Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

các tác phẩm văn học sau cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.95 KB, 6 trang )

Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà

Tây Tiến: Một bài thơ toàn bích, đẹp lời, đẹp ý, có 34 câu, câu nào cũng nội lực thâm hậu.
a) Tác giả: Quang Dũng (1921 – 1988).
- Là 1 nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
- Được biết đến nhiều là 1 nhà thơ.
- PC: Thơ ông phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và rất mực tài hoa.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Tây Tiến là tên 1 đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ tiến về phía Tây, kết hợp với quân đội Lào
đánh thực dân Pháp ở dọc biên giới Tây Bắc VN. Địa bàn hoạt động của đoàn quân khá rộng, bao gồm Lai Châu, Sơn La,
Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nứa.
- Chiến sĩ Tây Tiến ngày ấy phần đông là thanh niên học sinh Hà Nội. Họ phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng gian
khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội khiến nhiều người ngã xuống hy sinh. Tuy vậy các chiến sĩ Tây Tiến vẫn
chiến đấu dũng cảm, tâm hồn lãng mạn, phơi phới, lạc quan, yêu đời.
- Sau 1 thời gian hoàn thành nhiệm vụ, đoàn quân trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng
chuyển sang đơn vị khác và nhận nhiệm vụ mới.
- Một buổi chiều ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông cũ), nhớ về đồng đội của mình, Q.Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Sau đó
đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô (1986)
c) Chủ đề:
Bao chùm bài thơ là một nỗi nhớ. Dõi theo mạch cảm xúc, có thể thấy dòng hồi ức được mở đầu là những cuộc hành quân
gian khổ mà hào hùng, tiếp đến là những kỉ niệm về con người miền Tây nồng ấm mà trữ tình, về thiên nhiên miền Tây
hùng vĩ mà thơ mộng. Nhưng hằn sâu trong tâm trí tác giả vẫn là hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trẻ trung và ngang tàng, đa
cảm và hào hoa,…
Phần kết có thể coi là khúc vĩ thanh vừa nhắc nhở lời hẹn ước thuở đoàn quân hăm hở lên đường, vừa nhắc nhở 1 đoạn
đời không thể nào quên của những người trẻ tuổi nói riêng và của cả dân tộc nói chung.
d) Nghệ thuật:
- Bút pháp lãng mạn:
Biểu hiện ở:
+ Cái tôi tràn đầy cảm xúc.
+ Khả năng phát huy cao độ trí tưởng tượng, tô đậm cái tuyệt mĩ, cái phi thường.
+ Nghệ thuật tương phản đối lập được sd triệt để trong việc tả cảnh cũng như tả người.


- Hình ảnh thơ gợi cảm, tinh tế.
- Ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, chất nhạc và chất họa.
- Giọng thơ gân guốc, rắn rỏi, đọc lên không êm tai. Nhưng có dấu ấn rất riêng khó phai mờ trong tâm trí người đọc.
- Chất lãng mạn, bi tráng kết hợp hài hòa tạo nên phong cách thơ Quang Dũng.

Vợ chồng A Phủ
a) Tác giả:
Tô Hoài (1920) từng được mệnh danh là nhà văn của phong tục. Tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết
sâu sắc về phong tục tập quán nhiều vùng đất, khả năng quan sát thực tế, lối kể chuyện tự nhiên, hóm hỉnh và vốn ngôn
ngữ phong phú.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi dài ngày ấy, nhà văn đã thực hiện 3 cùng:
cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu với đồng bào các dân tộc với mục đích là để sống gắn bó và tìm hiểu cuộc sống nhân dân
vùng cao. Tô Hoài từng thốt lên: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá..” Và ông viết
“Vợ chồng A Phủ” như một cách để trả ơn sâu nghĩa nặng cho mảnh đất và những con người một thời gắn bó máu thịt với
nhà văn.
- “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Tập truyện gồm 3 phần: “Cứu đất cứu mường”, “Mường
Giơn”, “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm từng được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955
c) Chủ đề: Diễn tả nỗi thống khổ của người dân lao động miền núi và tinh thần đấu tranh tự giải phóng mình để đến với
cách mạng của họ.
d) Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật điển hình, có cá tính rõ rệt.
- Nghệ thuật miêu tả độc đáo
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sống động, các tình tiết dẫn dắt khéo léo. Giọng trần thuật hòa vào độc thoại nội tâm
nhân vật, quá khứ - hiện tại đan xen, mạch kể biến hóa không ngừng → hấp dẫn & lôi cuốn.
- Ngôn ngữ kể chuyện giàu màu sắc miền núi nhưng không sao chép tự nhiên mà được chắt lọc tinh tế → ấn tượng khác
lạ cho người đọc
Ngôn ngữ giàu chất tạo hình vừa gợi cảm, vừa gợi nhiều liên tưởng phong phú cho người đọc.

Văn học sau cách mạng


1


Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà

Việt Bắc
a) Tác giả: Tố Hữu (1920 – 2002)
- Quê: h.Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Gia đình nhà nho nghèo có truyền thống văn chương.
- Là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng VN
- PCNT: Là nhà thơ của lí tưởng cộng sản. Thơ mang khuynh hướng trữ tình-chính trị, đậm chất sử thi. Giọng thơ rất
riêng: Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, chia sẻ. Là “Nhà thơ của tình thương mến”. Thơ giàu tính dân tộc đại chúng.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7/1954, hiệp định Gieneve được kí kết, miền bắc hoàn toàn giải phóng. T10/1954,
trung ương Đảng, chính phủ và Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng rời căn cứ địa Việt Bắc về thủ đô HN. Đây là cuộc
chia tay có ý nghĩa lịch sử giữa chiến sĩ cách mạng và đồng bào VB. Từ biệt VB cũng là có nghĩa là từ biệt những ngày
gian khổ ở núi rừng để về với phố phường phồn hoa đô hội, với cuộc sống đầy đủ tiện nghi hiện đại. Ngày ấy vui thì vui
thật đấy, nhưng trong lòng người đi kẻ ở không tránh khỏi những bâng khuâng, hụt hẫng, lo âu.
- Đối với người cán bộ về xuôi nói riêng và con người Việt Nam nói chung, 1 vấn đề đặt ra trong tư tưởng là vấn đề tình
nghĩa thủy chung đối với kháng chiến. Việt Bắc của Tố Hữu ra đời đã góp phần giải đáp vấn đề ấy. VB là lời nhắn gửi
chân thành: bước sang giai đoạn hòa bình, con người Việt Nam vẫn thủy chung với truyền thống dân tộc, vẫn gắn bó với
VB và cách mạng. Bài thơ được coi là đỉnh cao của thơ kháng chiến và được mang tên cho cả tập thơ của Tố Hữu. Tập
thơ Việt Bắc.
c) Chủ đề: Là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Qua cuộc đối đáp có tính chất người đi-kẻ ở như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương, bài thơ tái
hiện chân thực cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến. Đồng thời khẳng định nghĩa tình gắn bó keo sơn của
con người Việt Nam đối với kháng chiến và cách mạng
d) Nghệ thuật:
- Thể thơ lục bát truyền thống của VN →Tạo ra âm hưởng thống nhất, sự biến hóa đa dạng không nhàm chán. Đánh thức
tâm hồn người đọc, tình yêu đối với thơ ca dân tộc.

- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ đậm màu sắc truyền thống.
+ Cây đa, mái đình, dòng sông,… trong ca dao → sống dậy hồn của quê hương xứ sở.
+ Kết cấu “mình-ta”
- Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, chia sẻ.
- Việt Bắc tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu: nhà thơ trữ tình - chính trị.

Người lái đò sông Đà
a) Tác giả: “Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ” (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh).
Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa, uyên bác, phong cách nghệ sĩ, lối sống phóng khoáng, đài các, cầu kì, lịch
lãm, tinh tế. Ông am hiểu nhiều ngành văn hóa, nhiều môn nghệ thuật khác nhau: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, sân khấu,
… và thường sử dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật để quan sát và diễn tả nghệ thuật trong văn chương.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Là kết quả của chuyện đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân năm 1958.
- Người lái đò sông Đà rút ra từ tập tùy bút Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Tùy bút gồm 15 bài tùy bút và 1 bài thơ
phác thảo.
c) Chủ đề:
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng nhưng cũng
hết sức khắc nghiệt, dữ dội của đất nước mình. Những người dân lao động trên đất nước ta trí dũng thật tuyệt vời. Họ đã
đổ bao mồ hôi, nước mắt và tâm huyết vật lộn với thiên nhiên, với các lực lượng đen tối của xã hội thức dân phong kiến
để tồn tại và chiến thắng.
d) Nghệ thuật:
- Chất tài hoa, uyên bác:
+ Nếu trước CM, nhà văn đi tìm con người tài hoa trong “Vang bóng 1 thời” thì sau cách mạng Tháng Tám, ông đi tìm
những người tài hoa trong lao động mà ông lái đò là tiêu biểu.
+ Vận dụng nhiều ngành NT: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc, quân sự, võ thuật, bóng đá,…
+ Vận dụng nhiều kiến thức: lịch sử, địa lí,.. bộc lộ vốn văn hóa sâu rộng hiếm có.
- Khả năng tổ chức câu văn co duỗi nhịp nhàng, cách so sánh, nhân hóa độc đáo, mới lạ, tạo câu văn giàu hình ảnh và
cảm xúc. Trong bài có nhiều giọng điệu khác nhau được phối hợp: sôi nổi khẩn trương như trong trận đánh, trầm tư thơ
mộng như suy tư đầy cảm xúc → không nhàm chán
- Sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập để khắc họa bản chất con sông và nhân vật ông lái đò.

- Vốn từ vựng giàu có và sinh động: gọi con sông Đà bằng nhiều cách gọi: “con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”, “cái
dây thừng ngoằn ngoèo trên đầu Tây bắc”, “áng tóc trữ tình”, “cố nhân”, “tình nhân”, “con sông ăn đời ở kiếp với người
Thái”,…

Vợ nhặt
Văn học sau cách mạng

2


Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà
a) Tác giả: Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. ÔNg là nhà văn của nông thôn và của người nông dân sau lũy tre
làng_những con người nghèo khổ, thiếu thốn mà yêu đời, yêu sống, thật thà chất phác mà thông minh, hóm hỉnh
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- “Vợ nhặt” có tiền thân từ truyện dài “Xóm ngụ cư”_bản thảo viết ngay sau cách mạng Tháng Tám những chưa in.
- Năm 1961, nhà văn viết lại 1 chương trong “Xóm ngụ cư” và đổi tên thành “Vợ nhặt”. “Vợ nhặt” được in trong tập “Con
chó xấu xí” (1962)
c) Chủ đề:
- Tác phẩm viết về nạn đói năm 1945_nạn đói lớn nhất của dân tộc Việt Nam ta do Nhật và Pháp gây nên, làm hơn 2 triệu
người Việt Nam bị chết. Những nhân vật trong truyện đều được gợi từ thực tế mà nhà văn quan sát và có hư cấu thêm.
Kim Lân từng kể lại: “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý nghĩ là khi đói người ta khổ cực chỉ muốn chết. Tôi định
viết một số truyện ngắn nhưng với ý khác là: Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con
đường sống. Dù cho tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng,
vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.
d) Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề của tác phẩm đã chứa đựng một tình huống truyện độc đáo, thú vị: “Vợ nhặt” có nghĩa là anh nông dân trong
truyện nhặt được vợ. Trong quan niệm của nhân dân ta thời ấy, chuyện lấy chồng, lấy vợ không phải là chuyện nhỏ hoặc
có thể làm qua loa cho xong. Đó là chuyện hệ trọng, trăm năm của đời người cho nên phải hết sức thận trọng và chu đáo.
Chính Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” cũng viết: “Trăm năm tính chuyện vuông tròn/ Phải dòm cho kĩ ngọn nguồn
ngách sông”. Vậy mà anh Tràng trong truyện ngắn của Kim Lân lại nhặt được vợ, nhặt được một người đàn bà lang thang

ở ngoài đường về để làm vợ, không mối lái, không dạm hỏi, không cưới xin gì. Chuyện nghiêm túc thiêng liêng của cả
đời người bỗng trở thành một sự tình cờ ngẫu nhiên và ngược lại, chuyện ngẫu nhiên bất ngờ bỗng trở thành chuyện hệ
trọng của cả đời người. Hai chữ “Vợ nhặt” chứa đựng một tình huống không bình thường nếu không nói là độc đáo, lạ
lùng, hứa hẹn một thiên truyện hấp dẫn, lí thú.
- Nhan đề “Vợ nhặt” đã ngầm diễn tả được nỗi thống khổ của người nông dân Việt Nam trong thân phận bọt bèo rẻ rúng
của họ. Đồng thời thể hiện được sự đồng cảm, xót thương của nhà văn đối với nhân vật Tràng. Từ đó toát lên giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
e) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, éo le, trớ trêu, độc đáo, hấp dẫn: tình huống nhân vật Tràng bỗng nhiên
nhặt được vợ trong nạn đói 1945.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật theo bút pháp hiện thực. Các nhân vật hiện lên chân thực, đời thường, tự nhiên, gần gũi.
Nội tâm nhân vật được miêu tả tinh tế. Tiếu biểu nhất là tâm lí nhân vật bà cụ Tứ.
- Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật rất giản dị, đời thường, tự nhiên, sống động, cứ ý như lời nói ngoài đời thường. Tác
giả chẳng có gì là nghệ thuật nhưng đó lại là thứ nghệ thuật điêu luyện, bậc thầy của nhà văn một lòng đi về với đất, với
người, với quê hương.

Rừng xà nu
a) Tác giả: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có viết: “Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi rừng, là nhà văn hóa
của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền “Rẻo cao” đất nước”. Nhà văn gắn bó với Tây Nguyên trong suốt 2
cuộc kháng chiến dài lâu của dân tộc. Ông đã cho ra đời những tác phẩm đặc sắc viết về miền đất đỏ badan màu mỡ ấy.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Được viết vào mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Cuộc kháng chiến chống Mĩ của
dân tộc ta bước vào giai đoạn vô cùng quyết liệt.
- Tác phẩm được đăng lần đầu trên tạp chí “Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ số 2/1965. Sau đó in trong tập
“Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. “Rừng xà nu” từng được giải thường Việt Nam Nguyễn Đình Chiểu.
c) Chủ đề: Là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của các dân tộc Tây Nguyên và là lời khẳng định sức mạnh, sức sống
bất diệt của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
d) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện: chuyện xảy ra chưa lâu mà câu truyện được kể lại như 1 huyền thoại. Lúc thì qua giọng kể của cụ
Mết, lúc thì qua hồi ức của Tnú. Ngoài trời, tiếng mưa, tiếng chày đêm giã gạo tạo nên 1 không gian rất riêng, mang đậm

màu sắc Tây Nguyên → gợi lối kể khan của người Tây Nguyên → Đậm chất truyền thống mà vẫn có màu sắc của huyền
thoại.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật trong tác phẩm không được khai thác ở đời tư, đời thường mà ở trong mối quan
hệ với cộng đồng. Hai nhân vật: cụ Mết và Tnú là 2 hình tượng mạnh mẽ về con người Tây Nguyên, thế hệ nọ nối tiếp thế
hệ kia cầm vũ khí bảo vệ quê hương, đất nước.
- Chất sử thi kết hợp với chất thơ, chất lãng mạn trữ tình, tạo phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành. “Rừng xà
nu” xứng đáng là nốt son trong nền văn học cách mạng Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.

Những đứa con trong gia đình
a) Tác giả: Nguyễn Thi

Văn học sau cách mạng

3


Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà
- Từng được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là một trong những
cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước.
- Có biệt tài phân tích tâm lí và khả năng thâm nhập rất sâu vào nội tâm nhân vật của mình, tạo nên những trang viết vừa
giàu chất trữ tình, vừa giàu chất hiện thực với những con người gan góc bộc trực, vừa có cá tính mãnh liệt, khiến ai đã
đọc truyện dù chỉ 1 lần cũng không thể nào quên.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Viết vào tháng 2/1966, khi Nguyễn Thi đang công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Tác phẩm được viết trong
những ngày cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Về sau, tác phẩm được in trong tập
“Truyện và kí” (1978) của Nguyễn Thi
c) CĐ: Thù nhà, nợ nước là động lực tinh thần to lớn của con người VNam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
d) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật trần thuật: truyện được kể chủ yếu qua hồi ức của nhân vật Việt đang bị thương nặng và bị lạc trên chiến
trường, được kết cấu theo diễn biến của trí nhớ và những ý nghĩ của nhân vật Việt khi đứt, khi nối sau những lần ngất đi

và tỉnh lại → có màu sắc, tình cảm, cảm xúc đậm đà tươi tắn và hết sức linh hoạt, tự nhiên, không phụ thuộc vào trật tự
thời gian → các thành viên trong gia đình được lần lượt giới thiệu & nhân vật Việt cũng được tự thể hiện cá tính, tính
cách.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Nhân vật đạt đến mức điển hình. Nhà văn cá thể hóa nhân vật → các nhân vật có nét riêng không thể trộn lẫn
+ Phân tích tâm lí nhân vật ở trạng thái chập chờn, cơn tỉnh cơn mơ rất tinh tế, hợp lí, có chiều sâu.
- Ngôn ngữ trần thuật: (Thể hiện ở trong ngôn ngữ nhân vật nói về mình và kể về người khác)
Ngôn ngữ Nam Bộ được vận dụng linh hoạt, biến hóa & cả chất triết lí rất riêng, toát lên từ chính hiện thực chứ không
phải từ những lời trữ tình ngoại đề của tác giả → người đọc không còn thấy đó là văn mà còn thấy đó là cuộc đờ.i

Sóng
a) Tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ viết rất thành công về đè tài tình yêu trong thwo ca hiện đại Việt
Nam. Thơ tình Xuân Quynh là tiếng nói của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa đằm thắm dịu
dàng và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái
Bình) và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968)
c) Chủ đề: Là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, diễn tả niềm khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong tình yêu

d) Ý nghĩa nhan đề:
- “Sóng” là nhan đề bài thơ và cũng là hình tượng trung tâm của toàn bài. Sóng vừa là đối tượng để miêu tả, vừa là hình
thức để thể hiện. Sóng hiện lên như một hình tượng 2 nghĩa: Vừa là con sóng thật (Sóng nước) ở ngoài biển cả dạt dào,
xôn xao không yên nghỉ, vừa là con són tình biểu tượng cho khát vọng tình yêu của người phụ nữ.
- Mượn sóng, mượn biển để nói chuyện tình yêu thì xưa nay, các nhà thơ đã từng nói nhiều, Lepmontop “Tình và biển”,
Xuân Diệu có “Biển”, chính Xuân Quỳnh cũng có bài “Thuyền và biển”. Nhưng ở trong bài “Sóng”, Xuân Quỳnh có nét
đặc sắc riêng. Bởi gắn liền với sóng là nhân vật em. Sóng là hiện thân của em. Sóng và em tuy 2 mà 1, tuy 1 mà lại phân
thành 2 → nói được vẻ đẹp của tâm hồn nhân vật trữ tình một cách đầy đủ và sâu sắc nhất.
e) Nghệ thuật:
- Kết cấu: Bài thơ có 2 hình tượng song song: Sóng và em luôn soi tỏ, đắp đổi, bổ sung cho nhau và hòa vào nhau làm 1.
Nhưng 1 lại là 2 → bộc lộ được chiều sâu trong tâm trạng của người phụ nữ đang yêu
- Thể 5 chữ (Ngũ ngôn), các câu thơ buông không có dấu câu → Tạo âm điệu nhịp nhàng tha thiết → Mô phỏng nhịp điệu

của sóng mà cũng là nhịp điệu của tâm hồn nhân vật trữ tình.
- Thơ xưa: hình ảnh động_tình yêu của nam giới, hình ảnh tĩnh_tình yêu của phái nữ. Trong “Thề non nước” của Tản Đà:
“Non cao những ngóng cùng trông/ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Trong “Biển” của Xuân Diệu: “Anh không
xứng là biển xanh/ Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng…” → Xuân Quỳnh: người phụ nữ được ví với sóng_hình ảnh
động → khẳng định: đã biết chủ động đến với tình yêu, thoát khỏi tâm lí ràng buộc “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, mà
vẫn khiêm nhường, nữ tính → Hình tượng sóng vừa có tính kế thừa, vừa có tính cách tân mới mẻ → Sự đóng góp…

Đất Nước
a) Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ
ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giữa chất chính luận và trữ tình.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:
- Trích đoạn “Đất Nước” nằm trong chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”.
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm 9 chương, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị miền Nam ý thức được
số mệnh của thế hệ mình, xuống đường, hòa nhập vào cuộc chiến đấu của cả dân tộc. Trường ca được hoàn thành ở chiến
trường Trị - Thiên năm 1971 và được đưa ra miền Bắc, in lần đầu năm 1974.
- Trường ca là thể loại gồm nhiều bài thơ nối tiếp nhau, cùng thể hiện một chủ đề lớn về đất nước, nhân dân, về các vấn
đề chính trị - xã hội rộng lớn.
c) Chủ đề: Thể hiện tư tưởng: Đất nước là của nhân dân.
d) Nghệ thuật:

Văn học sau cách mạng

4


Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà
- Thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn khác nhau, phóng khoáng, biến hóa tự nhiên → diễn tả được các cung bậc cảm xúc
của nhà thơ.
Quá khứ-hiện tại đan xen → tạo liên tưởng phong phú, sâu sắc cho người đọc
Giống 1 tùy bút viết bằng thơ. Bởi khi đưa các dữ liệu của văn hóa dân gian vào thơ, nhà thơ chỉ lấy một số câu chữ

rồi đem dấu ấn, tình cảm của mình vào đó. → Không khô khan, không liệt kê, xã hội học → có sự chặt chẽ của 1 bài
chính luận, có cảm xúc của một sáng tạo nghệ thuật
- Không khí, không gian nghệ thuật rất quen mà rất lạ. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ gần gũi, bay bổng, mĩ lệ, đậm chất văn
hóa dân gian và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
- Mượn lời tâm tình trò chuyện của đôi trai gái để giãi bày tình cảm, suy nghĩ của mình về đất nước. nhân dân → Bài thơ
mang giọng điệu tâm tình, trò chuyện → Phong cách thơ trữ tình – chính luận.
- Trong toàn bộ chương V, từ “Đất Nước” và “Nhân dân” được viết hoa như một dụng ý nghệ thuật và được coi là mĩ tự
trong bài. → bày tỏ sự trân trọng, biết ơn và niềm kiêu hãnh, tự hào khi nhắc đến đất nước và nhân dân → Tạo nên không
khí thiêng liêng và khẳng định được mối quan hệ khăng khít giữa đất nước và nhân dân.

Ai đã đặt tên cho dòng sông?
a) Tác giả:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết bút kí. Sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuyệ và
chất trữ tình. Giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, cùng lối hành văn hướng nội, xúc tích, mê đắm và tài hoa.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác: Là bài kí được viết ở Huế vào ngày 4/1/1981, in trong tập sách cùng tên.
- Đoạn trích trong SGK nằm ở phần đầu và đoạn kết của bài kí
c) Nội dung: Khám phá vẻ đẹp của con sông Hương dưới nhiều góc độ khác nhau và đem đến cho người đọc những cảm
xúc thẩm mĩ thật khó quên.
d) Nghệ thuật:
- Là bài bút kí thuộc thể tùy bút. Có sự kết hợp của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm và một nhà khoa học. → Thể hiện đầy
đủ những phẩm chất xuất sắc của một kí giả.
- Điểm nhìn trần thuật biến đổi linh hoạt. Ngắm nhìn con sông ở phương diện thời gian, không gian, văn hóa rất đa diện.
- Người kể là nhân vật “tôi”_người trần thuật là nhà khoa học có kiến thức sâu rộng, 1 nghệ sĩ tài hoa. Kể - tả - bình luận
được kết hợp nhuần nhuyễn → Chất tùy bút rất riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Giọng điệu trần thuật: Trữ tình + suy tưởng và triết luận. Câu văn giàu hình ảnh. Phép so sánh, nhân hóa được sử dụng
độc đáo, giàu chất họa, chất nhạc, chất thơ.

Chiếc thuyền ngoài xa
a) Tác giả: “Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện
nay” (Nguyễn Trung Thành). Ông cũng là người mở đường xuất sắc trong công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Ở giai

đoạn trước, ngòi bút của ông mang khuynh hưởng sử thi. Thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về
đạo đức và triết lí nhân sinh.
- Là nhà văn quân đội, suốt cuộc đời cầm bút luôn trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Là một trong
số những người mở đường xuất sắc trong công cuộc đổi mới văn học ở nước ta.
- Sáng tác chia 2 giai đoạn
+ Trước thập kỉ 80, là cây bút sử thi mang thiên hướng trữ tình lãng mạn.
+ Từ đầu n~ năm 80 tới cuối đời, chuyển hẳn sang cảm ứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lí nhân sinh.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác: Được sáng tác vào tháng 8/1983, thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2 của Nguyễn Minh
Châu. Lúc đầu in trong tập “Bến quê”(1985), sau đó được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn xuất bản n1987.
c) Nội dung: Thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và nỗi boăn khoăn về thân phận con người.
d) Ý nghĩa nhan đề:
- Ý nghĩa tả thực:
+ Tên truyện là “Chiếc thuyền ngoài xa” → hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện gần như xuyên suốt tác phẩm: Bắt đầu từ
yêu cầu của người trưởng phòng với nhân vật “tôi”_nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng: “Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình
một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật”. → hình ảnh chiếc thuyền
mới đóng xong còn thơm mùi gỗ → “một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn” → tập trung vào “một chiếc
thuyền lưới vó đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”. Đây là chiếc thuyền ngoài xa.
+ Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được khắc họa ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. → vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích, vẻ
đẹp của “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” → được nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thu vào một tấm ảnh mà nó
“được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sảnh nghệ thuật” → Chiếc thuyền ngoài xa mang vẻ đẹp hoàn mĩ
cho một tấm ảnh nghệ thuật.
+ Khi chiếc thuyền đến gần thì lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người_Những cuộc đời
đầy trớ trêu, bất hạnh: Một người vợ..., một người đàn ông..., và một đứa con trai vì quá yêu mẹ,...
- Ý nghĩa ẩn dụ:

Văn học sau cách mạng

5



Dương Phú Việt Anh – 12A5 – THPT Liên Hà
+ “Chiếc thuyền ngoài xa” là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của tác giả → gửi tới người đọc thông điệp rằng:
Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật. Giữa
nghệ thuật và cuộc đời còn tồn tại một khoảng cách lớn. Người nghệ sĩ phải rút ngắn khoảng cách ấy. Và để chiêm
ngưỡng cái đẹp của nghệ thuật, con người cần phải có một khoảng cách với nó. Còn để khám phá những bí ẩn bên trong
thân phận con người thì phải tiếp cận, đi vào bên trong và sống cùng cuộc đời. Nghệ thuật chân chính phải là tiếng nói
trung thực, thấu hiểu về số phận con người. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học không thể xa lạ với số phận con người.
+ Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên
là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…” (Giăng sáng). Là
người đi sau nhưng Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó. Vì hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa mang vẻ đẹp thật
sự chứ không hề là một “ánh trăng lừa dối”. Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là: cần phải có cái nhìn đa chiều,
đa diện mới có thể cảm nhận được hết cái gai góc của cuộc đời này. Bởi ông đã nói: “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì
đa sự”
d) Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể truyện:
+ Kể chuyện có tình huống, làm cho truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn người đọc
+ Người kể chuyện có lúc là nhân vật Phùng, nhưng có lúc người kể chuyện lại là nhân vật người đàn bà. Cách kể này
linh hoạt, biến hóa, làm cho câu chuyện vừa khách quan, vừa chân thực và giàu sức thuyết phục.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật đời thường, mặt xấu – tốt đan xen, chứa đựng nhiều nghịch lí trớ trêu, tạo nên
những nhận thức sâu sắc cho người đọc.
- Ngôn ngữ trần thuật: Khách quan, chân thực, phù hợp với tính cách nhân vật. Giọng điệu trần thuật trầm tĩnh suy tư,
triết lí, lời văn giản dị, mộc mạc, nhiều dư vị

Đàn ghi ta của Lor-ca
a) Tác giả: Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông được công chúng đặc biệt chú ý bởi nhiều bài
thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về thời chiến tranh và thời hậu chiến. Thơ Thanh Thảo còn thể hiện một
kiểu tư duy giàu sức suy tưởng phóng túng trong cảm xúc, ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trung siêu thực và những cách
tân táo bạo về cấu trúc thơ.
b) Xuất xứ - Hoàn cảnh sáng tác:

- Bài thơ được rút ta từ tập “Khối vuông Ru-bích” (1985). Tên tập thơ là mô hình của tác giả về cấu trúc thơ, một mô hình
mở, khước từ khuôn mẫu đã ổn định để giải phóng cảm xúc và tưởng tượng theo hướng hiện đại hóa.
- Bài thơ viết về Lor-ca (1898-1963)_nhà thơ lớn nhất của Tây Ban Nha ở thế kỉ XX. Ông sống trong thời đại đất nước
Tây Ban Nha dưới sự cái trị của chế độc độc tài thân phát xít, phản động về chính trị, lạc hậu và già cỗi về nghệ thuật.
Ông có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị và nghệ thuật của Tây Ban Nha lúc bấy giờ. Hoảng sợ trước những ảnh
hưởng ấy, bọn Phát xít Phrăng-cô đã thủ tiêu Lor-ca vào ngày 19/08/1936.
- Nhân cách cao đẹp, sự tài hoa cùng cái chết oan ức của Lor-ca là nguồn cảm hứng để Thanh Thảo viết lên bài thơ “Đàn
ghi ta của Lor-ca”. Chính Thanh Thảo đã có lần tâm sự: “Lor-ca là một nhà thơ mà tôi hết sức ngưỡng mộ. Cả về thi ca
lẫn cuộc đời và cái chết đều gây cho tôi nhiều xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài
thơ của Lor-ca đã dẫn dắt tôi khi viết bài thơ mà tôi coi như một khúc tưởng niệm ông”. Có thể nói, Thanh Thảo đã có
những khoảnh khắc hóa thân, nhập vai, sống tàn cùng chất nghệ sĩ của Lor-ca để viết nên: “Đàn ghi ta của Lor-ca”
c)Ý nghĩa nhan đề:
- Ý nghĩa tả thực: Đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha (Tây Ban Cầm). Lor-ca luôn mang theo
cây đàn ghi-ta bên mình. Trong di trúc để lại, ông cũng căn dặn mọi người: Hãy chôn ông cùng với cây đàn dưới lớp cát.
- Ý nghĩa ẩn dụ:
+ Đàn ghi ta biểu tượng cho cuộc đời, số phận, nghệ thuật, cho khát vọng tự do, tình yêu quê hương, xứ sở của Lor-ca.
+ Nhan đề gợi nhớ đến bài “Đàn ghi ta” của chính Lor-ca. Bài thơ được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của chính Lor-ca:
Cây đàn ghi ta
Dỗ nó nín đi
như gió thở dài
cất tiếng thở than
phỏng có ích gì
trên đỉnh tuyết lạnh băng
Những cốc rượu ban mai
Chẳng thể nào
(…) Ơi ghi ta
sóng sánh đổ tràn
làm cây đàn im tiếng
Trái tim người tử thương
Cây đàn ghi ta

Nó van vỉ như dòng nước sâu
Dưới năm đầu kiếm sắc
bắt đầu lời ai oán
thổn thức
=> Thanh Thảo đặt tên cho bài thơ của mình là “Đàn ghi ta của Lor-ca” → tạo nên sự đồng điệu, đồng cảm giữa những
người cầm bút với nhà thơ thiên tài của Tây Ban Nha.
d) Nghệ thuật:
- Thể thơ tự do, không sử dụng dấu câu, viết thường các chữ đầu dòng → ấn tượng mới lạ, độc đáo, diễn tả được dòng
cảm xúc dạt dào, tha thiết của nhà thơ và tạo nên nhịp điệu biến hóa linh hoạt rất sáng tạo. Các câu thơ nối vào nhau tạo
nên chất tự sự gần gũi vào chất trữ tình đằm thắm.
- Bài thơ có sự kết hợp giữa 2 yếu tố: thơ và nhạc, tự sự và trữ tình, giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng
của nhạc giao hưởng phương Tây → ấn tượng về sự tài hoa, độc đáo.
- Nhiều hình ảnh thơ trong bài mang ý nghĩa ẩn dụ → gợi nhiều liên tưởng đa chiều. Các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân
hóa, chuyển đổi cảm giác → màu sắc tượng trưng siêu thực.

Văn học sau cách mạng

6



×