Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.18 KB, 14 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.

Lý do chọn đề tài. sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông
tin
Ngày nay với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung
của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và ứng
dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của nhiều
ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hơn thế nữa nó còn đi sâu
vào đời sống của con người. Tin học đã thâm nhập khá mạnh mẽ vào Việt Nam,
nhiều lĩnh vực hoạt động từ lĩnh vực quản lý hành chính, quản lý kinh tế, tự động
hóa công nghiệp …đến các lĩnh vực giáo dục và đào tạo đều có thay đổi đáng kể
nhờ ứng dụng tin học. Máy tính là công cụ cần thiết đối với con người trong thời
đại ngày nay. Mọi loại thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về
dạng kỹ thuật số để bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp
cho nhiều người.
Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng
thu thập, chia sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo
phương thức hoàn toàn mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm,
các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí cả cách nhìn các giá trị trong
cuộc sống. Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của
sự phát triển…ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp
phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc
đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
đảm bảo an ninh quốc phòng…
CNTT đi vào cuộc sống sẽ lan toả đến mọi nơi, mọi lĩnh vực, máy tính sẽ có mặt
ở khắp mọi nơi, việc kết nối mạng cũng trở nên dễ dàng và thuận tiện nhất cho
tất cả mọi người dân. Vì vậy với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin hiện nay, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được


công nghệ thông tin thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của


mình. Và cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước
đang phát triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh của
CNTT thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống
quý báu của dân tộc trong đó có sự góp mặt của nền giáo dục.
Đối với ngành Giáo dục – Đào tạo đặc biệt là Giáo dục mầm non, CNTT là
phương tiện hữu ích góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong chăm sóc giáo dục trẻ được xem là ưu tiên
hàng đầu của ngành Giáo dục mầm non. Trong những năm qua ngành giáo dục
mầm non đã triển khai việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động chăm sóc giáo
dục và các hoạt động khác một cách tích cực về mọi mặt và đã gặt hái được
nhiều thành quả đáng khích lệ. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành
giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo
nguồn nhân lực CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào chăm sóc giáo dục trẻ.
Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành giáo
dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công nghệ thông tin
phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục và
có rất nhiều những phần mềm hữu ích cho người giáo viên mầm non như Bộ
Office, Flash, Photoshop, Converter, Kidspix, Kidsmart, Nutrikids, Happykids…
Các phần mềm này rất tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc
thiết kế giáo án điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu, bảng tương tác
cũng như trên các thiết bị hỗ trợ khác như Tivi, đầu Video…vừa tiết kiệm được
thời gian cho người giáo viên mầm non, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà
trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hấp dẫn của giờ dạy. Nếu trước
đây giáo viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu
tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng ứng dụng công
nghệ thông tin giáo viên có thể sử dụng Internet để chủ động khai thác tài
nguyên giáo dục phong phú, chủ động quay phim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài

giảng điện tử. Chỉ cần đánh vào “google” những gì chúng ta cần là đã có cả một
kho tư liệu cho chúng ta lựa chọn là những hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh,
những bông hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy
theo nhạc, những bản nhạc hay dành cho trẻ hiện ngay ra với hiệu ứng của


những âm thanh sống động trong cuộc sống ngay lập tức thu hút được sự chú ý
và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động nhiều hơn để khám
phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý giáo dục của
Vưgotxki ” Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” một cách dễ dàng. Có thể thấy
ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non đã tạo ra một biến
đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục mầm non, tạo ra một
môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa giáo viên và trẻ.
sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tức là cho trẻ được tiếp cận với môi trường đa
phương tiện kết hợp hình ảnh, video, camera, âm thanh, chữ cái…được trình
bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá
trình học đa giác quan. Kỹ thuật đồ họa cao có thể mô phỏng nhiều quá trình,
hiện tượng thiên nhiên, các hình ảnh sống động mà theo phương pháp truyền
thống thì khó mà thực hiện được như sự lớn lên của cây, quá trình hình thành
mưa, hay quá trình nở của sâu…Đặc biệt sử dụng tin học vào tổ chức các hoạt
động cho trẻ mầm non sẽ tạo ra những điều mới lạ kích thích sự tò mò, trí tưởng
tượng của trẻ đáp ứng với yêu cầu“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Học tập cùng máy
tính giúp trẻ sẽ dễ dàng học được các khái niệm và tăng cường sự phối hợp mắt
và tay, nâng cao hiểu biết xã hội. Thông qua việc ứng dụng CNTT trẻ được học
tập vui chơi theo hướng phát huy tính tích cực học tập của trẻ và làm phong phú
hơn kỹ năng dạy học. Các trò chơi KidSmart của IBM có tính giáo dục cao, hấp

dẫn, kích thích nhận thức của trẻ, tạo điều kiện phát triển các kỹ năng nhóm:
giao tiếp, chia sẻ, tự giải quyết vấn đề. Và các phần mềm khác như kidspix,
happykids… góp phần không nhỏ trong sự phát triển của trẻ.
Là một giáo viên mầm non đang giảng dạy ở Trường mầm non Tề Lỗ tôi
nhận thấy được việc giáo viên biết ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao
trình độ chuyên môn và kiến thức tin học cho bản thân có tác dụng to lớn trong
giáo dục để tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện như: trí


tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, tình cảm kĩ năng xã hội… Mặt khác, ứng dụng công
nghệ thông tin sẽ nâng cao chất lượng học tập của trẻ trẻ được học qua máy
tính một cách tích cực, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học phù
hợp với chương trình giáo dục mầm non hiện nay.
Nhưng trên thực tế việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin ở trường
mầm non Tề Lỗ nói riêng và các trường mầm non nói chung thì việc ứng
dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non mới chỉ là những
bước đi đầu tiên còn nhiều hạn chế, Việc sử dụng ứng dụng công nghệ thông
tin hỗ trợ công tác giảng dạy còn nhiều vấn đề bất cập: Lạm dụng công nghệ, sử
dụng công nghệ chưa thích hợp, không gắn với đặc thù của trẻ mầm non, dẫn
đến phá vỡ các nguyên tắc dạy học tích cực giáo viên còn thụ động trong công
tác tự bồi dưỡng, các bài giảng còn mang tính hình thức dập khuân chưa có tính
sáng tạo, phương pháp tổ chức cho trẻ hoạt động còn cứng nhắc chưa linh hoạt,
Giáo viên ngần ngại tiếp nhận và sử dụng thiết bị hiện đại, hạn chế về ngoại ngữ
cũng là một trở ngại cho giáo viên tiếp cận với ứng dụng công nghệ thông
tin… cho nên việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục
mầm non hiệu quả chưa cao. Từ những thực tế trên tôi quyết định chọn đề tài “
Một số giải pháp nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non ”.
Tôi hy vọng rằng với tâm huyết của mình sẽ góp phần nhỏ bé nâng cao được
chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên Trường mầm non Tề Lỗ
nói riêng và giáo viên mầm non nói chung.

2.

Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận, thực tiễn đề tài nhằm đánh giá thực trạng, tìm

ra các giải pháp” Nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non” .
Trong quá trình nghiên cứu đề tài giúp tôi hiểu rõ hơn về ứng dụng CNTT
vào tổ chức các hoạt động giáo dục, tích luỹ thêm kiến thức cho bản thân đồng
thời chia sẻ kinh nghiệm của mình cho đồng nghiệp. Cũng như giúp trẻ tiếp cận
với công nghệ thông tin một cách tích cực.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu.


Tìm hiểu cơ sở lý luâân và cơ sở thực tiễn về viêâc ứng dụng ứng dụng
công nghệ thông tin trong tổ chức các hoạt động giáo dục.
Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi ứng dụng công nghệ thông tin
vào tổ chức các hoạt động giáo dục.
Đưa ra môât số kinh nghiêâm khi ứng dụng ứng dụng công nghệ thông
tin trong các hoạt đôâng giáo
dục trẻ.
Đề xuất môât số biêân pháp nâng cao hiêâu quả viêâc ứng dụng CNTT và đẩy
mạnh ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non.
4.

Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng: Các phần mềm ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào

chương trình giáo dục mầm non.

Thực hiện trên giáo viên trường mầm non Tề Lỗ – huyện Yên Lạc – tỉnh
Vĩnh Phúc.
5.

Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã lựa chọn, sử dụng nhiều phương

pháp như sau:
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc và sử dụng các tài liệu, sách báo, tạp chí giáo dục mầm non, mạng
internet có liên quan đến đề tài.
Phương pháp quan sát.
Quan sát các hoạt động của cô và trẻ trong trường mầm non để nhận biết
về khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên mầm non.
Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại với giáo viên và trẻ để tìm hiểu về công nghệ thông tin và việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non.


Phương pháp kiểm tra khả năng tiếp thu bài của trẻ ở những giờ có sử
dụng bài soạn giảng giáo án điện tử và những giờ sử dụng theo phương pháp
soạn giảng truyền thống.
Phương pháp tổng kết, đúc kết kinh nghiệm thông qua hoạt động của bản
thân và đồng nghiệp.
6.

Giới hạn nghiên cứu.
Đề tài tập trung chủ yếu vào nghiên cứu ứng dụng các phần mềm công

nghệ thông tin của giáo viên, thực hiện việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động

giáo dục trẻ ở trường mầm non Tề Lỗ – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc.
7.

Kế hoạch nghiên cứu đề tài.
Mỗi tuần tôi dự giờ đồng nghiệp 2 lần để rút ra bài học cho bản thân đồng

thời học tập những kinh nghiệm của đồng nghiệp đã làm được để áp dụng vào
tổ chức các hoạt động giáo dục.
Đồng thời tôi dành 8 h mỗi tuần để nghiên cứu qua các tài liệu sách báo
có liên quan đến kiến thức tin học và tự bồi dưỡng qua mạng internet về cách sử
dụng các phần mềm liên quan đến giáo dục đặc biệt là giáo dục mầm non từ đó
lựa chọn và ứng dụng vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ sao cho phù hợp
nhất.
Từ điều kiện thực tế của nhà trường và bản thân nên đề tài bắt đầu thực
hiện nghiên cứu từ tháng 08/2010 kết thúc đến tháng 08/2013.
PHẦN II. NỘI DUNG.
1.

Cơ sở lí luận của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên .

2.

Khái niệm về công nghệ thông tin:
Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ Thông tin được hiểu và định nghĩa
trong nghị quyết Chính phủ 49/CP ngày 04/08/1993: “Công nghệ thông tin là tập
hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại –
chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông – nhằm tổ chức khai thác và sử dụng


có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong

mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội“.
Thuật ngữ “Công nghệ Thông tin” xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong
bài viết xuất bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết,
Leavitt và Whisler đã bình luận: “Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng.
Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin (Information Technology – IT).”
Các lĩnh vực chính của công nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử
lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi
các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh
vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ
tiếp theo, sinh tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy
mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong
ngành khoa học máy tính.
2.

Ứng dụng CNTT đối với Giáo dục mầm non.
Đất nước đang trong thời kì mở cửa để đưa các ứng dụng khoa học tiên

tiến cũng như đưa ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giáo
dục đặc biệt là giáo dục mầm non, thì các phương tiện như máy vi tính và những
kỹ thuật liên quan đã đóng vai trò chủ yếu trong việc lưu trữ, truyền tải thông tin
và tri thức đến con người hội nhập cùng cùng thế giới.
Tiếp tục hưởng ứng Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng
dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012.
Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong
các cơ sở giáo dục;
Công văn số 4960/BGDĐT-CNTT ngày 27/07/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011 – 2012. Trong đó có đề
cập đến vấn đề: Mỗi cán bộ và giáo viên có ít nhất một địa chỉ e-mail của ngành,

có tên dưới dạng @ tên-cơ-sở-giáo-dục.edu.vn, trong đó tên cơ sở giáo dục có
thể là moet, tên sở, tên phòng.


Công văn số 4987/BGDĐT-CNTT ngày 2/8/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2012 – 2013.
Trong đó có nội dung như sau:
Đẩy mạnh ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành và quản
lý giáo dục chỉ đạo ứng dụng CNTT trong học tập và giảng dạy theo hướng
người học có thể học qua nhiều nguồn học liệu; hướng dẫn cho người học biết
tự khai thác và ứng dụng CNTT vào quá trình học tập của bản thân, thay vì chỉ
tập trung vào việc chỉ đạo giáo viên ứng dụng ứng dụng công nghệ thông
tin trong giảng dạy, trong tiết giảng.
Tiếp tục triển khai cuộc thi “Thiết kế hồ sơ bài giảng e-Learning” do Bộ GDĐT và
Quỹ Laurence S.Ting tổ chức, với khẩu hiệu chung “Trong mỗi học kỳ, mỗi giáo
viên xây dựng ít nhất một bài giảng điện tử”.
Tạo thư viện mở huy động giáo viên tham gia góp ý các bài trình chiếu, bài
giảng E-learning.
Tiếp tục phát huy khả năng khai thác các phần mềm kidsmart cho trẻ thông qua
các ngôi nhà không gian và thời gian của Trudy, ngôi nhà khoa học của
Sammy,ngôi nhà toán học của Mili, ngôi nhà sách Happykid, ngôi nhà những đồ
vật biết nghĩ Thinking1; phần mềm kidspix, bút chì thông minh, bảng tương tác…
Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học.
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi
tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính) và e-learning (học dựa vào máy tính) trong đó:
CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết
bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các
phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự

tương tác người và máy.
E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên,
hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ


bản của hình thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, người học sẽ tự
làm chủ quá trình học tập của mình, người dạy chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học
tập cho người học.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất:
Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ
bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ ( CBT )
Một bên là hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi
người dạy chỉ là người hỗ trợ ( E-learning )
Phương pháp.
Sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy.
Nhà trường đã sử dụng tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử dụng bài
giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu
(projector),… Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công
cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác
từ truyền thống (tranh vẽ, dối tay,dối dẹt, mô hình,…) đến hiện đại (cassette, ti vi,
đầu video…). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn
thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn, tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể
tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến: Internet là
một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư
liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực và luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ.
Vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên là phải biết khai thác nguồn tài
nguyên phong phú trên Internet để làm tốt việc ứng dụng CNTT trong dạy học.

Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội. Đặc biệt, các
giáo viên nếu biết tận dụng những chức năng của blog thì hoàn toàn có thể sử
dụng blog để làm tốt hơn công việc giảng dạy của mình.
1.

Thực trạng nghiên cứu của việc ứng dụng“ Một số giải pháp nâng cao
chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên.

2.

Khái quát đăăc điểm tình hình trường mầm non Tề Lỗ.


Trường mầm non Tề Lỗ nằm trên địa bàn xã Tề Lỗ, huyêân Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc. Được đặt tại trung tâm xã, giao thông thuận tiện cho việc đi lại. Năm
học 2013 – 2014 nhà trường có 19 lớp với tổng số 545 học sinh, 100% các cháu
ăn bán trú tại trường. Toàn trường có 41 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Nhà
trường có môât khu trung tâm được xây dựng năm 2003 với tổng số 10 phòng
học kiên cố, đang được xây dựng thêm 6 phòng học kiên cố dự tính sẽ hoàn
thiêân vào tháng 1/2014. Ngoài ra Trường mầm non Tề Lỗ được trang bị các thiết
bị dạy học như mỗi phòng có môât máy tính, máy in vâân đôâng phụ huynh mua
mua ti vi và đầu đĩa, mỗi tổ có môât máy chiếu, ngoài ra trường còn có, máy chiếu
vâât thể, bảng tương tác, nối mạng Internet cho tất cả các phòng học, mua các
phần mềm như Kidsmart, Kidpix,Vui học chữ cái…. phục vụ cho việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy. Tuy vậy, trang thiết bị dạy học của trường
còn thiếu so với qui định số: 02/2010/TT- BGD&ĐT.
Tề Lỗ là một xã nằm ở phía tây bắc huyện Yên Lạc có diện tích tự nhiên
411,9 ha, dân số trên 9000 người/ 1900 hộ, được chia làm 5 thôn. Ngành nghề
chủ yếu của người dân là nông nghiêâp thu nhập kinh tế dựa trên đồng ruôâng là
chính. Ngoài ra còn môât số hôâ tiểu thương, buôn bán phế liêâu sắt vụn.

Trong những năm gần đây cùng với sự thay đổi của đất nước, dưới sự
lãnh đạo của Đảng uỷ xã, HĐND, UBND cùng với sự nỗ lực của mỗi người dân
nên đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân ngày càng ổn định. Phong trào giáo
dục có nhiều tiến bộ khởi sắc. Mặt bằng dân trí tương đối ổn định và ngày càng
phát triển.
Từ điều kiêân thực tế trường mầm non Tề Lỗ có những thuận lợi như.
Thuận lợi.
Trong nhiều năm qua nhà trường luôn đi đầu trong các phong trào thi đua của
ngành, các cuộc vận động nhà trường luôn đạt kết quả cao và nhiều năm đạt
danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, được tặng huân chương lao động hạng ba.
Bản thân tôi tiếp thu đầy đủ các chỉ thị, văn bản của các cấp, ngành về nhiệm vụ
trọng tâm của từng năm học theo chỉ thị số: 03/CT-TW ngày 14/05/2011. Từ đó


tôi xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của
địa phương, của trường, lớp phụ trách.
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của SGD& ĐT Vĩnh Phúc, PGD&
ĐT huyện Yên Lạc, BGH Trường mầm non Tề Lỗ đã quan tâm giúp đỡ tôi rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT do Tỉnh mở tại trung tâm Tin học nên
có sẵn trong mình những hiểu biết về Powerpoint, Internet. Đồng thời tôi cũng là
một giáo viên trẻ năng động và có kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc
các bước lên lớp và kĩ năng sư phạm cần thiết để tổ chức các hoạt động giáo
dục có hiệu quả.
Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn các
lớp tin học về CNTT do phòng giáo dục tổ chức. Đồng thời tôi cũng không ngừng
học tập, tìm hiểu về những phần mềm đồ họa khác để lấy thêm kiến thức cũng
như sưu tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc thiết kế bài giảng sinh động hấp
dẫn.
Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động

viên nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục được gắn bó với
đồng nghiệp, thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và
nhiệt huyết để nâng cao chất lượng giảng dạy trong từng hoạt động nói chung và
những khám phá về tin học nói riêng.
Khó khăn.
Trình độ về CNTT của giáo viên còn hạn chế, thời gian đứng lớp cả ngày nên
thời gian nghiên cứu còn hạn chế. Hơn nữa trình độ đào tạo không đáp ứng yêu
cầu, nắm bắt phương pháp giảng dạy mới còn rất nhiều hạn chế. Trình độ nhận
thức của một số giáo viên không đồng đều, khả năng ngoại ngữ của giáo viên
không có.


Một vài giáo viên năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. Cách soạn giảng
giáo án điêân tử còn nhiều lúng túng chưa linh hoạt.
Việc sử dụng thiết bị dạy học còn mang nặng tính hình thức, chưa thường
xuyên, liên tục. Dấu dốt ngại hỏi, ngại phát biểu ý kiến.
Thiết bị dạy hiện đại tuy đã có nhưng đã cũ, do đó chất lượng chưa cao
nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến viêâc nâng cao chất lượng ƯDCNTT của GV.
Đảng uỷ, chính quyền địa phương và nhân dân đã quan tâm tới giáo dục
nhiều hơn, xong còn chưa cụ thể, hỗ trợ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ
giáo viên, nhân viên nhà trường chưa được nhiều. Phụ huynh học sinh bận buôn
bán nên nhiều trẻ ở với Ông Bà vì vậy việc phối hợp và truyên truyền với phụ
huynh chưa được thường xuyên.
Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa
được nghiên cứu kỹ dẫn đến việc ứng dụng CNTT không đúng chỗ, không đúng
lúc nhiều khi quá lạm dụng. Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức CNTT chuyên sâu
cho giáo viên chưa được nhiều, trường chưa có phòng máy tính riêng nên trẻ sử
dụng máy tính chưa được nhiều.
Nguyên nhân.

Tất cả những tồn tại, hạn chế trên đây do các nguyên nhân khác nhau
như:
Về phía các cấp lãnh đạo mặc dù đã quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất
và hỗ trợ về tinh thần cho giáo viên như hưởng lương theo bằng cấp nhưng đôi
khi vẫn còn lỏng lẻo trong việc quản lý và việc đánh giá chất lượng chưa khoa
học.
Về một số giáo viên còn tự ti, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp. Một số giáo
viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, chưa nắm chắc
kiến thức cơ bản của bậc học.


2.

Đặc điểm của trẻ

Mỗi trẻ em tuổi mầm non là một chủ thể tích cực, sự phát triển của trẻ mang bản
chất văn hoá – xã hội, có tính duy nhất, phụ thuộc nhiều vào tình huống và là kết
quả của quá trình nội tâm hoá những gì chúng trải nghiệm, học được nhờ sự
tương tác với người khác (cha mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo, trẻ cùng
lớp.
Vậy ngay từ tuổi mầm non, trẻ cần phải được dạy như thế nào? Làm thế nào để
lập được một “bản đồ” về sự phát triển nhận thức, kỹ năng sống của trẻ, đánh
giá chính xác đâu là điểm mạnh, điểm yếu của trẻ? Và phải có những chiến lược
nuôi dưỡng, bồi đắp như thế nào, để hỗ trợ kịp thời sự phát triển trí tuệ, nhân
cách sớm giúp trẻ thành công.
Trẻ em thích nghe những điều chưa biết, thích tìm hiểu khám phá những cái
chưa thấy, những điều trẻ chưa được tiếp cận vì thế đưa ứng dụng CNTT vào
trong chăm sóc giáo dục trẻ sẽ kích thích tối đa trí tưởng tượng phong phú và
khả năng hoạt động của trẻ. Khi được tiếp cận với CNTT tuy nhiên lòng yêu
thích của các cháu còn ở nhiều mức độ khác nhau. Bên cạnh đó việc trẻ hứng

thú, ham thích say mê với công nghệ thông tin như thế nào còn phụ thuộc vào
hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình, giáo dục của người lớn xung quanh. Vì thế
ứng dụng công nghệ thông tin cũng là phương tiện phát triển trí tuệ, giáo dục
đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển thể chất và có sự tác động mạnh đến sự
tự tin của trẻ trong cuộc sống hàng ngày cũng như bước vào trường Tiểu học.
3.

Môăt số khảo sát thực tế của giáo viên trường mầm non Xã giao

châu – huyện giao thủy – tỉnh Nam Định.




×