Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn người trong bao sê khốp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.02 KB, 47 trang )

Sáng ki ế
n kinh nghi ệ
m môn v ă
n
Tên đề tài :
TIẾP CẬN NGƯỜI TRONG BAO TỪ GÓC ĐỘ CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
VÀ CHỦ ĐỀ TÁC PHẨM
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài: 1
2. Mục đích của đề tài: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:: 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu: 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu: 3
4. Phương pháp và thời gian nghiên cứu
4.1 Phương pháp nghiên cứu
4.2 Thời gian nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG.. 4
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN.. 5
1. Khái niệm và vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn
học
2. Khái niệm và hệ thống của chủ đề trong tác phẩm văn học
Chương II. C ÁCH THỨC TIẾP CẬN NGƯỜI TRONG BAO TỪ GÓC
ĐỘ CHI TIẾT NGHỆ THUẬT VÀ CHỦ ĐỀ TÁC PHẨM
2.1 Tiếp cận tác phẩm Người trong bao từ góc độ chi tiết nghệ thuật
2.2 Tiếp cận tác phẩm từ góc độ chủ đề
Chương III. THỰC NGHIỆM ĐỀ TÀI 20


3. 1 Giáo án
3.2 Kết quả thực nghiệm


PHẦN KẾT LUẬN..
TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 27
PHÂN
̀ MỞ ĐÂU
̀
1. Lí do chọn đềtaì
Những tinh hoa văn học thế giới là di sản tinh thần quý giá chung của
cả nhân loại và là bộ phận không thể thiếu trong hành trang văn hóa
của con người hiện đại. Trong ba năm học ở bậc THPT, các em sẽ
được tìm hiểu các tác phẩm của một số nhà văn lỗi lạc tiêu biểu của
các nước trên Thế giới , các trường phái văn học tiêu biểu của loài
người trong khoảng ba nghìn năm.
Một trong số những nước đó là chính là n ước Nga. Văn hóa Việt
Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Nga khá mạnh mẽ, tuy mỗi giai
đoạn lịch sử có sự tiếp nhận theo những xu hướng khác nhau. S ự
giao lưu này diễn ra ở nhiều lĩnh vực v ới các hình th ức và nội dung
đa dạng: văn học, điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật, giáo dục, đào tạo,
xuất bản…
Về văn học thì từ sau Cách mạng tháng Tám, các tác phẩm văn học
Nga bắt đầu được giới thiệu rất rộng rãi ở Việt Nam. Chỉ tính riêng t ừ
năm 1945 đến năm 1987 đã có 903 đầu sách văn học Nga và Xô viết
được dịch và giới thiệu ở Việt Nam. Nhờ vậy đông đảo độc giả trong
nướ c đã được thưởng thức các tác phẩm văn học kinh điển Nga,
cũng như các kiệt tác văn học của các dân tộc khác trong Liên bang
Xôviết. Nhiều đại văn hào và thi hào Nga như L.Tolstoi, Dostoievski,


Puskin, Lermontov, Trekhov, Gogol, Solokhov, Paustovski, Sekhov…
cũng như các nhà văn người dân tộc: Aimatov, Dumbadze,
Gamzatov… đã trở nên quen thuộc với công chúng Việt Nam. Văn học

Nga – Xô viết đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu,
giúp độc giả Việt Nam cảm nhận và ngưỡng mộ vẻ đẹp của đất nước
Nga, tâm hồn Nga, tính cách Nga. Kinh nghiệm của văn học Nga –
Xô viết có ảnh hưởng quan trọng đến quan điểm thẩm mỹ và khuynh
hướ ng sáng tác của nhiều nhà văn Việt Nam. Thật không khó để
nhận ra sự gặp gỡ, tương đồng trong tư tưởng của 2 nhà văn hiện
thực nổi tiếng của hai nền văn học Việt nam và Nga đó là Sê khốp và
Nam cao.

Thực tế nếu chúng ta quan tâm tìm hiểu thì không quá khó để tìm rất
nhiều những điểm giao thoa thú vị giữa hai nền văn học này. Đó là
sự giao thoa về thi pháp viết truyện ngắn: đề tài phản ánh, chủ đề tác
phẩm, cách xây dựng cốt truyện, tình huốn truyện và cả nh ững chi
tiết đặc sắc gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Thế nhưng
một thực tế cho thấy rằng dù trong chương trình sách giáo khoa Ng ữ
văn THPT đã đưa vào giảng dạy khá nhiều tác phẩm văn học nước
ngoài nổi tiếng: Sử thi Ô-đi-xê, Kịch Rô-mê-ô và Ju-li-et, Nh ững
người khốn khổ của Vich-to-Huy-gô, Người trong bao của Sê-khôp…
Nhưng sự quan tâm của chúng ta đến nh ững tác phẩm này còn ch ưa
thấu đáo và toàn diện. Có chăng ở những tác phẩm này chúng ta
mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu đó là nền văn học của nước nào?
viết về nội dung gì? Nhân vật chính là ai? và chỉ chú trọng đi phân
tích nhân vật mà không chú ý đến mục đích sáng tác cuả nhà văn,


chủ đề mà nhà văn hướng tới là gì? những nét đặc sắc trong phong
cách nghệ thuật của nhà văn và thậm chí còn đón nhận nó một cách
hời hợt, qua loa. Chính vì vậy vô hình chung chúng ta không cảm
nhận được tinh hoa văn học của các nước bạn và làm giàu thêm vốn
văn học của nước mình cũng như rèn luyện kĩ năng học hỏi.

Như đã nói ở trên văn học Việt Nam có nhiều điểm giao thoa và chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ văn học Nga. Trong chương trình Ngữ văn 11
các em sẽ được tìm hiểu tên tuổi của Sê khốp – đại biểu lớn cuối
cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, b ước vào lịch s ử văn
học như một nhà cách tân thiên tài trong lĩnh v ực truyện ngắn và
kịch. Nhà văn M.Gô – rơ – ki đã nhận xét về Sê- khốp trong một bài
báo: “ Với tư cách là một nhà tu t ừ, Sê – khốp là một đỉnh cao không
bao giờ vượt qua nổi và nhà lịch sử văn học tương lai.” Sáng tác của
ông để lại những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng ng ười đọc. Ng ưòi đọc
ấn tượng với nhân vật Bê – li – cốp với lối sống lập dị, khác người
của hắn và ấn tượng hơn với hình ảnh cái bao trong tác phẩm. Chính
hình ảnh này đã góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề cũng nh ư dụng ý
của nhà văn. Đằng sau chi tiết này chủ đề nhà văn hướng tới vô
cùng rộng lớn. Từ đó người đọc giải mã và tiếp cận tác phẩm trọn
vẹn hơn, nhất là lứa tuổi học sinh các em sẽ rút ra được nhiều kỹ
năng sống rất bổ ích. Nhưng thực tế việc giảng dạy của giáo viên và
việc học của học sinh còn chưa thực chủ động và thấu đáo với
những tác phẩm này.
Vì những lí do chủ quan và khách quan trên tôi quyết định chọn đề
tài Tiếp cận tác phẩm Người trong bao từ góc độ chi tiết nghệ thuật và chủ
đề tác phẩm với hi vọng sẽ giúp cho HS thay đổi quan niệm và cách


đón nhận một tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng để từ đó các
em có cơ hội cảm nhận hết được cái hay, cái đặc sặc và những tinh
túy của văn chương nghệ thuât, làm phong phú h ơn vốn kiến th ức
văn chương của mỗi người.
2. Muc̣ đich
́ cua
̉ đềtaì

– Với đề tài này tôi mạnh dạn đưa ra những ý kiến cá nhân về
hướ ng tiếp cận mới một tác phẩm văn học nước ngoài nổi tiếng từ
góc độ nghệ thuật viết truyện để cung
̀ trao đôỉ vơí đông
̀ nghiêp
̣ cua
̉
minh,
̀ với mong muôn
́ gop
́ phân
̀ vao
̀ viêc̣ đôỉ m ơí ph ương phap
́ daỵ
hoc̣ ở trươ ̀ng Trung hoc̣ phổ thông hiên
̣ nay.
– Đồng thời qua đề tài này tôi cũng mong muốn lồng ghép nội dung
rất thực tế là rèn luyện kĩ năng sống cho HS, giúp HS rút ngắn
khoảng cách địa lý và lịch sử giữa các nền văn hóa để hoàn thiện
bản thân mình.
– Cần cho Học sinh thấy được tài năng bậc thầy của Sê – khốp trong
nghệ thuật viết truyện ngắn: kết cấu đơn giản, ngắn gọn, chi tiết nghệ
thuật đặc sắc, ngôn ngữ giản dị nhưng đã tái hiện được một khung
cảnh rộng lớn, nhiều màu sắc của nước Nga đương thời. HS cần rèn
luyện kỹ năng, phương pháp tiếp cận một tác phẩm văn học chân
chính.
– Qua tác phẩm HS tự rút ra bài học về cách sống để hoàn thiện bản
thân.
– Thực hanh
̀ soan

̣ giang
̉ tiêt́ daỵ cụ thê:̉ Tiêt́ 97, 98 trong ch ương
trinh
̀ Ngữvăn lớp 11 THPT.


3. ụi t ng vapham
vi nghiờn cu

3.1. ụi t ng nghiờn cu

Tim
hiờu
nhng khỏi nim nh ch v chi tit ngh thut trong
tỏc phm, vai trũ ca cỏc yu t trờn n s thnh cụng ca tỏc
phm. T ú tp trung i mi phng phỏp ging dy nhng tỏc
phm vn hc nc ngoi trong chng trỡnh THPT.

Nghiờn cu
cỏch thc tip cn tỏc phm Ngi trong bao t gúc
chi tit ngh thut v ch tỏc phm.
3.2. Pham
vi nghiờn cu

Tỏc phm Ngi trong bao.
Cỏc tỏc phm cựng ch nh : Khúm phỳc bn t, Phũng s 6, Cõu
chuyn tỡnh yờu, Anh bộo anh gy, Cỏi cht ca mt viờn chc.
4.

Phng phỏp v thi gian nghiờn cu


4.1. Phng phỏp nghiờn cu
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phơng pháp. Dới đây là
những phơng pháp chủ yếu:
1. Phơng pháp thống kê, nêu ví dụ.
2. Phơng pháp thực nghiệm.
3. Phơng pháp so sánh.
4. Phơng pháp tổng hợp.
4.2. Thi gian nghiờn cu


Để nghiên cứu đề tài này tôi đã tiến hành tìm hiểu và thu thập tài liệu
trong hai năm học 2013 – 2014 và 2014 – 2015 và đã th ực nghiệm
khá thành công ở một số lớp 11 năm học 2014 – 2015.
PHÂN
̀ NÔỊ DUNG
CH ƯƠNG I. NH ỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
1.

Khái niệm và vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm
văn học

1.1. Khái niệm chi tiết nghệ thuật
Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Macxim Gorki
từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. H ơn ai hết, tác giả
những thiên truyện viết ra từ tr ường đại học cuộc sống, ng ười được
coi là “cánh chim báo bão của cách mạng Nga”, “nhà văn của nh ững
người chân đất” là người hiểu rõ tầm quan trọng của nh ững chi tiết
nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Tương quan đối lập trong
câu nói trên đã khẳng định: Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không

hẳn là quy mô tác phẩm mà chính là “chi tiết” – yếu tố đôi khi được
coi là nhỏ, là vặt vãnh…
Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là
nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc
đời…của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn tr ước
cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của th ời
đại” (H.Balzac) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên
trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây
dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo
của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của
người cầm bút.


Chi tiết không phải là một khái niệm xa lạ v ới đời sống.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì chi
tiết là: “Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung s ự việc hoặc hiện
tượ ng” (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). “Là thành phần riêng rẽ hoặc
tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được” (Ví dụ: Chi tiết
máy). Như vậy, trong đời sống hàng ngày, từ “chi tiết” được hiểu và
dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một s ự việc, tổng
thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.
Trong văn học, “chi tiết” theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 1997) là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang s ức
chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng” và họ gọi chung là chi tiết nghệ
thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: “Tuỳ theo s ự thể hiện cụ thể,
chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu
tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư
tưở ng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn v ới “quan niệm
nghệ thuật” về thế giới con người, v ới truyền thống văn hoá nghệ

thuật nhất định”
Như vậy, chi tiết nghệ thuật được xem như linh hồn của một văn bản
nghệ thuật. Muốn hiểu, nắm chắc văn bản, phải hiểu rõ chi tiết nghệ
thuật. Khái niệm chi tiết được đặt ra nhằm phân biệt với tổng thể
nhưng nó không tách rời tổng thể. Sự hòa h ợp giữa chi tiết và tổng
thể sẽ tạo thành chỉnh thể. Chi tiết nghệ thuật được xem là thành tố
nhỏ nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật.
1.2 Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương


Bàn về tương quan giữa chi tiết và tổng thể, có ý kiến cho rằng: “Đôi
khi chỉ vì một đôi mắt mà người ta phải cưới nguyên một ng ười đàn
bà”. Câu nói đó khẳng định một thực tế: Đôi khi, chi tiết có thể đánh
gục được cả tổng thể, thậm chí nó thay thế, lấn át tổng thể. Trong tác
phẩm văn chương, chi tiết có thể nhỏ về quy mô, tầm vóc nh ưng nó
chứa đựng tư tưởng lớn, tình cảm lớn. Không nhà văn vĩ đại nào
không tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật t ừ những chi tiết
nhỏ, đặc sắc. Thực tế cho thấy, chỉ bằng những chi tiết cô đúc, tiêu
biểu, kết hợp với lối hành văn nhiều ẩn ý, nhiều nhà văn đã để lại
những ấn tượng sâu sắc trong lòng ng ười đọc bằng nh ững hình
tượ ng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sống. Nhân vật Bêlicôp (“Ng ười
trong bao” – A. Sêkhôp), nhân vật AQ (“AQ chính truyện” – Lỗ Tấn),
nhân vật Grăngđê (“Ơgiêri Grăngđê” – H. Banlzac), nhân vật Chí
Phèo (“Chí Phèo” – Nam Cao)…, đều là nh ững hình t ượng điển hình
đặc sắc, được khắc họa bằng nhiều chi tiết cụ thể nhưng có sức khái
quát cao, phản ánh được diện mạo, bản chất con người và bộ mặt
của xã hội, đồng thời thể hiện những quan niệm nghệ thuật về con
người rất riêng của mỗi nhà văn.
Trong truyện, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển
đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm

trạng, hình dáng, số phận của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy
đủ. Nhiều chi tiết trở thành những điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm,
có vị trí không thể thiếu trong s ự phát triển của cốt truyện, gắn liền
với những bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi
tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ tr ở nên nhạt nhẽo,


hời hợt, thiếu sức hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu ôm đồm nhiều chi tiết thì
rối rắm, rườm rà, giảm giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.
Trong thơ, nhờ chi tiết mà cảm xúc của nhà thơ có n ơi n ương náu.
Đặc thù của thơ là cảm xúc và hình ảnh. Hình ảnh chính là chi tiết
trong thơ. Một cánh chim, một làn mây, một chiếc lá, một nhành hoa
hay tia nắng…đi vào thơ không còn là sự vật vô tri n ữa. Nó là hình
ảnh phản chiếu tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ. Từ một cảnh huống,
một tâm trạng mà thấy được nỗi niềm không chỉ của cá nhân thi sĩ
mà của cả một lớp người, một thời đại. Cao h ơn là phản ánh số phận
con người của một quốc gia, dân tộc ở những chặng đường lịch s ử
nhất định. Đỗ Phủ, Puskin, Nguyễn Du…đều là những thi hào mà tên
tuổi đã gắn liền với dân tộc và thời đại.
Tóm lại, dù là thơ hay văn xuôi, đều cần phải xây cất từ chi tiết. Theo
quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả
bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương
vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào trong một giọt s ương. Tầm c ỡ
nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh nhưng kh ơi g ợi
được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con ng ười, nhân loại.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật dù chỉ là yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm
nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và t ư tưởng. Thiếu chi tiết,
nhà văn không thể đúc nên tác phẩm. Chi tiết càng có s ức biểu hiện,
sức khơi gợi và ám ảnh càng lớn, càng góp phần nâng cao giá trị tác
phẩm. Và không có một tác phẩm lớn nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo,

nông cạn, thiếu sức sống. Trong tiếp nhận văn học, càng không
được xem nhẹ chi tiết. Đọc hiểu và cảm nhận tác phẩm văn chương


từ cấp độ chi tiết là yêu cầu quan trọng và cần thiết, đặc biệt đối v ới
việc dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.
1.3. Phân loại chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương
Căn cứ vào hình thức thể loại văn học, người ta chia chi tiết nghệ
thuật trong tác phẩm văn chương làm hai loại: Chi tiết trong văn xuôi
và chi tiết trong thơ.
1.3.1. Chi tiết trong văn xuôi
Chi tiết trong văn xuôi thường là chi tiết sự vật và chi tiết s ự việc. Chi
tiết sự vật thường gắn với 3 đối tượng: cảnh vật, đồ vật, nhân vật.
Hình ảnh những ngọn đèn trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
là chi tiết sự vật. Có nhiều loại đèn được nhà văn miêu tả. Đèn rất
sáng (đèn ở Hà Nội và đèn ở đoàn tàu) và đèn tù mù (ở phố huyện).
Một loại ánh đèn mạnh nằm trong quá khứ đã mất hoặc chỉ trong mơ
tưở ng xa xôi. Một loại ánh đèn hiện tại rất yếu ớt ở phố huyện. Gia
đình chị Tí, cửa hàng của chị em Liên, bác Siêu bán ph ở…, mỗi
người có một ngọn đèn nhưng tất cả đều tù mù, chỉ tạo nên nh ững
“khe sáng”, “hột sáng”, “quầng sáng”, “chấm lửa vàng l ơ l ửng” trong
đêm, đối lập hoàn toàn với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng r ực, vui vẻ
và huyên náo”. Sống trong ánh đèn tù mù đó, Liên nh ớ tiếc ánh sáng
quá khứ, mơ tưởng tương lai tươi sáng. Nó phản ánh tâm trạng chán
ghét hiện tại tăm tối và mơ ước có cuộc sống khác của hai đứa trẻ.
Chi tiết sự việc (cốt truyện) gắn với các tình tiết. Một tình tiết được
hợp nên bởi nhiều chi tiết. Chí Phèo thức dậy vào buổi sáng hôm sau
là một tình tiết, nó được hợp nên từ nhiều chi tiết: tâm trạng, cảm
xúc, cảm giác…của Chí Phèo.Căn cứ vào thái độ của nhà văn, ng ười



ta phân ra chi tiết nóng và chi tiết lạnh. Chi tiết nóng th ường được tr ở
đi trở lại, được nhà văn khắc họa kĩ, nằm trong mạch chính của văn
bản nghệ thuật.
Trong tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao), “bát cháo hành” là chi tiết
nóng, được nhắc đi nhắc lại, hàm chứa tình người, tình yêu thị N ở
dành cho Chí Phèo. Bởi được chưng cất từ tình ng ười nên bát cháo
hành đã thức dậy phần người trong Chí, làm cho hắn biết “buồn”, biết
“ngạc nhiên”, xúc động và “ăn năn”. Thiếu chi tiết này, là thiếu s ự
xuất hiện của tình người, lấy gì thức tỉnh Chí Phèo để hắn có khát
vọng trở lại làm người lương thiện?
Chi tiết lạnh không nằm trong mạch chính, xuất hiện thoáng qua, nhà
văn không tập trung cho chi tiết nổi lên nên khó viết và ng ười đọc h ời
hợt rất dễ bỏ qua. Nhà văn phải có giác quan thẩm mĩ, bản lĩnh m ới
viết được chi tiết lạnh. Cảm nhận được chi tiết lạnh thể hiện tầm đón
nhận của người đọc.
Chí Phèo khóc khi được Thị Nở cho ăn cháo hành là chi tiết lạnh.
…“mắt hắn hình như ươ n ướt”. Nhà văn chỉ nói ngắn, không lặp lại,
xa cách, giả định “hình như” đi kèm với tính từ giảm thiểu “ ươn ướt”.
Chi tiết mờ nhạt, tưởng thoáng qua nhưng rất đáng kể. Mất h ơi cháo
hành Chí Phèo không còn được ch ở che, n ương t ựa b ởi tình ng ười.
Mất đi tình người khi đã biết hơi ấm của tình người, đối v ới kẻ đã bao
năm sống bên lề của xã hội như Chí Phèo mà nói, chỉ còn cách tìm
đến cái chết.
Trong truyện Đời thừa (Nam Cao), nhân vật Hộ tỉnh dậy sau đêm
say, sờ tay lên bàn thấy “ấm nước hãy còn ấm” cũng là một chi tiết


lạnh. Chi tiết ấy nói với Hộ về Từ, khiến cho Hộ nhìn thấy sự cao đẹp
của Từ và tất cả sự tồi tệ của mình. Nó chứng tỏ rằng Từ là một

người có sự tử tế, chu đáo. Từ tử tế, chu đáo với Hộ cả khi Hộ tàn
nhẫn v ới T ừ. “Ấm n ước còn ấm” là hình ảnh của s ự khoan dung, s ự
chăm sóc và tha thứ. Người ta chỉ có thể tha thứ cho ng ười khác khi
người ta mạnh bởi đó là cái mạnh trong lương tri, lương tâm, tình
người. Đối lập với sự yếu đuối trong hình hài, vóc dáng, T ừ rất mạnh
ở lòng thương. Lòng thương ấy bền vững ch ứ không chông chênh
như của Hộ. Nhận ra điều đó, Hộ càng thấy Từ đáng được che chở,
yêu thương, càng thấy mình đớn hèn, đáng khinh bỉ. Hộ đã khóc
trước Từ khi nhận ra tất cả sự thảm hại ấy của mình.
Cảm nhận chi tiết trong văn xuôi khi dạy học Ngữ văn ở trường phổ
thông có thể không phân loại nhưng nhất thiết phải hiểu rõ chi tiết đó
đóng vai trò gì trong mạch truyện, trong diễn biến tính cách, số phận
nhân vật. Nói cách khác là luôn gắn chi tiết v ới tổng thể để thấy được
tính thống nhất của một chỉnh thể nghệ thuật. Quan trọng h ơn là qua
đó, hiểu được ý đồ nghệ thuật, đọc được tư tưởng, tình cảm nhà văn
muốn gửi gắm. Đồng thời, thấy được tài năng sáng tạo của người
cầm bút.
1.3.2. Chi tiết trong thơ
Chi tiết vốn là lẽ sống của nghệ thuật, với thơ, chi tiết là hồn cốt. Bài
thơ sống được hay không là nhờ chi tiết. Chi tiết trong th ơ thu hẹp lại
trong một giới hạn nhỏ trong thi ảnh và ngôn từ. Đối v ới một bài th ơ,
nếu nắm được thi ảnh và ngôn từ đặc sắc xem như đã nắm được
linh hồn bài thơ, gọi là nắm được nhãn tự, kết tinh được thần thái linh


hồn tác phẩm. Quy mô chi tiết trong thơ thường nhỏ h ơn rất nhiều
trong tác phẩm văn xuôi.
Bài thơ Đò Lèn – Nguyễn Duy, tác giả viết về một tuổi thơ nghèo khó
bên cạnh người bà tần tảo. Hệ thống chi tiết cảnh vật được nhà thơ
liệt kê gồm: cống Na, đồng Quan, ga Lèn, chợ Bình Lâm, chùa Trần,

đền cây Thị, đền Sòng…, giúp người đọc hình dung về diện mạo một
miền quê với những cảnh trí rất dân dã, gần gũi, quen thuộc. Quan
trọng hơn, nó giúp Nguyễn Duy thể hiện sâu sắc thân phận ng ười bà:
Đó là thân phận con sâu cái kiến, thân phận thảo dân, mang sắc thái
dân đen, đối lập với Tiên Phật, Thánh thần… Bài th ơ nói về s ự ân
hận, sự trưởng thành muộn màng của ng ười cháu. Sống bên bà
nhưng vô tâm với nỗi khổ của bà, sống bằng sự chăm sóc, yêu
thươ ng vất vả của bà mà cháu không hề biết.
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và Tiên Phật thánh thần
Ngườ i cháu đã sống rất thực với cái hư và sống rất h ư với cái thực.
Chữ hư mang hai nghĩa: hư ảo và hư đốn. Nó chi phối quyết định
đến mạch tâm sự mang màu sắc triết luận, thể hiện quá trình giải
thiêng, giải ảo. Nhìn ở góc độ tình cảm, đó là quá trình r ời khỏi niềm
tin ngây thơ dành cho thánh thần để đến v ới tình th ương dành cho
người bà, từ đối tượng mơ hồ đến đối tượng thực. Đôi khi người ta
phải trả giá cho những bài học vô cùng đắt. Khi biết yêu th ương thì

đã mất rồi. Nhìn từ góc độ đời sống, đó là cuộc rời bỏ những đối
tượ ng không xứng đáng để đến với đối tượng xứng đáng hơn. Chính


người dân kia mới làm nên hiện thực đời sống. Chỉ hai chi tiết “h ư” –
“thực” đã nói lên sự sụp đổ niềm tin của tác giả, rời bỏ thế gi ới của
đức tin đơn thuần để đến với hiện thực cuộc đời gần gũi, đáng tin
hơn.
Chi tiết trong thơ nhiều khi là một mật mã. Giải mã chi tiết t ức nắm
được ý đồ nghệ thuật, ý đồ tư tưởng của nhà th ơ. Chỉ qua một vài
con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng),
chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật

tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã
Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách m ờ ám, lén lút,
tráo trở… của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân
dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn và bỉ ổi của Hồ Tôn
Hiến… Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt
giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.
Tóm lại, khó thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của chi tiết trong
tác phẩm nghệ thuật. Với nhà văn, quá trình sáng tạo gắn liền v ới ý
thức làm nên những chi tiết đặc sắc, góp phần thể hiện nội dung, chủ
đề của tác phẩm. Chi tiết gánh trọng trách chuyển tải đến người đọc
những thông điệp mà nhà văn gửi gắm, những cách nhìn và quan
niệm sâu xa về con người và cuộc đời của người nghệ sĩ. V ới ng ười
đọc, cảm nhận chi tiết nghệ thuật là mở những cánh cửa đầu tiên để
đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Nhà văn sẽ
không thể làm nên tên tuổi nếu tác phẩm của anh ta không bắt đầu
từ những chi tiết. Người đọc sẽ không nối được nhịp cầu tri âm v ới
tác giả nếu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết nghệ thuật


nhỏ nhất bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là: “Chi tiết nhỏ
làm nên nhà văn lớn”.

2.

Khái niệm và hệ thống của chủ đề trong tác phẩm văn học

2.1. Khái niệm chủ đề
Chủ đề là vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Chủ đề thể hiện
điều quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với
cuộc sống . Có thể nêu lên một số chủ đề của các tác phẩm:

Tắt đèn của Ngô Tất Tố tập trung phản ánh số phận bi thảm của
người nông dân do chế độ sưu thuế, sự bóc lột tàn khốc trong xã hội
thực dân nửa phong kiến. Chí phèo của Nam Cao lại tập trung tô
đậm vấn đề tha hóa, biến chất của một bộ phận nông dân và ước m ơ
làm người lương thiện của họ. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác
giả đã nêu bật lên số phận bi kịch của người phụ n ữ, vấn đề đấu
tranh để thực hiện tự do và công lí. Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã phản
ánh cuộc sống khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945 và tình cảm hướng về cách mạng của họ đồng thời nêu
lên một vấn đề có ý nghĩa nhân bản sâu sắc : Ðó là cái tình trong
cuộc sống đời thườ ng của những người lao động trong một hoàn
cảnh gần như hoàn toàn bế tắc. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải quan
tâm đến sự thay đổi số phận của những con người đã từng chịu
nhiều bất hạnh trong xã hội cũ, nay được niềm vui, hạnh phúc và chỗ
đứng trong xã hội mới.
2.2. Hệ thống chủ đề
Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy nhất
mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành


một hệ thống chủ đề. Trong hệ thống chủ đề, có thể nổi lên vài chủ
đề có ý nghĩa trung tâm, quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Ðó là chủ đề
chính. Bên cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần
bổ sung, làm nổi bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ: ở những
bộ tiểu thuyết đồ sộ như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung
hay Chiến tranh và hoà bình của L.Tôn – xtôi. Trong một tác phẩm,
các chủ đề không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn
chủ đề chính, chủ đề phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý
nghĩa của tác phẩm.
CH ƯƠNG II. CÁCH TH ỨC TI ẾP CẬN NGƯỜI TRONG BAO TỪ GÓC

ĐỘ CHI TI ẾT NGH Ệ THUẬT VÀ CH Ủ ĐỀ TÁC PH ẨM
2.1 Tiếp cận tác phẩm Người trong bao từ góc độ chi tiết nghệ thuật
Sê – khốp là nhà văn đã viết nhiều truyện ngắn và đã đạt được kỹ
xảo tuyệt vời trong lĩnh vực này của văn học. Trong quá trình sáng
tác của Sê – khốp, tính chất truyện của ông có thay đổi: Ở th ời kỳ
đầu, thường là những truyện rất ngắn, nội dung châm biếm, hài h ước
càng về sau càng thấy có nhiều truyện dài, tính chất tr ữ tình rõ rệt.
Nhưng không thể phủ nhận một việc ở thời kỳ nào nh ững sáng tác
của ông cũng hấp dẫn người đọc bởi sự đơn giản của cốt truyện,
cách giới thiệu nhân vật độc đáo và đặc biệt là việc nhà văn s ử dụng
một cách linh hoạt và khéo léo những chi tiết nghệ thuật. V ới nh ững
chất liệu đơn giản nhà văn đã khéo lồng vào truyện nội dung xã hội
to lớn, tái hiện lại một khung cảnh rộng lớn nhiều màu sắc của n ước
Nga đương thời .Trong truyện ngắn của Sê – khốp, chi tiết nghệ
thuật có thể giúp cho việc tái hiện lại môi tr ường hoàn cảnh xảy ra
hành động, có thể làm nổi bật tính cách của nhân vật và cũng có thể


mang một ý nghĩa tượng trưng, nói lên chủ đề tư tưởng tác phẩm .
Đôi khi từ một sự việc, hành động có khi là rất nhỏ nhặt trong cuộc
sống, Sê – khôp đã làm cho người đọc có thể rút ra được nh ững kết
luận có tính chất triết lí xã hội rất to l ớn về con ng ười, về cuộc đời. Ở
điểm này Sê-khôp được độc giả đánh giá rất cao về tài năng viết
truyện ngắn. Có thể chỉ ra một vài tác phẩm tiêu biểu như Anh béo và
anh gầy ( 1883), Cái chết của một viên chức ( 1883), Con kỳ nhông
( 1884)….
Truyện Anh béo và anh gầy ( 1883) lấy bối cảnh rất đơn giản – cuộc
gặp gỡ của 2 người bạn tại một sân ga, nhân vật không nhiều chỉ có
anh béo và gia đình anh gầy. Nói là cuộc gặp gỡ giữa hai ng ười bạn
nhưng lời thoại được tỉnh lược đến mức họ chỉ nói v ới nhau một vài

câu nhưng cái hay, đặc sắc ấn tượng nằm ngay ở sự đơn giản đó.
Sê-khốp đã rất thành công khi xây dựng chi tiết cái bắt tay của các
nhân vật này. Anh gầy và anh béo vốn là bạn t ử thu ở còn đi học, họ
có những tháng ngày học sinh rất hồn nhiên, nhiều kỉ niệm. Th ời gian
sau mỗi người đều tìm cho mình một công việc riêng, rồi một ngày họ
gặp lại nhau ở ga tàu. Lúc đầu cả hai đều rất mừng rỡ và một hành
động tự nhiên họ tiến lại gần bắt tay nhau. Nhưng chính trong lúc
này anh gầy đã kịp nhận ra bạn anh giờ đã là một vị quan to và
không dám tay bắt mặt mừng với anh béo. Ngay lập t ức anh gầy tr ở
nên khúm núm sợ sệt cúi đầu bắt tay anh béo. Thậm chí v ợ và con
anh gầy cũng khúm núm, sợ sệt như vậy. Cuộc gặp gỡ diễn ra trong
sự nặng nề và nhanh chóng kết thúc. Khi anh béo b ước đi cả gia
đình anh gầy vẫn kính cẩn khép nép. Khép lại câu chuyện ở đây
nhưng tác giả đã gieo vào lòng người đọc nh ững suy nghĩ trăn tr ở về


cuộc sống. Thật không khó để nhận ra ý đồ của nhà văn khi xây
dựng chi tiết cái bắt tay của hai người bạn. Qua chi tiết ng ỡ nh ư bình
thườ ng này chúng ta thấy được thái độ chế giễu, lên án của Sê-khốp
với một bộ phận trí thức Nga đương thời chỉ biết xu nịnh, tâm lý nô
lệ, khiếp sợ trước quyền lực. Chính thực tế này đã làm cho tâm hồn,
nhân cách của họ bị méo mó.
Với truyện Cái chết của một viên chức ( 1883) Sê-khôp cũng xây dựng
rất thành công chi tiết chỉ vì cái hắt xì hơi mà dẫn đến cái chết của
một viên chức. Vẫn là lối viết truyện ngắn tài ba của mình, Tác giả
chọn bối cảnh cho tác phẩm là không gian của một rạp chiếu phim.
Toàn bộ tác phẩm xoay quanh hai nhân vật là một viên ch ức nhỏ và
một vị quan to. Trong một lần đến rạp chiếu phim anh viên ch ức kia
ngồi ngay sau ghế của một vị quan trên S ở. Vì vô tình hắt xì h ơi mà
không kịp lấy tay che, nước mũi bắn ra xung quanh. Anh ta lấy làm ái

ngại thậm chí sợ hãi vô cùng trong khi không ai để ý. Anh ta lo s ợ
hành động khiếm nhã của mình là xúc phạm đến vị quan S ở. Anh ta
không còn tâm trí xem phim nữa mà đầu óc quay cuồng v ới các suy
nghĩ làm thế nào để xin lỗi người kia. Lấy hết can đảm anh khúm
núm bước lại nói lời xin lỗi. Nhưng đáp lại thiện ý của anh này lại là
một cái nhìn thoáng qua, không để ý của vị quan S ở Và thế là bao
nhiêu lo lắng cứ thế đè lên người anh ta. Từ rạp chiếu phim, về nhà
và làm việc gì bất kể là nhỏ hay lớn anh ta đều s ợ hãi ám ảnh. Anh ta
quyết định đến tận chỗ làm của vị quan Sở để xin lỗi về cái hắt h ơi
của mình. Cũng như lần trước vị quan này lấy làm tức giận, t ức giận
không phải vì cái hắt hơi mà tức giận vì bị làm phiền b ởi một việc
không đáng bận tâm. Với thái độ tức giận đó vị quan S ở đã gắt lên


và cái gắt đó đã chấm dứt sự sống của anh viên chức sau một thời
gian ngắn. Câu chuyện khép lại, chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản
mà dẫn đến cái chết. Phải chăng Sê-khốp đang muốn gióng lên một
hồi chuông báo động và cảnh tính đất nước Nga, giới trí th ức Nga về
thối quỵ luỵ thái quá đến đê hèn trước quyền l ực?
Một lần nữa chúng ta lại bắt gặp chủ đề này trong Con kỳ nhông
( 1884) qua chi tiết một viên cảnh sát x ử kiện. Nhân vật chính trong
tác phẩm là một tên cảnh sát trở mặt như bàn tay. Hắn xét xử một
việc nhỏ mọn nhất cũng không dám theo công lý vì sợ hãi và muốn
lấy lòng quan trên ngay cả khi ngài vắng mặt. Nh ư vậy chỉ qua một
vài chi tiết nhỏ nhưng Sê-khốp đã chuyển tải được những nội dung
lớn về xã hội, về cuộc sống của con người.
Như chúng ta đã biết Sê-khốp được ngợi ca là nhà cách tân thiên tài
trong lĩnh vực truyện ngắn. Trong chương trình văn 11 học sinh được
tìm hiểu một tác phẩm rất thành công và tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật của ông. Đó là tác phẩm Người trong bao. Hình ảnh cái

bao trong tác phẩm là chi tiết đặc sắc nhất được tạo lên từ nhiều chi
tiết khác. Đó là những chi tiết về ngoại hình, lối sống, thói quen sinh
hoạt và suy nghĩ tính cách, quan niệm về tình yêu của Bê-li-côp. T ừ
những chi tiết trên chân dung của hắn hiện lên thật chân thât, sống
động.
Trước tiên nhắc đến chi tiết này người đọc nhớ ngay đến nhân vật
Bê – li – cốp với lối sống thu mình đến hèn nhát. Nhân vật này là điển
hình cho một bộ phận, một kiểu người đã và đang tồn tại có nguy cơ
phát triển trong xã hội Nga đương thời. Xuất hiện trong tác phẩm
ngay từ những dòng đâu tiên Bê-li-cốp đã gây s ự chú ý v ới độc giả


một người giáo viên trung học – nếp sống kì lạ, lập dị chỉ thích chui
vào những cái bao. Từ khuôn mặt nhợt nhạt, bé choắt lại nh ư mặt
chồn, đến cặp mắt hắn cũng tìm cách giấu vào trong chiếc áo bành
tô đen, cặp kính đen. Cả đến mọi đồ dùng, thói quen trong sinh hoạt
hàng ngày hắn cũng cố gắng giấu vào trong bao. Chắc hẳn chúng ta
đều ấn tượng với chi tiết: Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả
quýt cũng để trong bao, con dao nhỏ để gọt bút chì cũng để trong
bao. Dù thời tiết rất đẹp nhưng hễ ra đường là Bê-li-cốp lại đội mũ,
che ô mặc áo bành tô kín mít, đi xe ng ựa cũng che mui lên. Về đến
nhà
Phòng ngủ của hắn được miêu tả chật như một cái hộp, tù túng,
ngột ngạt. Thế nhưng dù nóng bức hắn cũng trùm chăn kín đầu.
Thậm chí cả ý nghĩ của mình hắn cũng cố giấu vào trong bao. Bê-licốp không bao giờ dám có ý kiến riêng về bất cứ một vấn đề to, nhỏ
nào. Từ những chi tiết trên người đọc nhận thấy ở con người này
một khát vọng mãnh liệt, kì dị: thu mình trong cái vỏ, tạo cho mình
một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những tác động của
cuộc sống bên ngoài.
Hơn thế nữa trong cách sống hắn còn tự tạo lên những thứ bao vô

hình khác trong suy nghĩ của mình. Cụ thể đó là chi tiết Bê-li-cốp dạy
tiếng Hi lạp-một thứ tiếng cổ nhưng hắn say mê và ca tụng hết lời.
Hắn lúc nào cũng ngợi ca quá khứ và cả những th ứ không bao gi ờ
có thật. Đồng nghĩa với việc Bê-li-cốp luôn sợ hãi cái m ới, cái tân
tiến. Với hắn thật không thể chấp nhận được việc người phụ nữ lại đi
xe đạp và tay lững thững cầm quyển sách đi lại ngoài đường.


Không chỉ có vậy để làm nổi bật chân dung của hắn tác giả còn xây
dựng những chi tiết kì lạ trong tư tưởng, suy nghĩ, quan niệm về tình
yêu. Vì luôn sợ hãi cái mới, cái tân tiến Bê-li-côp chỉ thích sống
theo những thông tư, chỉ thị một cách máy móc, vô hồn. Câu nói c ửa
miệng của hắn “ Sợ nhỡ có chuyện gì xảy ra”. Chi tiết này được lặp
lại 5 lần trong tác phẩm như một ám ảnh khủng khiếp khiến hắn
không dám nghĩ không dám làm bất cứ chuyện gì. Thậm chí cả
chuyện tình yêu của đời mình. Ngoài 40 tuổi hắn có nghĩ đến chuyện
lấy vợ. Cô gái mà hắn đem lòng yêu mến là Va-ren-ca, một giáo viên
mới chuyển về trường rất năng động và tân tiến. Lại một lần nữa hắn
lo sợ, lưỡng lự để rồi khi chứng kiến cô gái ấy đi xe đạp thì hắn
không thể chịu đựng được và quyết định đến nhà. Câu chuyện của
hắn không suôn sẻ mà còn bị em của Va-ren-ca đẩy ngã xuống cầu
thang. Chính tiếng cười ha ha của va-ren-ca lanh lảnh vang khắp khu
nhà đã chấm dứt tất cả. Chấm đứt cả tình yêu và cuộc đời của Bê-licốp. Cuối cùng Bê-li-cốp chết. Kì lại thay khi nằm trong quan tài
người ta lại thấy vẻ mặt hắn có vẻ tươi tỉnh, mãn nguyện. Đây quả là
một chi tiết đắt giá, thì ra cuối cùng Bê-li-cốp cũng mãn nguyện vì đã
chui được vào cái bao mà từ đó hắn không phải chui ra n ữa. Khi
sống Bê-li-cốp đã gây ảnh hưởng trầm trọng đên xã hội, người ta sợ
hãi tất cả: sợ gửi thư, sợ nói to, sợ diễn kịch…Khi hắn chết mọi
người cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng nhưng chưa được bao lâu cuộc
sống lại diễn ra như cũ: nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng . Chi tiết

này cho thấy nhà văn đã khái quát ảnh hưởng và tác động dai dẳng
nặng nề của lối sống trong bao. Chính kiểu người như Bê-li-cốp đã
ám ảnh, đầu độc bầu không khí trong sạch, lành mạnh của văn hoá
và đạo đức , tiến bộ của xã hội Nga đương thời. Như vậy không chỉ


một mình Bê-li-cốp mang bao mà có biết bao nhiêu ng ười cũng mang
bao như hắn
Qua những chi tiết kể trên chân dung Bê-li-cốp lên thật sinh động,
chân thật. Từ đó gieo vào lòng ng ười đọc nh ững băn khoăn, trăn tr ở
và suy nghĩ về chi tiết cái bao. Đâylà một trong những chi tiết nghệ
thuật sáng tạo độc đáo nhất của tác giả. Hiểu theo nghĩa đen đây là
vật dùng để bao, gói, đựng đồ vật, hàng hoá…hình túi hoặc hình
hộp. Hiểu theo nghĩa chuyển cái bao là lối sống, tính cách của Bê-licốp. Hiểu theo nghĩa biểu trưng đây là kiểu ng ười trong bao, lối sống
trong bao- một kiểu người, một lối sống không chỉ đã và đang tồn tại
ở nước Nga cuối TK XIX đầu TK XX mà còn có ý nghĩa phổ quát sâu
rộng hơn nhiều. Cả xã hội Nga thời điểm đó phải chăng cũng là một
cái bao khổng lồ trói buộc, tù hãm, bủa vây ngăn chặn tự do dân chủ
của nhân dân Nga, trí thức Nga chân chính. Nh ư vậy v ới chi tiết đặc
sắc này chủ đề tác phẩm đã được bộc lộ một cách chi tiết, rõ ràng.
Một chi tiết ngỡ như đơn giản, bình thường nhưng chứa đựng nội
dung sâu sắc. Với cách này nhà văn đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ
trong lòng người đọc về một nhân vật có lối sống khép kín, luôn thu
mình, ngại giao tiếp và triên miên trong mọi nỗi s ợ hãi. Ng ười đọc sẽ
nhanh chóng nhận ra đằng sau lối sống khác người ấy của nhân vật
là ngụ ý phê phán, đả kích lối sống của nh ững con người mang bao,
chủ đề tác phẩm vì thế càng thêm sâu sắc. Với cách tiếp cận tác
phẩm từ góc độ chi tiết nghệ thuật sẽ giúp học sinh tích cực, chủ
động trong việc đọc và thu thập thông tin về nhân vật. T ừ đó học sinh
sẽ khái quát được chủ đề của tác phẩm hay nói cách khác học sinh

sẽ thấy được thái độ của nhà văn với nhân vật được xây dựng. Đồng


thời việc tiếp cận tác phẩm này từ góc độ chi tiết nghệ thuật sẽ giúp
học sinh rèn luyện kỹ năng sống rất bổ ích. Học sinh có cơ hội được
liên hệ thực tế với lối sống của chính bản thân mình. Th ực tế Sêkhốp xây dựng nhân vật Bê-li-cốp rất gần gũi với cuộc sống không
chỉ ở Nga mà ngay ở Việt nam chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp.Từ
những chi tiết rất nhỏ gắn với Bê-li-cốp như: ngoại hình mang bao,
vật dụng sinh hoạt trong bao, suy nghĩ cũng giấu trong bao, t ư
tưở ng, tính cách, quan niệm về tình yêu cũng để trong bao…Học
sinh sẽ ấn tượng và tự nhận ra rằng mình không nên nh ư Bê-li-cốp.
Nếu đã có một vài biểu hiện theo kiểu Bê-li-cốp thì cần tỉnh táo và
thay đổi. Hay các em có thể giúp đỡ bạn bè, những ng ười xung
quanh mình chủ động hoà nhập, sống chân thành c ởi m ở để tạo
dựng những mối quan hệ tốt đẹp cùng nhau xây dựng đất n ước.
Hay như hình ảnh nhà tù trong tác phẩm phòng số 6 được đánh giá là
một chi tiết đặc sắc. Nhân vật chính trong tác phẩm là bác sĩ Ra –
ghin, giám đốc bệnh viện ở một thị trấn nghèo. Mặc dù không hài
lòng với cách sống và nếp sinh hoạt ở nơi đây nhưng vì không có ý
chí và nghị lực nên ông đã để mặc cho người ta làm điều ác hết năm
này sang năm khác. Còn ông thí suốt ngày chỉ ngồi trong phòng một
mình đọc sách và nhắm rượu với dưa chuột muối. Ông đã dựng lên
cả một kho lý luận nhằm biện hộ cho thái độ lãnh đạm, sự chây ì và
thoả hiệp dung túng của mình và đến một ngày kia chính ông bị bọn
họ nhốt vào phòng số 6 – nơi giam gi ữ những ng ười điên. Đây là một
chi tiết rất đặc sâc nó có sức khái quát rất l ớn. Phải chăng bối cảnh
đất nước Nga đương thời quá ngột ngạt, bế tắc khiến cho mọi trật tự
xã hội đều bị đảo lộn. Một người hoàn toàn tỉnh táo, ý th ức được về



cuộc sống lại bị những kẻ u mê kia cho rằng bị điên và tìm cách tống
vào nhà tù. Ở trong đó một gi ờ đồng hồ mà Ra- ghin đã thấy khó
chịu vô cùng. Ông đập cửa và chửi rủa ầm ĩ, nhưng đã bi Ni-ki-ta
đấm vào mặt làm cho hộc máu mồm. Chi tiết này khiến ng ười đọc
nhận ra thái độ của Sê-khốp với thực tế xã hội đương th ời, th ức tỉnh
con người. Đến bấy giờ Ra- ghin mới nghĩ rằng tại sao lại có chuyện
là trong suốt 20 năm ông không hề biết và giờ ông không thể lãnh
đạm được nữa mà phải kiên quyết phản kháng lại nhà tù và nh ững
con người đó. Nhưng ngày hôm sau ông đã chết vì kiệt sức. Tác
phẩm này đã làm chấn động dư luận xã hội Nga. Như vậy với chi tiết
này tác giả đã chỉ ra cho độc giả nhìn thấy th ực chất nước Nga chính
là một nhà tù lớn khiến hàng triệu người đang chết dần chết mòn.
Nhà văn Lê-xcôp, một người xa lạ với tư tưởng cách mạng cũng đã
hiểu ra rằng “ Trong Phòng số 6 những trật tự và tính cách chung của
chúng ta đã được miêu tả một cách thu nhỏ lại. Khắp n ơi là phòng số
6. Đó là nước Nga”. Lê – nin thời trẻ khi đọc tác phẩm này đã có cảm
giác khủng khiếp tựa như đang bị nhốt trong phòng số 6. Đồng th ời
qua chi tiết nhà tù Sê-khôp cũng nói lên một thực tế đang diễn ra rất
phổ biến là sự bất lực của giới trí thức Nga trước hiện thực xã hội
đen tối. Vẫn còn tồn tại những kẻ như Ra-ghin bàng quang vô trách
nhiệm luôn che đậy sự hèn nhát và biện hộ cho thái độ thủ tiêu đấu
tranh của mình bằng các loại triết lí đạo đức nhẫn nhục, chịu đựng
theo kiểu “ Không dùng bạo lực để chống lại điều ác”.
2.2 Tiếp cận tác phẩm từ góc độ chủ đề
Như chúng ta đã biết, năm 1890 Sê – khốp lên đường đi Xa – kha –
lin hòn đảo mà chính quyền Nga hoàng dùng làm n ơi đày ải nh ững
người tù khổ sai. Cuộc hành trình này này có ảnh h ưởng rất l ớn đên



×