Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quá trình xây dựng lực lượng sản xuất trong thời kì đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.5 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, con người không dừng
lại ở việc sắn bắn, hái lượm, không thỏa mãn với những cái có sẵn trong tự nhiên
mà luôn tiến hành sản xuất vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong đó,
các yếu tố chủ yếu để tiến hành sản xuất vật chất gồm lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Nhận thấy vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất trong quá
trình sản xuất vật chất, em đã chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về lực lượng sản xuất và quá trình xây dựng lực lượng sản xuất trong thời
kì đổi mới ở Việt Nam.” để làm rõ, tìm hiểu sâu thêm về lực lượng sản xuất khi
áp dụng vào thực tế Việt Nam. Trong quá trình làm bài chắc chắn không tránh
khỏi sai sót, em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý từ thầy cô.

NỘI DUNG
I. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về lực lượng sản xuất
1. Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành
sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của
con người. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất và thể hiện năng lực thực tiễn cuả con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
2. Các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất
Bất kì một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các yếu tố là
người lao động (như năng lực, tri thức, kỹ năng,… của người lao động) và các tư
liệu sản xuất (như đối tượng lao động, công cụ lao động, …). Đây là các yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất trong bất kì quá trình sản xuất vật chất.
1


Trong các yếu tố trên, người lao động đóng vai trò cơ bản và quyết định
trong quá trình sản xuất vật chất, họ là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất với
năng lực, tri thức, kĩ năng,… sử dụng tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao


động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất, thể hiện sự
chinh phục tự nhiên của con người. Cùng với quá trình sản xuất, trình độ lao
động của con người ngày càng được nâng cao với sự phát triển của giáo dục.
Ngày nay, từ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí óc ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất.
Tư liệu sản xuất lại bao gồm đối tượng lao động và công cụ lao động.
công cụ lao động là vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người vào
đối tượng lao động nhằm biến đối tượng lao động theo mục đích của mình. Công
cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Qua đó cho thấy, sự có mặt của công cụ lao động góp phần không nhỏ vào
sự hình thành và phát triển của quá trình sản xuất.
Đối tượng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên mà con người tác
động vào nhằm biến đổi hình thái tự nhiên của nó sao cho phù hợp với mục đích
của con người. Đối tượng lao động gồm hai loại: loại có sẵn trong tự nhiên như
đất, khoáng sản,..và loại đã trải qua lao động của con người. Đây là yếu tố cần
thiết để con người tác động vào, làm thay đổi môi trường sống và quá trình sản
xuất vật chất của con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động xã hội
loài người và khiến năng xuất lao động xã hội tăng và do đó tạo ra sản phẩm dư
thừa. Sự dư thùa này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế
độ tư hữu và xuất hiện giai cấp trong xã hội. Như vậy nguyên nhân sâu xa của sự
xuất hiện giai cấp trong xã hội chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất là một bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất, mà phương
2


thức sản xuất là một bộ phận của hình thái kinh tế xã hội. Sự thay thế hình thái
kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn đánh dấu một
bước phát triển mới của xã hội. Như vậy sự phát triển của lực lượng sản xuất góp
phần vào việc hình thành nên một chế độ xã hội mới. Tóm lại lực lượng sản xuất

đóng một vai trò quan trọng đối với sản xuất xã hội và quá trình phát triển của
lịch sử loài người. Do vậy vấn đề phát triển lực lượng sản xuất cần được coi
trọng và đề cao trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà có mối quan
hệ mật thiết trong đó người lao động đóng vai trò quyết định còn tư liệu sản xuất
đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất vật chất. Có thể thấy cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của
xã hội và sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã đưa văn minh nhân loại sang
một giai đoạn phát triển mới. Đó là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài các kiến
thức khoa học của việc đổi mới kỹ thuật sản xuất, và việc tăng quy mô sử dụng
kỹ thuật mới. Cho đến ngày nay, khoa học và công nghệ đã không ngừng phát
triển, tạo ra nhiều bước đột phá trong mọi lĩnh vực như: Trong lĩnh vực năng
lượng, nguồn năng lượng con người sử dụng ngày một đa dạng hơn như năng
lượng nước, gió, than, dầu, mặt trời, năng lượng nguyên tử và mới nhất là năng
lượng nhiệt hạch. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người đang
tìm kiếm một nguồn năng lượng sạch, an toàn và vô tận hơn. Trong lĩnh vực sản
xuất, từ hợp tác lao động giản đơn tiến lên phương thức sản xuất cơ khí với các
quy trình sản xuất và kỹ thuật được cơ giới hoá đến việc áp dụng các hệ thống
máy móc tự động vào trong sản xuất, giúp cho năng suất lao động ngày càng
tăng cao. Trong sản xuất vật liệu, chuyển từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên, đến
việc sử dụng kim loại, rồi các vật liệu tổng hợp, vật liệu siêu dẫn, và gần đây là
các loại vật liệu thông minh, vật liệu tàng hình… Như vậy, với việc áp dụng
3


khoa học kỹ thuật vào nhiều lĩnh vực, con người ngày càng phát triển văn minh,
tiến bộ, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của con người. Qua đây ta có thể thấy
khoa học công nghệ có vai trò to lớn đối với lực lượng sản xuất ở cả hai yếu tố là
người lao động và tư liệu sản xuất.
II. Quá trình xây dựng lực lượng sản xuất trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

1. Khái quát về thực trạng lực lượng sản xuất trước thời kì đổi mới
(trước năm 1986) ở nước ta
Trước thời kì đổi mới, lực lượng sản xuất của nước ta còn tồn tại rất nhiều
mặt hạn chế. Về người lao động, lao động nước ta rất cần cù, sáng tạo, có kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp song trình độ lao động nhìn chung còn thấp,
chỉ dựa vào kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, khả năng vận
dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp hay sản xuất công nghiệp
còn hạn chế, cùng với đó là sự lạc hậu về tư duy khiến mọi mặt của người lao
động lúc này trì trệ, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Về tư liệu sản xuất, thứ nhất, về công cụ lao động, còn thô sơ và lạc hậu,
nhất là trong nông nghiệp với cày, bừa và sử dụng dụng sức người và gia súc là
chủ yếu. Thứ hai, về đối tượng lao động lúc này là đất đai, cây trồng, vật nuôi,
sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào quy luật của thời tiết khí hậu, nên sản xuất
nông nghiệp lúc này thiếu chủ động, dễ bị mất mùa, năng suất lao động thấp.
Trong sản xuất công nghiệp, công cụ lao động là các máy móc, trang thiết bị
song lạc hậu và cho năng suất thấp, đối tượng lao động là khoáng sản, thủy sản,
… nhưng còn kém phong phú.
Cả hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất đều không đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của sản xuất, khiến nền kinh tế nước ta phát triển rất chậm
4


chạp, trì trệ, tạo khoảng cách phát triển ngày càng lớn so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, từ đây đặt ra yêu cầu bức thiết phải phát triển lực lượng sản
xuất về mọi mặt để bắt kịp với đà tăng trưởng của các nước trong khu vực cũng
như trên thế giới. Đại hội VI của Đảng (12-1986) cho rằng: “Kinh nghiệm thực
tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình

hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung
gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”. Đây là cơ sở để
tiến hành phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta.
2. Quá trình xây dựng lực lượng từ thời kì đổi mới đến nay
2.1. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất
Nhận thấy những hạn chế về lực lượng sản xuất trước thời kì đổi mới,
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách, biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng lực lượng sản xuất ngay từ sau Đại hội VI của Đảng (12-1986).
Đầu tiên là sự phát triển rõ nét của người lao động, đến năm 2005, số
người trong độ tuổi lao động ở nước ta là 42,53 triệu người, chiếm 51,2% tổng
dân số, với mức gia tăng dân số như hiện nay, mỗi năm nước ta có thêm khoảng
một triệu lao động. Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 02/2014, Việt Nam có
gần 90 triệu người. Nguời lao động Việt Nam gồm nông dân, công nhân, trí thức,
doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề khác. Điều này cho thấy số
lượng người lao động nước ta vô cùng đông đảo và tăng nhanh. Người lao động
nước ta cần cù, chịu khó, có kinh nghiệm sản xuất phong phú gắn với truyền
thống của dân tộc, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp được tích lũy qua nhiều thế
hệ. Chất lượng lao động ngày càng được nâng lên nhờ thành tựu trong sự phát
5


triển văn hóa, giáo dục, y tế. Trình độ lao động đã qua đào tạo năm 1996 là
12,3% đến năm 2005 đã tăng lên 25% so với tổng số lao động. Theo số liệu
thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người,
số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp
là 421.705 người. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
trong toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị
là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính
tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo
trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng

tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). Cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ và quá trình đổi mới đã và đang làm thay đổi
mạnh mẽ cơ cấu lao động nước ta. Về cơ cấu theo lao động theo các ngành kinh
tế: năm 2000, lao động trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp là 65,1%, lao động
trong ngành công nghiệp – xây dựng là 13,1%, lao động trong ngành dịch vụ là
21,8%, đến năm 2005 đã có sự thay đổi, lao động trong ngành nông – lâm – ngư
nghiệp là 57,3%, lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng là 18,2%, lao
động trong ngành dịch vụ là 24,5%, cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế và
cơ cấu lao động theo thành thị và nông thôn cũng đều có sự thay đổi.
Về sự phát triển của tư liệu sản xuất, phát triển mạnh mẽ hơn nữa công cụ
lao động với trình độ khoa học công nghệ cao là vấn đề bức thiết để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế tri thức. Khi công nghiệp vẫn
chủ yếu là khai thác tài nguyên, gia công, lắp ráp, công nghiệp chế tạo, chế biến
còn phát triển chậm thì định hướng đúng đắn trong phát triển khoa học - công
nghệ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội
XI (tháng 1/2011) của Đảng nêu rõ: “Ưu tiên phát triển và hoàn thành những
công trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị thay thế nhập
6


khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công nghệ cao sản
xuất linh kiện điện tử, máy tính, công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng,
hóa chất, luyện thép, xi măng, phân đạm… công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
quốc phòng, an ninh với trình độ công nghệ ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít
nguyên liệu, năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng”. Ưu tiên phát
triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản
xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản
thay thế cho cày, bừa, tốn nhiều sức người và gia súc mà năng suất lao động lại
không cao. Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm công
nghiệp có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ

thuật số, hệ thống tự động hóa. Đại hội đã đặt ra mục tiêu là phấn đấu đến năm
2020: “Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao
đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm
khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp”
Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) vững chắc: năm 2000
tăng gấp 2,07 lần năm 1990, năm 2010 tăng gấp 3,26 lần năm 2000. Thu nhập
bình quân đầu người tăng đáng kể: năm 1986 là 202 USD, năm 2008 là 1.000
USD, vượt qua ngưỡng nước nghèo và năm 2013 là 2.000 USD. Sự phát triển
lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng năm 1988
chiếm 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003: 40%, năm 2005: 41% và
năm 2010 là 41,1%. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988: 46,3%, năm
2003: 21,8%, năm 2005: 21%, năm 2010: 20,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP
1988: 33,1%, năm 2003 là 38,2%, năm 2005: 38% và năm 2010: 38,3%. Đó là

7


những con số rất có ý nghĩa mà các Đại hội của Đảng đã tổng kết thể hiện rõ vai
trò to lớn của lực lượng sản xuất ở nước ta.
2.2. Hạn chế trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện nay ở Việt
Nam
Thông qua thực tiễn, ta có thể thấy chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành
nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguời lao động còn
chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực
của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ lao động đã qua đào tạo, lành nghề vẫn còn rất
thiếu so với nhu cầu để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Số
lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, đã qua đào tạo lại khuynh hướng chỉ
hiểu biết lý thuyết và yếu về khả năng thực hành. Khả năng làm việc theo nhóm,

tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc
của nguời lao động còn rất hạn chế so với yêu cầu của công việc. Tinh thần trách
nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ
luật lao động của nhiều người lao động còn chưa cao. Năng suất lao động còn
thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng
suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang
phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia trong khi đó
năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
2.3. Nguyên nhân và một số phương hướng giải quyết những hạn chế
trong xây dựng lực lượng sản xuất ở nước ta.
Về nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng lực lượng sản xuất:
Thứ nhất, khả năng đầu tư cho phát triển người lao động của phần lớn các gia
đình ở nước ta còn hạn chế. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát
triển người lao động còn hạn chế. Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển người
8


lao động còn nhiều bất cập so với yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển
người lao động chưa được hiện thực hóa kịp thời. Thứ ba, hệ thống giáo dục
quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển người lao động của
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế như công tác định hướng nghề nghiệp cho học
sinh trung học phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa
thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội …Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực phát triển người lao động chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội
nhập về kinh tế, xã hội, văn hoá nước ta với thế giới.
Về một số phương hướng góp phần giải quyết những hạn chế trong xây
dựng lực lượng sản xuất trong thời gian tới như đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà
nước về phát triển nhân lực. Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ba là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam. Đổi mới mô hình tăng trưởng, thực sự coi khoa học

công nghệ là quốc sách hàng đầu. Thay đổi mô hình kinh tế, thực hiện tái cơ cấu
nền kinh tế theo chiều sâu, lấy “vốn con người” và khoa học công nghệ làm nền
tảng cho phát triển….

KẾT LUẬN
Qua đây ta có thể thấy tầm quan trọng của lực lượng sản xuất nói chung và
người lao động nói riêng đối với quá trình sản xuất vật chất, quá trình phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam, từ đó, mỗi người Việt Nam, nhất là những người trẻ
tuổi hiểu rõ hơn vai trò của mình đối với tương lai của đất như lời Bác Hồ đã căn
dặn: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần ở công học tập của các em"

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ giáo
dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
3. Hỏi đáp những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác- lênin. PGS.TS Trần
Văn Phòng (Chủ biên), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2005.
4. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2015-2020 đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, TS. Đặng
Xuân Hoan, Tổng Thư ký Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân
lực.
5. Ngày cập nhật: 17/4/2015.
6. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhìn từ quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, PGS., TS. Nguyễn Trọng Phúc, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Ngày cập nhật : 17/09/2014.

10



×