Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy phần lý thuyết nội dung binh khí súng tiểu liên AK và súng trường CKC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 57 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn học Giáo dục Quốc phòng – An ninh góp phần giáo dục toàn diện
cho học sinh về lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, niềm tự hào và sự trân
trọng đối với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, của
các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, có ý thức cảnh giác, làm thất bại
chiến lược “ Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và mọi âm mưu, thủ đoạn, phá
hoại của các thế lực thù địch; rèn luyện cho học sinh có kiến thức quốc phòng,
kĩ năng về quân sự trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Do đó, việc tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy – học
môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh là vô cùng ý nghĩa. Nó góp phần “phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh”, “bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật Giáo dục, điều
28).
Song phải thừa nhận một thực tế rằng, ở một bộ phận không nhỏ học sinh,
phụ huynh học sinh, người dân và cả một số ít giáo viên có biểu hiện coi thường,
xem nhẹ, không có hứng thú học môn học này. Việc nhận thức về môn học như
vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học của bộ môn.
Chính vì vậy việc đổi mới mạnh mẽ, sâu rộng phương pháp dạy và học, phương
pháp kiểm tra, đánh giá cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đặc điểm của môn GDQP-AN là giảng dạy lý thuyết xen lẫn các nội dung
học thực hành, cần sử dụng nhiều tư liệu và minh họa bằng hình ảnh trực quan
giúp cho người học dễ dàng nhận biết hình dung vị trí địa lý, các đường biên
giới quốc gia trên đất liền, trên biển, các đảo và các quần đảo, biết xác định chủ
quyền biên giới quốc gia Việt Nam...đồng thời nhận biết về các loại vũ khí trang
bị, cấu tạo của súng, đạn, lựu đạn và chuyển động gây nổ hay phương pháp
1


ngắm bắn được minh họa rõ ràng cụ thể, giúp cho người học nhanh chóng nhận


biết và áp dụng thực tế khi tiến hành tập luyện ngoài thao trường.
Ngày nay khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì việc ứng dụng
công nghệ thông tin (CNTT) vào các lĩnh vực là điều tất yếu. Công nghệ thông
tin là công nghệ hỗ trợ đắc lực trong việc đổi mới phương pháp dạy học góp
phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục nói chung và môn giáo dục quốc
phòng – An ninh nói riêng. Nhờ có CNTT mà sự sáng tạo trong việc chuẩn bị
các tiết dạy phong phú, đang dạng, khai thác có hiệu quả các thông tin trên mạng
Interrnet tích hợp nghe, nhìn làm cho bài giảng phong phú đạt kết quả cao.
Ứng dụng CNTT trong giáo dục nói chung là yêu cầu cấp thiết, có tác
dụng mạnh mẽ đối với mục tiêu, định hướng đổi mới phương pháp dạy học, là
phương tiện hữu ích giúp cho giáo viên sáng tạo lựa chọn những hình thức đổi
mới dạy học cho phù hợp với đối tượng.
Để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước, nền giáo dục Việt Nam
phải thực hiện một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện về nội dung lẫn phương
pháp dạy học (PPDH) như tinh thần của nghị quyết TW2 - khóa VIII của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, nhất là nhất là sinh viên đại học”. Vì vậy, với mong muốn đóng
góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả dạy học, tôi lựa chọn đề tài
nghiên cứu là: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy phần lý thuyết
nội dung binh khí súng Tiểu liên AK và súng Trường CKC”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác giảng dạy ở trường
THPT Trần Phú – Đà Lạt, đề xuất giải pháp cho việc khai thác thông tin, thiết
kế bài giảng nhằm giúp học sinh có hình ảnh trực quan sinh động, nhanh chóng
nhận biết vận dung, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào
2



những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn. Làm cho học là
một quá trình kiến tạo, học sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí
thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất
3. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu “ứng dụng CNTT trong giảng dạy phần lý thuyết nội
dung binh khí súng tiểu liên AK và súng trường CKC” cho học sinh khối 11,
Trường THPT Trần Phú – Đà Lạt
Khách thể điều tra: Học sinh khối 11, Trường THPT Trần Phú – Đà Lạt
4. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu:
+ Giai đoạn 1: Từ tháng 09/2012 đến hết tháng 05/2013.
+ Giai đoạn 2: Từ tháng 09/2013 đến tháng 05/2016
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC
ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY
1.1.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI

1.1.1. Ứng dụng
Ứng dụng là việc sử dụng các công cụ sẵn có để đạt được lợi ích trong
thực tế.
1.1.2. Công nghệ:
Công nghệ được hiểu tổng quát là sự áp dụng của khoa học vào các hoạt
động thực tiễn của con người trong đời sống xã hội.
1.1.3. Công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng
công nghệ quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và các phần

mềm của nó để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu thông tin. Theo
Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “Công nghệ
thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ
thuật hiện đại- chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông- nhằm tổ chức khai
3


thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và
tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
1.1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin
Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào
các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của
các hoạt động này.
1.1.5. Ứng dựng CNTT trong giảng dạy
Ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học là việc sử dụng các phương
pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để khai thác, sản xuất và
trao đổi thông tin số, phục vụ hiệu quả cho hoạt động dạy học của giáo viên. Cụ
thể hơn, ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học là việc sử dụng máy tính,
phần mềm máy tính và các thiết bị CNTT khác trong việc soạn bài, dạy học,
kiểm tra đánh giá, hỗ trợ học sinh học tập và cả việc nghiên cứu nhằm phát
triển chuyên môn.
1.1.6. Bài giảng điện tử
Bài giảng điện tử là bài giảng của giáo viên được thể hiện trên lớp nhờ
sự hỗ trợ của các thiết bị điện tử.
1.1.7. Giáo án điện tử
Là giáo án truyền thống của GV nhưng được đưa vào máy vi tính – giáo
án truyền thống nhưng được lưu trữ, thể hiện ở dạng điện tử.
Khi giáo án truyền thống được đưa vào máy tính thì những ưu điểm, thế
mạnh của CNTT sẽ phát huy: lưu trữ, hình thức, chia sẽ, xử lý, quản lý…

Giáo án điện tử không bao hàm có hay không việc ứng dụng CNTT trong
tiết học mà giáo án đó thể hiện
(Nguồn: Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS-môn Tin học Vụ
Giáo dục Trung học-Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2007 (trang
95+96))

4


1.2.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ỨNG DỤNG CÔNG

NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY PHẦN LÝ THUYẾT NỘI
DUNG BINH KHÍ SÚNG TIỂU LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC.
1.2.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu, chính sách và tình hình ứng dụng
CNTT trong giáo dục
Tổ chức UNESCO đã dự đoán việc tác động của công nghệ thông tin sẽ
làm thay đổi một cách căn bản nền giáo dục thế giới trong những năm đầu thế kỉ
XXI. Chính vì vậy từ thập niên cuối của thế kỉ trước, tổ chức này đã có những
chương trình hành động cụ thể, chủ yếu là thiết lập lộ trình ứng dụng công nghệ
thông tin, tài trợ cho các hội thảo khoa học của các nước, lập các dự án quản lí
và ứng dụng cách thành tựu mới của công nghệ thông tin trong giáo dục.
Nghị quyết TW2, khóa VIII đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học”.
Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT
về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành

giáo dục giai đoạn 2008-2012
Hướng dẫn nhiệm vụ CNTT năm học 2012-2013 của Bộ GD-ĐT yêu cầu
triển khai Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ
trong đó nhấn mạnh: “Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông
nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT
vào từng môn học thay vì học trong môn tin học. Giáo viên các bộ môn chủ
động tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để giảng dạy ứng
dụng CNTT”.
Trên thực tế đa số các môn học được giảng dạy ở tất cả các bậc học đã và
đang sử dụng CNTT một cách có hiệu quả mang lại hiệu quả trong công tác
giảng dạy. Đối với môn GDQP cũng như các môn học khác là môn học đòi hỏi
tính hệ thống, cần sử dụng nhiều tư liệu và minh hoạ bằng các hình ảnh trực
5


quan, giúp người học hình dung được về vũ khí trang bị, các kỹ thuật động tác
cơ bản, câu tạo và chuyển động của các loại súng… CNTT có vai trò rất quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến thức
của người học. Giáo viên có thể ứng dụng CNTT trong quá trình dạy học Giáo
dục Quốc phòng – An ninh đạt được hiệu quả như mong muốn.
1.2.2. Vai trò của công nghệ thông tin với dạy học:
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường học đang rất
được ngành giáo dục và xã hội quan tâm. Với mục tiêu dạy học tích cực – lấy
học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy và học để có thể phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo cho học sinh hứng thú trong học
tập. Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học tích cực. Một trong những công cụ hữu ích hỗ trợ cho giáo viên, đó
chính là ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học bởi những lí
do sau:
- Thứ nhất: Trong thời đại ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ

thuật thì việc ứng dụng CNTT vào dạy học là phù hợp với quy luật và là một
việc làm cần thiết, đem lại hiệu quả thiết thực.
- Thứ hai: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thứ ba: Công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện
dạy học, các phần mềm dạy học đã giúp giáo viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu
của học sinh, giúp học sinh có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt,
nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo
viên – học sinh.
- Thứ tư: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên
bố trí thời gian giảng dạy hợp lý, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo
tình huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo và kiểm tra đánh giá học
sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình
6


ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan
(hình ảnh, đoạn phim…)
- Thứ năm: Cập nhật, khai thác kho tri thức chung của nhân loại bằng các
công cụ đa phương tiện.
1.2.3. Tác động của CNTT và truyền thông mới đối với giáo dục
Phân loại các mô hình giáo dục theo cách tiếp cận thông tin:
Theo cách tiếp cận thông tin, tại “Hội nghị Paris về GĐH trong thế kỷ 21”
do UNESCO tổ chức 10/2008 người ta có tổng kết 3 mô hình giáo dục nêu ở
Bảng dưới đây. Trong các mô hình đã nêu, mô hình “trí thức” là mô hình giáo
dục hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của
công nghệ thông tin truyền thông mới - mạng Internet.

7



Bảng phân loại các mô hình giáo dục dựa trên các công nghệ cơ bản
theo cách tiếp cận thông tin

Mô hình
Truyền thống
Thông tin
Tri thức

Vai trò

Trung tâm

người học
Thụ động
Chủ động
Thích nghi

Người dạy
Người học
Nhóm

Công nghệ cơ bản
Bảng/TV/Radio
PC
PC+mạng

1.2.4. Sự cần thiết phải ứng dụng CNTT trong dạy và học
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản
trong quá trình đổi mới nội dung, PPGD. Cụ thể là:

- CNTT là một công cụ đắc lực để hỗ trợ cho việc xây dựng các kiến thức mới.
- Là phương tiện thông tin để khám phá kiến thức nhằm hỗ trợ cho quá
trình học tập.
- Phục vụ cho việc đổi mới PPGD. Tuỳ theo từng bài giảng, từng mảng
kiến thức hoặc tuỳ theo từng đối tượng học sinh mà giáo viên có thể vận dụng
một cách sáng tạo CNTT trong từng giờ, từng kiểu bài lên lớp.
- CNTT giúp cho bài giảng được sinh động hơn và hấp dẫn hơn, bằng
những phần mềm dạy học hoặc kết hợp các phần mềm đó với các phương pháp
giáo dục khác thành tổ hợp phương pháp giáo dục phức hợp.
1.2.5. Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh.
- Định hướng đổi mới phương pháp dạy học:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được cụ thể hóa trong Luật
Giáo dục, Điều 28.2: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ đông, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm;
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh.
8


Theo các nhà lí luận dạy học, phương pháp dạy học là cách thức, là con
đường đi tới nhận thức sự vật hiện tượng khách quan, là sự tập hợp các phương
tiện để đạt đến mục đích đề ra; Hay nói cách khác “phương pháp dạy học là tổ
hợp các cách thức phối hợp hoạt động một cách thống nhất của giáo viên và học
sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”. Do đó phương pháp dạy học, tuy có
nhiều cách hiểu khác nhau song tất cả đều hướng đến tính mục tiêu của quá trình
dạy học đó là vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Bên
cạnh đó, phương tiện dạy học là công cụ đóng vai trò quan trọng, là cầu nối
chung gian mang lại hiệu quả giáo dục. Vì vậy quá trình dạy học cũng chính là

quá trình truyền thông, bởi vì truyền thông là sự chuyển tải thông tin từ một
hoặc một nhóm đối tượng này đến một hoặc một nhóm đối tượng khác nhằm
cung cấp kiến thức, thay đổi nhận thức và cải biến hành vi của con người. Điểm
khác biệt ở dạy học và các loại hình truyền thông là ở chỗ: dạy học là quá trình
truyền thông nhiều chiều trong đó học sinh là đối tượng trung tâm, là chủ thể và
giáo viên đóng vai trò chủ đạo để quá trình truyền thông đạt hiệu quả.
Giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – An ninh là quá trình dạy học
mang tính đặc thù nhằm trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản về đường lối
quân sự, công tác quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước; những kỹ năng
quân sự, an ninh cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng
vũ trang nhân dân, sẵn sàng tham gia lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên
và làm nghĩa vụ quân sự, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời giáo dục ý thức trách nhiệm cho thế hệ
trẻ về các quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến
tranh nhân nhân, an ninh nhân dân; đấu tranh, phòng chống chiến lược “diễn
biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam
trong tình hình mới.
Qua môn học giúp cho học sinh hiểu biết và vận dụng thành thục thao tác
các kỹ năng quân sự cần thiết, biết sử dụng một số loại vũ khí bộ binh, thành
thạo trong sử dụng súng tiểu liên AK (CKC). Rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh
9


chính trị vững vàng, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; xây dựng tác phong nhanh
nhẹn; hình thành nếp sống có kỷ luật trong sinh hoạt tập thể, ý thức cộng đồng ở
trường, lớp và khi ra công tác.
Trong thời đại ngày này trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật và CNTT, việc ứng dụng công nghệ, khai thác thông tin trên mạng Internet
trở nên phổ biến, mọi tầng lớp trong xã hội có thể nhanh chóng tìm được các
thông tin khác đáp ứng các yêu cầu sử dụng khác nhau. Sự bùng nổ vệ thông tin

đặt ra nhu cầu tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin và giải quyết vấn đề đáp ứng
với yêu cầu của thời đại. Do đó đạo tạo ra con người có năng lực, có trình độ
nhận thức cao là mục tiêu hàng đầu của nhân loại và thế giới.
Đối với môn GDQP-AN cũng như các môn học khác tất cả đều nhằm mục
đích tích cực hóa hoạt động của học sinh, kích thích tư duy sáng tạo, đem lại
hiệu quả tích cực trong đổi mới phương pháp giảng dạy.
Ngoài ra, xét về góc độ tâm lí lứa tuổi, học sinh trung học phổ thông đang
trong giai đoạn phát triển của nhận thức và con đường nhận thức của các em
cũng không thoát khỏi quy luật: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và
thực tiễn. Do đó, việc sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học để có thể cung
cấp cho các em những tư liệu trực quan sinh động (Tranh ảnh, bản đồ, phim tư
liệu…), giúp các em biết và hiểu được bản chất của vấn đề lịch sử là hoàn toàn
phù hợp với các em.
Việt Nam đang trên đường đổi mới và hội nhập quốc tế nên không thể
không tiếp nhận những tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Vì vậy, việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học ở nước ta cũng là vấn đề cần thiết.

Chương 2:
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CNTT
TRONG GIẢNG DẠY

10


2.1.

Thực trạng cơ cấu, quy mô trường lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
vốn tài liệu đối với việc dạy và học môn giáo dục Quốc phòng – An
ninh.


2.1.1. Cơ cấu, quy mô trường lớp
Trường THPT Trần Phú có cơ cấu thường xuyên khoảng từ 30 đến 34
lớp/năm học, được bố trí trên quỹ đất khoảng 1,2 ha; trường chỉ học một
buổi/ngày (trừ hoạt động ngoại khóa và học bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo
học sinh yếu)
Diện tích sân bãi tập luyện hạn chế, có nhiều buổi học trên sân trường có
đến 06 lớp học thực hành ( cả thể dục và Quốc phòng). Chính vì vậy việc triển
khai cho cách hoạt động học tập và luyện tập cho học sinh rất khó khăn, đặc biệt
là các tiết học thực hành ném lựu đạn và ngắm bắn
2.1.2. Thực trạng cơ sở vật chất, thiết bị:
Hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường được
Sở GD – ĐT Lâm Đồng đầu tư, trang bị khá đầy đủ; tuy nhiên phần nào đó vẫn
chưa đáp ứng đủ cho việc giảng dạy của bộ môn…
Môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh là môn học liên quan nhiều đến các
loại tranh ảnh kỹ thuật như súng, đạn, lựu đạn, các mô hình học cụ khác, các loại
bản đồ... song hiện tại các các mô hình học cụ trên phần thì còn thiếu, phần chưa
đáp ứng được các yêu cầu giảng dạy môn học.
Những năm trước đây, vào đầu năm học, giáo viên phải lên Ban chỉ Huy
Quân sự Thành phố Đà Lạt mượn súng về huấn luyện, số lượng súng mượn
được cũng rất hạn chế; tối đa chỉ được mượn 04 khẩu súng Tiểu liên AK, không
mượn được súng Trường CKC (mà trong nội dung chương trình có nội dung
giới thiệu súng trường CKC”
2.1.3. Thực trạng về nội dung chương trình:

11


Nội dung chương trình còn cứng nhắc, quá tải, chú trọng vào kỹ năng tái
hiện không phải là kỹ năng “nóng”; nhiều bài chưa phù hợp, có nhiều tiết dạy
quá nhiều nội dung cần truyền đạt đến học sinh dẫn đến giờ học còn nặng nề,

chưa phát huy được tính tích cực tự giác của học sinh.
2.1.4. Thực trạng về tài liệu tham khảo, sách tham khảo của giáo viên
Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học của bộ môn còn hạn chế;
sách dùng cho giáo viên như sách hướng dẫn soạn giảng môn GDQP 10, 11, 12
hoặc chuẩn kiến thức kỹ năng,… còn quá đơn giản, chưa chi tiết, cụ thể, chưa
đáp ứng được nội dung chương trình. Trong khi đó môn GDQP là một trong
những môn học nặng về lý luận và tính chính trị-xã hội trực tiếp, mang tính
trừu tượng và khái quát cao. Bên cạnh những tri thức khoa học với nhiều
khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, quy luật cần phải được giải thích rõ, môn
học này còn phải chuyển tải đến người học nhiều nội dung quan trọng trong
đường lối quân sự, chính sách của Đảng và nhà nước ta,…
2.2.

Thực trạng nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học của đội ngũ
giáo viên GDQP
- Một bộ phận giáo viên của nhà trường, trong đó phải nói đến đội ngũ

giáo viên lâu năm, họ không muốn hoặc không tích cực đổi mới phương pháp
dạy học.
- Một bộ phận khá lớn giáo viên nhận thức rõ nhu cầu, sự cần thiết đổi
mới phương pháp giảng dạy và hoàn toàn ủng hộ cuộc đổi mới đó. Họ nhiệt tình
hăng hái đón nhận và thực hiện đổi mới nhưng gặp phải những khó khăn khi
thực hiện.
2.3.

Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên GDQP ở các
trường THPT.

2.3.1. Thực trạng hoạt động học tập của học sinh các trường THPT đối với môn
học GD Quốc phòng.

- Do tâm lý xã hội, áp lực thi cử dẫn đến nhận thức của một bộ phận học
sinh còn chưa đầy đủ, chưa đặt nhiều sự quan tâm đến môn học, ý thức thái độ
12


dành cho môn học thiếu tính nghiêm túc, học sinh quan tâm nhiều đến các môn
học mang lại lợi ích cho cá nhân, dành sự quan tâm cho các môn thi đại học.
Học sinh chỉ cần chú ý đến các nội dung tiến hành kiểm tra với ý thức chỉ cần
trên điểm trung bình nên sự hiểu biết về các nội dung học tập chưa sâu sắc, bên
cạnh đó một số học sinh có thái độ thờ ơ trước tình hình của đất nước.
- Về phương pháp tự học ở nhà cũng như tại lớp, học sinh vẫn đang nặng
nề về nghe giảng, chép và học thuộc bài hoặc giải các bài tập mà thầy, cô yêu
cầu; học sinh chưa chủ động suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập.
Các em chưa mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân. Những
nhược điểm này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa chủ động
trong học tập nên chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao.
2.3.2. Thực trạng về đội ngũ và việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo
viên bộ môn GD Quốc phòng
- Đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình, tận tâm, có năng lực trong giảng dạy và
giáo dục học sinh. Ngoài thuận lợi này, giáo viên GDQP cũng gặp không ít khó
khăn:
- Mỗi trường chỉ có một đến hai giáo viên bộ môn GDQP, nên việc trao
đổi kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vu là hạn chế.
- Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hầu như được đào tạo
từ các lớp ngắn hạn (6 tháng) và hằng năm được tập huấn về chuyên môn nhưng
do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội về chuyên môn có
hạn nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy.
- Việc sử dụng các phương tiện thông tin truyền thông hoặc phối hợp
nhiều phương tiện dạy học chưa được thực hiện thường xuyên. Việc cập nhật
trình độ tin học cho giáo viên chưa đồng đều. Điều đó đã tạo ra một khoảng cách

về nhận thức giữa thầy và trò, giữa các thế hệ nhà giáo.
- Một số giáo viên ngại soạn giáo án điện tử vì tốn thời gian và sợ vất vả.
Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn
còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né
13


tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi
được trong một sớm, một chiều
- Từ thói quen thuyết giảng, không ít người chỉ “chạy” theo khối lượng
kiến thức có trong sách giáo khoa, không quan tâm đến việc tìm ra những biện
pháp tác động đến quá trình nhận thức của học sinh. Đây là thói quen, cũng là
rào cản của giáo viên khi đổi mới PPGD.
- Việc hướng dẫn học sinh tự học trong giáo viên và trong các nhà trường
chưa được quan tân đúng mức.
2.4.

Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy bộ môn GD Quốc
phòng
Hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên môn GDQP

khá phổ biến ở các trường THPT, điều đó giúp phát huy tính tích cực tự giác
trong học tập và nâng cao kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên việc ứng
dụng CNTT vào giảng dạy còn một số tồn tại:
- Còn nhiều giáo viên vẫn sử dụng PPDH truyền thống, phương tiện là
phấn trắng bảng đen. Một số ít giáo viên có sử dụng máy chiếu qua đầu hoặc
Projector, soạn bài giảng điện tử bằng phần mềm Powerpoint trong những tiết
dạy tốt, thao giảng. Tuy nhiên các giờ dạy đó chỉ thực hiện một cách riêng lẻ,
không có hệ thống, chưa chuẩn bị kỹ về mọi mặt của vấn đề PPDH, do vậy thực
chất những tiết giảng rời rạc đó chưa thể làm thay đổi được bản chất của quá

trình dạy học để có thể nâng cao chất lượng dạy học môn học.
- Giáo viên một số trường còn ít hoặc chưa được quan tâm do giáo viên
ngại soạn giáo án điện tử vì tốn thời gian hoặc trình độ CNTT còn hạn chế.
- Việc sử dụng CNTT của một số giáo viên môn GDQP chưa được nghiên
cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi
nó còn bị lạm dụng để làm thay phần việc của giáo viên.
2.5.

Thực trạng mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học và kết quả
học tập của học sinh:
- Qua nhiều năm giảng dạy theo nội dung chương trình của bộ môn

GDQP khi chưa dụng CNTT trong dạy học tôi nhận thấy rằng: Sự hứng thú
14


trong học tập của học sinh đạt kết quả chưa cao, các em học sinh còn chưa phát
huy tinh thần và thái độ khi học môn GDQP.
- Một số học sinh yếu kém ngày càng có thái độ nhàm chán khi học bộ
môn.
- Đầu năm học 2012 - 2013, tôi khảo sát sự hứng thú của học sinh với bộ
môn Giáo dục Quốc phòng khi chưa áp dụng CNTT trong giảng dạy (khảo sát
bằng cách phát phiếu khảo sát) ở 03 lớp cùng khối kết quả cho thấy:
Bảng kết quả điều tra mức độ hứng thú của học sinh đối với bộ môn
GDQP
năm học 2012-2013
Lớp

Sĩ số
Hứng thú


11A1
11A5
11A7
11A10

36
36
38
37

7
8
8
10

Mức độ hứng thú của học sinh
Không
Tỉ lệ
Bình
Tỉ lệ
hứng
%
thường
%
thú
19.4
36.1
13
16

22.2
38.9
14
14
21.1
34.2
13
17
27.0
32.4
12
15

Tỉ lệ
%
44.4
38.9
44.7
40.6

Kết quả kiểm tra nội dung nội dung “ kỹ thuật sử dụng súng Tiểu liên
AK và súng trường CKC” khi chưa ứng dụng CNTT vào giảng dạy
GIỎI

KHÁ

TRUNG

(Tỷ lệ


(Tỷ lệ

BÌNH

%)

%)

(Tỷ lệ %)

2010 – 2011

19.1

44.8

2011-2012

19.7

43.3

Xếp
loại
Năm học

YẾU

KÉM


(Tỉ lệ %)

(Tỉ lệ %)

31.4

4.7

0.0

32.2

4.8

0.0

- Kết quả điều tra cho thấy số học sinh không hứng thú với môn học
chiếm tỉ lệ rất cao dẫn đến kết quả học tập của học sinh cuối năm học chưa cao,
chứng tỏ một phần do phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp, còn
15


chưa cuốn hút được học sinh. Chính vì vậy việc làm cấp thiết là phải đổi mới
phương pháp giảng dạy.

Chương 3:
ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY PHẦN
LÝ THUYẾT
NỘI DUNG BINH KHÍ SÚNG TIỂU LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC

CHO HỌC SINH KHỐI 11 – TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ – TP ĐÀ LẠT
3.1.

CÁC NGUYÊN TẮC ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP

- Nguyên tắc tính kế thừa
- Nguyên tắc tính đồng bộ, hệ thống.
- Nguyên tắc tính hiệu quả.
3.2.

ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG GIẢNG DẠY PHẦN LÝ THUYẾT NỘI DUNG BINH
KHÍ SÚNG TIỂU LIÊN AK VÀ SÚNG TRƯỜNG CKC” CHO HỌC
SINH KHỐI 11 – TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ – TP ĐÀ LẠT

3.2.1. Ứng dụng CNTT cho bài: Giới thiệu súng Tiểu liên AK và súng
trường CKC”
3.2.1.1. Ứng dụng công nghệ thông tin cho thiết kế nội dung phần giới thiệu
tác dụng, tính năng chiến đấu súng AK.
16


1) Mục đích của biện pháp:
Qua hình ảnh trực quan giúp học sinh nhận biết một cách dễ dàng súng
Tiểu liên AK và súng Tiểu liên AK cải tiến là: AKM và AKMS. Biết được tác
dụng và tính năng chiến đấu của súng.
2) Cách thực hiên:
- Khi giảng dạy giới thiệu các loại súng AK: Súng AK có 3 kiểu là
AK47, AKM, AKMS. Ba kiểu súng trên đều là súng AK song tác dụng, cấu tạo,
tính năng chiến đấu của mỗi loại khác nhau, khối lượng cho 3 loại súng trên

cũng khác nhau. Vì vậy khi giảng dạy không áp dụng CNTT giáo viên cần
chuẩn bị súng AK cắt bổ hoặc súng nhựa conposite làm mô hình giới thiệu để
học sinh nhận biết hình dáng, cấu trúc bên ngoài như vậy học sinh chỉ nhận biết
loại súng AK47, còn súng AKM và AKMS không có. Chính vì vậy học sinh
không hình dung được hình dáng và những loại súng có ưu việt thế nào để so
sánh. Buộc giáo viên phải mô phỏng và giải thích bằng lời để học sinh hình
dung do đó có những hạn chế nhất định, chưa tạo ra sự hứng thú.
- Còn khi ứng dụng CNTT: Giáo viên hoàn toàn có thể sưu tầm các loại
súng trên trên mạng Interrnet, sau khi giới thiếu tác dụng tính năng, cấu tạo của
các loại súng, giáo viên có thể cho học sinh xem các hình ảnh, các đoạn video
clip về sự khác nhau của súng. Như vậy học sinh dễ dàng nhận biết, học sinh tự
biết so sánh những ưu việt khác nhau của từng loại súng.

17


Ví dụ như các hình ảnh dưới đây.

4.

Qua đó giáo viên đặt các câu hỏi cho học sinh trả lời về khối lượng các
loại súng, sự khác nhau về tốc độ bay của đầu đạn, về tầm bắn của các loại
súng... với cách thiết kế bài giảng có cung cấp thông tin, có câu hỏi phát vấn và
kết luận vấn đề sẽ nhanh chóng giúp học sinh nhận biệt và khắc sâu, tạo sự hưng
phấn cho học sinh tiếp thu và tự biết đánh giá.
3.2.1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin thiết kế nội dung phần cấu tạo súng
AK.
1) Mục đích của biện pháp:
Qua hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh nắm được cấu tạo và tác
dụng từng bộ phận của súng tiểu liên AK.

2) Cách thực hiện:
18


- Khi giảng dạy bằng phương pháp thông thường buộc giáo viên phải tháo
từng bộ phận của súng để giới thiệu, trong đó có nhiều chi tiết của súng không
thể tháo rời, hoặc các chi tiết của bộ phận trên súng rất nhỏ khó khăn cho việc
quan sát của học sinh nên sự nhận biết thiếu rõ ràng và chưa tạo ra sự hứng thú
cho học sinh học tập.
- Thiết kế nội dung trình chiếu powerpoint để giới thiệu 11 bộ phận chính
của súng AK vừa giới thiệu được các chi tiết của các bộ phận của súng, vừa giúp
học sinh quan sát được rõ các bộ phận.

1. Nòng súng:

2. Bộ phận ngắm.
19


3.Hộp khoá nòng và nắp hộp khoá nòng.

Lỗ chứa mấu nắp hộp khoá nòng

Cửa thoát vỏ đạn

4. Bệ khoá nòng và thoi đẩy

20

Sống tăng độ cứng



5. Khúa nũng.

6. B phn cũ.
Lũ xo bỳa

Bỳa

Tay cũ

21

Cn nh cỏch bn v khúa an
tonCần định cách bắn và


7. Bộ phận đẩy về.

8. Ống dẫn thoi và ốp lót tay.

9. Báng súng và tay cầm.

10. Hộp tiếp đạn.
22


11. Lê:

3.2.1.3. Ứng dụng CNTT cho phần lý thuyết cấu tạo đạn K56.

1) Mục đích của biện pháp:
Bằng hình ảnh trực quan giúp học sinh nắm được Đạn K56 cấu tạo gồm
những bộ phận nào, có bao nhiêu loại đầu đạn và nguyên lý chuyển động của
viên đạn khi bắn.
2) Cách thực hiện:
- Nếu ở phương pháp giảng dạy truyền thống phấn trắng, bảng đen giáo
viên cần có tranh ảnh kỹ thuật về các loại đạn cắt bổ hoặc đạn cắt bổ để giới
thiệu cấu tạo của đạn, song phương pháp này có nhược điểm số lượng đạn cắt bổ
ít, tranh kỹ thuật về đạn không có, mất nhiều thời gian để vẽ tranh, quản lý sử
dụng thiết bị chưa thuận tiện cho giảng dạy.
- Ứng dụng CNTT vẫn khai thác đầy đủ các thiết bị dạy học nêu trên, kết
hợp với hình ảnh mầu, hiệu ứng đa chiều, kết hợp âm thanh và dễ dàng tìm kiếm
nhiều các tư liệu giúp cho việc thiết kế bài dạy phong phú, đang dạng và hiệu
quả, tạo sự hứng thú cho học sinh.
- Ví dụ: Cấu tạo đạn K56 gồm: Vỏ đạn , Đầu đạn, hạt lửa , thuốc phóng

23


Đầu đạn
Vỏ đạn
Thuốc phóng
Hạt lửa
Đạn cháy

Đạn xuyên cháy

Đạn vạch đường

Đạn thường


Hơn thế nữa giáo viên còn có thể cho học sinh quan sát hình ảnh (phim)
chuyển động các thời kỳ cháy của viên đạn, để các em ý thức được rõ hơn từ
quá trình hoạt động đó của viên đạn dẫn đến chuyển động của súng khi bắn ở
nội dung tiếp theo của bài học.

3.2.1.4. Ứng dụng CNTT khi giảng dạy phần chuyển động của súng khi bắn
1) Mục đích của biện pháp:
- Qua hình ảnh Flast giúp học sinh quan sát một cách chi tiết, cụ thể, sinh
động quá trình chuyển động của súng khi viên đạn được bắn ra. Từ đó giúp các
24


em hiểu rõ hơn về quá trình hoạt động của súng; mặt khác tạo sự hứng thú cho
học sinh, phát huy tính tích cực tự giác của học sinh khi trong học tập và rèn
luyện.
2) Cách thức thực hiện:
- Giáo viên thiết kế bài giảng trên powerpoint, đưa bản plat các nguyên lý
chuyển động của súng khi bắn để học sinh quan sát, giáo viên chỉ cho học sinh
nhận biết cách nạp đạn vào buồng đạn, khi bóp có búa đập vào kim hỏa, kim hỏa
chọc vào hạt lửa, …
Qua quan sát hình ảnh chuyển động của súng, giáo viên yêu cầu học sinh
phát biểu nguyên lý chuyển động của súng khi bắn. Tôi tin rằng các em rất hứng
thú trong học tập và dễ dàng trả lời được câu hỏi của giáo viên đặt ra

3.2.1.5. Ứng dụng CNTT cho giảng dạy phần cách lắp và tháo đạn
1) Mục đích của biện pháp:
- Để học sinh nắm vững được phương pháp tháo đạn ra khỏi hộp tiếp đạn
và lắp được đạn vào súng, giúp các em khi học phần thực hành không bị bỡ ngỡ.
2) Cách thức thực hiện

Cho học sinh quan sát phim hoặc hình ảnh cách tháo hoặc lắp đạn để
giúp các em nắm được cách tháo và lắp đạn

25


×