần bản thân để hòa nhập với
cái đẹp của xã hội một cách hoàn thiện và hoàn mỹ.
1.4-Chức năng giải trí
7
Khi con người có những cảm xúc không nói ra bằng lời, hoặc ngôn từ
không đủ để diễn đạt thì người ta múa. Múa là biểu hiện của một hành vi, thái
độ, cử chỉ nên không có những động tác vô hồn khi được thẩm định đúng
ngôn ngữ của loại hình nghệ thuật múa.
2.Vai trò của nghệ thuật múa dân gian đối với xã hội
Nghệ thuật múa đem lại cái đẹp và phản ánh cuộc sống muôn màu
muôn vẻ của con người.Trong nghệ thuật múa, mọi hoạt động, lao động thể
hiện một cách đầy đủ, khái quát, hay chi tiết cho ta thấy bóng dáng của cuộc
sống.
Nó như tấm gương phản chiếu, phản ánh hiện thực với sự chọn lọc,
nhào nặn sáng tạo của nghệ sĩ.Qua thưởng thức nghệ thuật múa người xem tự
nhận thức vận dụng vào cuộc sống. Như vậy việc phản ánh trên đồng thời góp
phần cải tạo xã hội một cách tinh tế và sâu sắc.
Mục tiêu của nghệ thuật múa là hướng tới chân- thiện- mĩ. Nhờ nghệ
thuật múa, con người có thể tự điều chỉnh hành vi, có ý thức hoàn thiện dần
bản thân để hòa nhập với cái đẹp của xã hội một cách hoàn thiện, hoàn mĩ.
3.Vai trò của nghệ thuật múa dân gian đối với trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi)
3.1- Múa góp phần giáo dục thể chất cho trẻ
Vận động múa có ảnh hưởng đến sự hoàn thiện của cơ thể trẻ trước hết,
khi múa trên nền nhạc thì khả năng phát triển tốt nhất là phải nghe.Tính chất
đa dạng của âm nhạc gợi ra những phản ứng vận động của cơ thể (thay đổi
nhịp tim, mạch, sự tuần hoàn máu, hô hấp và giãn nở cơ…).Từ đó góp phần
sửa chữa khuyết tật, tư thế xấu, khắc phục sự vụng về trong vận động.
8
Trong khi múa trẻ không những phối hợp những động tác đi lại vững
vàng, chạy nhảy nhẹ nhàng mà còn làm được những động tác khó của chân,
tay, đầu, lưng, tai…một cách chính xác và nhịp nhàng.
3.2- Múa góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
Nghệ thuật múa mang lại cho trẻ một thế giới kỳ diệu không ngừng
chuyển động, tràn đầy niềm vui.Từ đó gợi cho trẻ có cái nhìn thẩm mỹ, phát
triển ở trẻ khả năng cảm thụ lĩnh hội và hiểu cái đẹp, phát triển được cái tốt,
cái xấu. Khi trẻ múa, trẻ cảm thấy cái đẹp trong động tác của mình, hình thể
của mình, của bạn.
Múa giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, có ý thức hoàn thiện dần bản thân
để hòa nhập với cái đẹp của xã hội một cách hoàn thiện, hoàn mĩ.
3.3- Múa góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ
Qua quá trình tập luyện, biểu diễn với nhau thì “xã hội trẻ em” được
hình thành. Bản thân tác phẩm mang trong mình một tình cảm, một nội dung.
Khi trẻ múa là trẻ nhập tâm, sống trong tác phẩm đó, chính lúc ấy trẻ gần nhau
hơn, cùng chung cảm xúc, đồng cảm và quan tâm đến nhau.
Niềm vui sự phấn khởi chung trong khi múa còn giúp trẻ tự tin, trở nên
mạnh dạn hơn trong khi hoạt động. Hoạt động múa với sự thay đổi tính chất
âm nhạc, đòi hỏi sự tập trung để thay đổi đội hình, động tác cho phù hợp. Từ
đó, rèn cho trẻ phẩm chất đạo đức như: ý chí, nghị lực, ghi nhớ.
3.4-Múa góp phần giáo dục trí tuệ cho trẻ
Hoạt động múa góp phần thúc đẩy sự cảm nhận âm nhạc điều chỉnh
động tác múa.Vì vậy nó gắn chặt với việc phát triển trí tuệ của trẻ, buộc trẻ
phải chú ý quan sát khi múa. Múa và âm nhạc là phương tiện thúc đẩy sự cảm
nhận về một nền văn hóa cao gọi là nghệ thuật. Để thực hiện những động tác
9
di chuyển đội hình theo đúng âm nhạc thì buộc trẻ phải ghi nhớ có chủ định…
trẻ phải lắng nghe, ghi nhớ, đặc điểm tính chất, cường độ, âm thanh, tiết tấu,
nhịp điệu để phối hợp động tác sao cho phù hợp. Do đó, trẻ phát triển tư duy
bằng hình tượng để diễn đạt dáng dấp, tư thế của “vai” trẻ đang thể hiện.
IV.ĐẶC ĐIỂM TÂM SINH LÝ VÀ KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG MÚA
CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN
1-Đặc điểm tâm – sinh lý
* Đặc điểm tâm lý: Các quá trình của trẻ ở lứa tuổi này được hoàn thiện, khả
năng chú ý tăng, trẻ hiểu được nhiệm vụ của mình, có thể khái quát hóa một
số hiện tượng và nhanh nhẹn nhận thấy những yêu cầu chính trong khi thực
hiện vận động. Do đó, phải tăng dần yêu cầu đối với trẻ giúp trẻ hoàn thiện
vận động, sử dụng nhiều phương pháp dạy khác nhau để giúp trẻ thực hiện
động tác một cách có ý thức và đạt kết quả tốt hơn.
*Đặc điểm sinh lý: Ở trẻ quá trình hưng phấn ức chế chưa cân bằng, sự hưng
phấn mạnh hơn ức chế. Do đó, vân động quá sức kéo dài thời gian vận động
thì sẽ làm cho trẻ mệt mỏi.
Hệ thần kinh có tác dụng chi phối và điều tiết tốt đối với vận động cơ
thể, vì vậy hoạt động vận động của trẻ có hai tác dụng: Thúc đẩy sự phát triển
công năng của tổ chức cơ bắp và phát triển công năng hệ thần kinh.
Bên cạnh tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh còn phát triển
thêm một kiểu tư duy trực quan sơ đồ, giúp trẻ phản ánh tốt những hình tượng
nghệ thuật và khả năng tiếp nhận những lĩnh vực khó như nghệ thuật múa
cũng dễ dàng hơn.
Hệ vận động: hệ xương của trẻ chưa hoàn toàn cốt hóa, có nhiều sụn xương,
dễ bẻ gãy, cong. Vận động cơ thể hợp lý có thể làm cho hình thái cấu trúc
10
xương biến đổi tốt như: thành xương dày lên, đường kính to ra, chống cong
vẹo, chống gãy xương.
2.Khả năng hoạt động múa của trẻ mẫu giáo lớn
Trẻ 5-6 tuổi có khả năng thực hiện tốt các hoạt động múa cơ bản, trẻ
biết chuyển động nhịp nhàng theo tính chất âm nhạc, thay đổi bước chuyển
động theo điệu nhạc, từ tốc độ nhịp nhàng có thể chuyển sang tốc độ nhanh
hoặc chậm, thực hiện các động tác nhảy múa chuyển động từng đổi, thứ tự
từng bước chân nhảy lên phái trước, nhảy gập gối, đi nhịp nhàng, chạy nhẹ
nhàng, nhảy mềm tại chỗ. Trẻ vận động theo vòng tròn, vận động hàng ngang
đúng, đẹp, diễn cảm các động tác quy định, bước đầu nghĩ được các động tác
riêng, phối hợp nhịp nhàng toàn thân với động tác tay và chân. Trạng thái tình
cảm cũng thể hiện khá tốt trong khi thể hiện.
3. Một số dạng Múa dân gian trong trường mầm non
3.1- Múa biểu diễn dân tộc
3.2- Múa minh họa
3.3- Múa sinh hoạt lễ hội
3.4- Múa – Hoạt cảnh múa
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh có lịch sử phát triển lâu dài.
Tính tích cực là phẩm chất quan trọng của nhân cách, là thái độ biến đổi
của chủ thể với thế giới xung quanh tính tích cực gắn liền với hoạt động, là
thuộc tính của sự tự vận động của hoạt động.
Tính tích cực của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động múa thông qua âm nhạc
dân gian là một phẩm chất tâm lý cá nhân của trẻ được thể hiện trong hoạt
11
động múa thông qua âm nhạc dân gian. Đó là thái độ ham muốn tìm hiểu
khám phá về hoạt động múa, trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo, giải quyết các
nhiệm vụ nhận thức với sự huy động ở mức cao các chức năng tâm lý đặc biệt
là các chức năng tư duy, tính tích cực góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận
thức và nhân cách của trẻ.
Chương 2 : Đề xuất các nhiệm vụ ,giái pháp thực hiện vấn đề mà đề tài
triển khai.
I. Xây dựng một số biện pháp nâng cao tính tích cực của trẻ 5 -6 tuổi
trong hoạt động múa thông qua âm nhạc dân gian.
1.Biện pháp 1: giới thiệu cho trẻ xem trang phục và đạo cụ của một số
dân tộc (kinh, Tày, Thái, Mường).
* Mục tiêu và ý nghĩa:
Việc giới thiệu cho trẻ xem trang phục và đạo cụ của một số dân tộc
(Kinh, Tày, Thái, Mường) nhằm giúp trẻ có những hiểu biết thêm về nền văn
hóa của một số dân tộc Việc Nam qua phong tục và đạo cụ của họ. Đồng thời,
khơi gợi ở trẻ những cảm xúc, tình cảm, lòng tự hào về nét đẹp dân tộc mình,
kích thích trí tò mò, ham hiểu biết của trẻ.
*Yêu cầu:
Việc giới thiệu cho trẻ xem trang phục và đạo cụ của một số dân tộc đòi
hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết chính xác về trang phục và đạo cụ
của dân tộc đó.
Không những giáo viên phải giới thiệu cho trẻ những hiểu biết cơ bản về
trang phục và đạo cụ, mà còn phải khơi gợi được ở trẻ tính cộng đồng, tinh
thần đoàn kết thống nhất các dân tộc Việt Nam.
12
Đồng thời phải kích thích được tính chủ động, tích cực khám phá trẻ đối
với việc sử dụng các trang phục và đạo cụ của các dân tộc đó trong hoạt động
múa.
*Nội dung:
Tổ chức cho trẻ xem trang phục và đạo cụ của một số dân tộc dưới nhiều hình
thức khác nhau như trong tiếc học, đi tham quan, viện bảo tàng, xem thời
trang…
* Cách tiến hành:
- Giáo viên xác định mục tiêu của buổi giới thiệu:
- Tạo môi trường hoạt động (địa điểm: Trong lớp, viện bảo tàng…) và lựa
chọn thời điểm thích hợp.
- Cách thức tiến hành theo 3 bước:
+ Bước 1: Cô tạo hứng thú cho trẻ trước khi vào xem bằng cách tạo tình
huống có vấn đề, bằng câu đố bằng trò chơi…
+ Bước 2: Cô cho trẻ tự quan sát và tự nói lên những điều mà trẻ đã biết về
trang phục và đạo cụ đó.
+ Bước 3: Cô giới thiệu về các trang phục và đạo cụ đó cho cả lớp cùng xem.
Sau đó, cô đàm thoại với trẻ: đây là trang phục đạo cụ của dân tộc gì? Bạn
nào biết? Tại sao con biết?
+ Cô chú ý kích thích tính tích cực trong quá trình quan sát
+ Cô hướng sự tò mò của trẻ đến viếc sử dụng các trang phục và đạo cụ đó
trong hoạt động múa dân gian của các dân tộc.
Ví dụ: Các con đã được nhìn thấy trang phục và đạo cụ này ở đâu?
13
À, Cô đã được nhìn thấy việc sử dụng trang phục và đạo cụ này để hoạt động
múa đấy! Ai đã được nhìn thấy giống như cô?
Chúng mình thấy việc mặc trang phục và sử dụng đạo cụ này khi múa có đẹp
không? có hay không?
* Điều kiện vận dụng:
- Dưới sự hướng dẫn có chủ đích của giáo viên
- Có môi trường cho trẻ được xem
- Lựa chọn một số trang phục và đạo cụ của một số dân tộc điển hình gần gũi
với trẻ.
Trang phục váy áo tứ thân Dân tộc kinh
khèn gọi bàn
14
Rộn ràng tiếng
Trang phục dân tộc Tày: Đạo cụ Đàn Tính
Trang phục dân tộc
Thái
Trang phục: “Áo bà ba, áo dài nón
Huế”
2. Biện pháp 2: Cho trẻ nghe một số bài hát dân gian
* Mục tiêu và ý nghĩa:
Việc cho trẻ nghe một số bài hát dân gian nhằm mục đích:
+ T rẻ biết thêm về một số bài hát dân gian
+ Kích thích sự hào hứng chăm chú, lắng nghe của trẻ
+ Trẻ biết bộc lộ cảm xúc qua động tác, nét mặt
15
+ Trẻ có những hiểu biết về con người, tự nhiên… những nét đẹp của văn hóa
các dân tộc Việt Nam, qua nội dung bài ca, đồng thời kích thích sự hứng thú
muốn học thuộc bài hát và vận động múa theo lời bái hát. Trẻ thể hiện lòng
mong muốn giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống của dân tộc.
*Yêu cầu:
- Lựa chọn những bài hát dân gian (dân ca, đồng dao) có nội dung, tiết tấu phù
hợp với lứa tuổi trẻ.
- Những bài hát có thể biên đạo múa được.
- Kích thích trẻ lắng nghe, và bộc lộ cảm xúc của mình qua động tác, nét mặt.
+ Giáo viên phải giúp trẻ nắm được tính chất âm nhạc, nội dung bài hát
+ Kích thích được tính tích cực hoạt động múa của trẻ
* Nội dung:
Tổ chức cho trẻ nghe một bài hát dân gian: dân ca, đồng dao.
Ví dụ: dân ca: Trống cơm, Inh lả lơi, Xe chỉ luồn kim…
Đồng dao như: Rềnh rềnh ràng ràng, Ba bà đi bán lợn con…
- Tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: trên tiết học chuyên biệt (âm nhạc),
hoạt động vui chơi, hoạt động tạo hình…
Cách thức tiến hành
Bước 1: Chuẩn bị cho trẻ nghe
Dẫn dắt trẻ nghe nhạc bằng cách dùng lời lẽ hấp dẫn sinh động để giới
thiệu qua hình tượng âm nhạc, tên tác giả tác phẩm. Dựa vào lời ca khơi gợi
sự tượng tưởng của trẻ.
16
Ví dụ: - Có một bài hát nói về mùa xuân ở rừng núi Tây Bắc rất là đẹp chúng
mình có muốn cô hát tặng mình không?
- Hay,“các con hãy lắng nghe xem bài hát cô hát nói về cái gì nào?
- Hoặc,“các con hãy nghe cô hát và thử đặt tên cho bài hát này nhé?”.
Bước 2: Hát cho trẻ nghe
Cô hát- trẻ nghe là hai hoạt động ứng đối trực tiếp qua lại lẫn nhau.
- Giáo viên cần hát diễn cảm và những gì liên quan diễn trước trẻ như diễn đạt
cảm xúc, sự trang trọng hay âu yếm. Bằng hoạt động trực tiếp sáng tạo cô biểu
hiện một cách sống động nội dung bài hát, có thể thêm hóa trang, động tác với
hình tượng âm nhạc để tác động mạnh mẽ đến xúc cảm và nhận thức thẩm mỹ
của trẻ.
- Cần tập cho trẻ biểu lộ cảm xúc khi nghe:
+Háo hứng, chăm chú lắng nghe
+Bộc lộ cảm xúc qua động tác, nét mặt
+Vỗ tay cám ơn sau khi nghe
Bước 3: Củng cố ấn tượng ghi nhớ tác phẩm
- Giáo viên trò chuyện với trẻ về tác phẩm tính chất giai điệu tiết tấu, lời ca.
Có thể dùng biện pháp so sánh, đặt câu hỏi giúp trẻ nhớ lại bài hát, nhận ra
những nét đặc trưng của bài ca đã hát.
- Sau khi nghe giáo viên hỏi trẻ tên bài hát, tên tác giả, cũng có thể đặt tên cho
bài hát. Hỏi trẻ về tính chất âm nhạc êm dịu, hãy sôi nổi, vui vẻ hay êm ái…
Cô có thể hát lại để trẻ nghe, kiểm nhận lại, khắc sâu thêm.
17
- Với từng tác phẩm khác nhau, nội dung hình thức nghe nhạc trong từng tiết
học khác nhau: cần sử dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp cho phù hợp với
đối tượng trẻ và yêu cầu đặt ra.
* Điều kiện vận dụng
Hiệu quả của tiết dạy trẻ nghe nhạc phụ thuộc vào sự chuẩn bị của giáo
viên như lựa chọn phương pháp giới thiệu, trình diễn phù hợp.
* Giáo viên cần phải:
- Nắm được tính chất, phong cách chung của bài hát, từ đó xác định sắc thái
tình cảm, đặc điểm lời ca, giai điệu.
- Học thuộc bài hát, hát nhuần nhuyễn kết hợp nét mặt, điệu bộ phù hợp.
- Nếu sử dụng nhạc cụ phải phối hợp tốt với phần nhạc, thu bộ nhớ, tìm âm
sắc (voice) thích hợp.
- Xác định yêu cầu đối với tiết học và đặc điểm của từng đối tượng trẻ.
- Chuẩn bị hóa trang, đạo cụ của cô và trẻ.
3.Biện pháp 3: Dạy trẻ một số chất liệu động tác múa dân gian cơ bản
* Mục tiêu, ý nghĩa:
- Việc dạy cho trẻ một số chất liệu múa dân gian cơ bản nhằm mục đích và ý
nghĩa:
+ Trẻ nắm được các vị trí, cơ bản của tay, của chân
+Trẻ nắm được các động tác cơ bản của múa đồng bằng, múa dân tộc Tày,
múa dân tộc Thái…
+Trẻ biết kết hợp các động tác múa đó thành kết cấu tổ hợp động tác múa
+ Trẻ biết thực hiện theo đúng tính chất âm nhạc dân gian.
18
* Yêu cầu:
- Giáo viên phải nắm chắc vị trí, các động tác của từng dân tộc từng vùng
- Giáo viên phải làm mẫu chuẩn và tập chính xác, đẹp đúng tính chất âm
nhạc.
- Giáo viên phải kích thích được tính hứng thú, tính tích cực hoạt động múa
của trẻ.
- Chuẩn bị phòng học, trang thiết bị, đạo cụ cho việc học múa.
* Nội dung:
- Lựa chọn, một số động tác trong hệ thống chất liệu múa dân gian cơ bản, đặc
trưng gần gũi với trẻ, không quá khó để trẻ có thể thực hiên được.
- Nội dung tập luyện phù hợp với khả năng hoạt động múa của trẻ.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên tạo hứng thú cho trẻ trước khi dạy trẻ một số chất liệu động tác
múa dân gian cơ bản bằng những lời lẽ hấp dẫn, tình huống phù hợp…
* Cô giới thiệu bài tập:
* Giáo viên làm mẫu cho trẻ xem
+ Lần 1: không phân tích
+ Lần 2:Làm mẫu chậm + phân tích
+Lần 3: Làm chậm.
* Giáo viên cho trẻ tập luyện, bao quát cho trẻ kịp thời.
* Củng cố, ôn luyện bằng cách cho trẻ luyện tập sau đó cô đàm thoại với trẻ
để trẻ khắc sâu ghi nhớ các động tác.
19
* Điều kiện vận dụng:
- Có sự hướng dẫn có chủ đích của giáo viên
- Nắm được khả năng hoạt động múa của trẻ
- Số lượng trẻ trong từng lớp không quá đông để cô có thể quan sát được từng
cá nhân.
-Không gian lớp học phù hợp với hoạt động múa.
Múa “Cái bống”
Múa “Trống cơm”
20
Hát “ Ba bà đi bán lợn con
4.Biện pháp 4: Cho trẻ xem một số tiết mục múa dân gian
* Mục tiêu ý nghĩa:
Việc cho trẻ xem một số tiết mục múa dân gian, nhằm khơi gợi ở trẻ sự
hứng thú đối với hoạt động múa của trẻ.
Trẻ nhận biết được các động tác múa mà mình đã học được sử dụng
trong các bài múa này. Đồng thời, trẻ biết thêm một số vận động múa mới của
một số vùng, dân tộc.
Trẻ có nhu cầu mong muốn hoạt động múa, thể hiện sự hứng thú của
mình qua hành động vận động bắt chước, qua cử chỉ, nét mặt và hát theo.
*Yêu cầu:
- Lựa chọn các bài múa dân gian phù hợp với lứa tuổi trẻ.
- Các bài múa đặc sắc, trên nền nhạc dân gian chuẩn: vui tươi êm dịu.
* Cách thức tiến hành:
- Giáo viên tạo hứng thú trước khi cho trẻ xem các bài múa dân gian.
- Giáo viên tổ chức cho trẻ xem dưới nhiều hình thức (trên tiết học, xem biểu
diễn ở cung thiếu nhi…)
- Giáo viên đàm thoại với trẻ chú ý khơi gơi để trẻ nói lên những hiểu biết của
mình về các bài múa đó (bài múa của dân tộc kinh vì con thấy bạn ấy mặc áo
tứ thân, đeo trống và có sử dụng động tác mõ mời ạ!...)
* Điều kiện vận dụng:
21
- Tùy theo điều kiện từng trường, từng lớp ta sẽ tổ chức cho trẻ xem sao cho
phù hợp.
- Trẻ có những hiểu biết cơ bản về các chất liệu múa dân gian, hiểu biết về
trang phục, đạo cụ, tính chất âm nhạc của vùng, miền, dân tộc.
5.Biện pháp 5: Lựa chọn một số bài hát dân gian (dân ca, đồng dao…) có
thể biên đạo múa được phù hợp với lứa tuổi trẻ.
* Mục tiêu và ý nghĩa:
- Việc lựa chọn một số bài hát dân gian phù hợp với lứa tuổi trẻ có thể biên
đạo múa được góp phần làm phong phú thêm kho tàng những bài múa dân
gian dành cho trẻ mầm non.
- Trẻ biết thêm một số bài hát dân gian, khơi gợi sự hứng thú tích cực của trẻ
đến với hoạt động múa dân gian.
- Phát triển khả năng múa của trẻ
* Yêu cầu:
- Lựa chọn những bài múa phù hợp với lứa tuổi trẻ
- Các động tác múa gần gũi, trẻ dễ thực hiện
- Âm nhạc chuẩn, rõ ràng và phù hợp với động tác múa.
* Nội dung:
- Lựa chọn những bài hát dân gian có nội dung đơn giản, dễ hiểu, tính chất âm
nhạc vui tươi, hồn nhiên phù hợp với lứa tuổi trẻ thơ.
Ví dụ: bài hát dân ca Đồng Bằng bắc Bộ: Trống cơm…
Dân ca Thái: In lả ơi, múa đàn
Đồng dao: Ba bà đi bán lợn con
22