Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

“Phân tích tình hình thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong thời gian qua và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ( 20082013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.66 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng luôn phải đói mặt với rất
nhiều vấn đề khó khăn, bất ổn và gây ảnh hưởng tới nền kinh tế vĩ mô. Một trong
những vấn đề đó, chính là tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ( NSNN). Đây
là một vấn đề vô cùng nhạy cảm, nhất là đối với một đất nước đang trên đà phát
triển như Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có những biến động lớn
như: giá dầu, xăn tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn
ra ở nhiều nơi trên thế giới….,việc tìm ra giải pháp để điều chỉnh thâm hụt NSNN
ở các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là hết sức cấp bách
và cần thiết. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân sách ngày càng tăng và ngày càng
tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng như toàn bộ nền kinh tế. Đây chính
là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế , gia tăng lạm phát gây
khó khăn cho chính phủ trong những việc thực hiện các chính sách tài khóa và
tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách diễn
ra ở Việt Nam trong thời gian gần đây là như thế nào? Nguyên nhân cũng như tác
động của nó đến nền kinh tế ra sao? Từ đó giải pháp đưa ra để khắc phục tình
trạng đó là gì? Bài thảo luận này với đề tài “Phân tích tình hình thâm hụt ngân
sách của Việt Nam trong thời gian qua và mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ( 2008-2013)” là quá trình nghiên cứu nhằm tìm
ra đáp án cho những câu hỏi trên. Tuy nhiên, thâm hụt NSNN là một vấn đề mang
tính vĩ mô, với trình độ hiểu biết cũng như trình độ lý luận có hạn nên bài thảo
luận này của chúng em khó có thể tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy rất mong cô
giáo và các bạn đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Chúng em
xin chân thành cảm ơn cô

Nhóm 6

1



CHƯƠNG I. Thâm hụt ngân sách

1, Một số khái niệm.

a, Khái niệm: Ngân sách nhà nước là tổng các kế hoạch chi tiêu và thu nhập hằng
năm của chính phủ, bao gồm các khoản thu (chủ yếu từ thuế), các khoản thu ngân
sách.
Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách , ta có:
B >0: thặng dư ngân sách
B =0: cân bằng ngân sách
B <0: thâm hụt ngân sách

2


b, Thâm hụt ngân sách là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân
sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền
kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu
tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây
ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
Các dạng thâm hụt NSNN Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách
thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
+ Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách
tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy
mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
+ Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế,
nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi
nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế
giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. Giá trị

tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:
- Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
- Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu
nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
- Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.

3


CHƯƠNG II. Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước Việt Nam

Nền kinh tế hiện nay đang lâm vào tình trạng kinh tế có những biến đổi mạnh
mẽ như hiện nay, trong đó thâm hụt ngân sách nhà nước là một vấn đề mà tất cả
các nước trên thế giới đều gặp phải. Việc xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước là
một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế
hiện nay mà còn tác động đến sự phát triển bền vững đến sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Điều đáng lo ngại là thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam
có xu hướng tăng.
Nước ta đã thâm hụt ngân sách 10 năm liên tục và mức thâm hụt này thuộc diện
cao nhất so với các nước trong khu vực…

Thâm hụt ngân sách của Việt Nam qua các năm (%GDP).

4


Đặc biệt những năm gần đây, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng
nhanh của nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam đã tăng từ khoảng 40% GDP từ
cuối năm 2007 lên tới 57% GDP vào cuối năm 2010 và chỉ giảm đôi chút vào năm

2011. Cùng thời gian đó, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng từ 32% lên tới
gần 42% GDP.
Nợ công của Việt Nam qua các năm (%GDP)

Cụ thể, tính riêng năm 2009, con số thâm hụt ngân sách chỉ tính riêng năm
2009 không bao gồm chi trả nợ gốc theo báo cáo của Bộ Tài chính là 3,7% GDP,
trong khi đó con số tương ứng của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) cao hơn nhiều, lần lượt là 6,6% và 9,0% GDP.
Trung bình trong hai năm 2009-2010, con số thâm hụt ngân sách của Việt Nam
thuộc diện cao nhất so với các nước trong khu vực, vào khoảng 6% GDP/năm. Con
số này gấp khoảng 6 lần
so với con số tương ứng của Indonesia, gấp 2 lần so với Thái Lan.

5


Thâm hụt ngân sách ở một số nước châu Á 2009 - 2010 (%GDP)

Sự bỏ sót trong hạch toán thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam
được thể hiện rất rõ thông qua các con số chênh lệch giữa lượng trái phiếu chính
phủ phát hành vay nợ thực tế hàng năm và con số trái phiếu chính phủ phát hành
phản
ánh
trong
Quyết
toán
ngân
sách
Nhà
nước.

Theo số liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), chỉ tính riêng hai
năm 2010 và 2011, tổng giá trị trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo
lãnh mỗi năm được phát hành vào khoảng 110 ngàn tỉ đồng, cao hơn rất nhiều so
với con số báo cáo trong Quyết toán ngân sách Nhà nước.

6


Ngoài ra, còn một lượng nợ lớn của các doanh nghiệp nhà nước, không được
Chính phủ bảo lãnh, cũng không được phản ánh trong bội chi ngân sách và nợ
công hàng năm của Việt Nam như thông lệ và khuyến cáo của nhiều tổ chức quốc
tế.
Tuy nhiên, từ năm 2010 tỷ lệ này đã giảm dần, năm 2011 và 2012 chi NSNN so với
dự toán giảm xuống còn 8,54 và 8,34%.
Giai đoạn 2011 - 2013, thực hiện mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và
kiểm soát lạm phát, mức chi ngân sách so với GDP tuy có giảm nhưng vẫn ở
mức cao 28,15%. Năm 2010, tỉ lệ thâm hụt ngân sách lên tới 6,2% GDP.
Từ năm 2011, chi NSNN có giảm so với năm trước chủ yếu do các biện pháp
cắt giảm đầu tư công nhằm kiềm chế lạm phát nhưng vẫn ở mức cao (chi
NSNN năm 2011 tăng 18,6% so với năm 2010 và cao hơn dự toán 9,7%). Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quy mô chi tiêu công tối ưu đối với các nền kinh tế
đang phát triển nằm trong khoảng từ 15 - 20% GDP, do đó có thể thấy quy mô
chi tiêu chính phủ ở Việt Nam hiện đang khá cao.
Năm 2011, thâm hụt nhà nước là 115.000 tỷ đồng, tương đương 4.9% bao
gồm cả chi trả nợ gốc.
Bộ Tài chính cho biết, tổng thu và viện trợ ước đạt 674.500 tỷ đồng, tăng
20,6% so với năm 2010. Trong đó thu từ thuế là 586.151 tỷ đồng, tăng
21.8%so với năm 2010, thu từ dầu thô khoảng 100.000 tỷ đồng.
Tổng chi cân đối ngân sách năm 2011 ước đạt 710.160 tỷ đồng, chi đầu tư
phát triển là 175.000 tỷ đồng, tăng so với năm 2010 gần 4.000 tỷ đồng; chi

chuyển nguồn khoảng 22.400 tỷ đồng và trả nợ gốc lên đến 63.440 nghìn tỷ
đồng. Vay về cho vay lại 28.640 tỷ đồng; thu, chi quản lý qua ngân sách khoảng
62.415 tỷ đồng.
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập
kỷ qua và có mức độ ngày càng gia tăng. Cụ thể, thâm hụt ngân sách không bao
gồm chi trả nợ gốc của Việt Nam trung bình trong giai đoạn 2003 - 2007 chỉ là
1,3% GDP, nhưng con số này đã tăng hơn gấp đôi lên 2,7% GDP trong giai đoạn
2008 - 2012.
7


Đáng chú ý là trong tổng chi tiêu ngân sách thì chi thường xuyên chiếm tỷ trọng
rất lớn, điều này thể hiện phần nào sự cồng kềnh và chi tiêu tốn kém của bộ máy
công quyền.

Nguồn: Quyết toán và dự toán NSNN các năm của Bộ Tài chính

8


Chi tiêu ngân sách lớn, cùng với tình trạng đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả và
rủi ro từ những khoản thua lỗ khổng lồ từ khối doanh nghiệp nhà nước đang tạo
áp lực lớn đến tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam.
Thêm vào đó, khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008 ảnh hưởng tới sự ổn
định kinh tế vĩ mô của Việt Nam, cụ thể là bội chi ngân sách lớn, nợ công tăng cao,
thâm hụt cán cân vãng lai, tốc độ tăng trưởng chậm lại 6,78% năm 2010 và 5,9%
năm 2011 mặc dù Chính phủ đã có những biện pháp kích cầu để thúc đẩy tăng
trưởng, chống suy giảm kinh tế. Đồng thời với đó là lạm phát tăng cao, kết thúc
năm 2 010 và 2011, lạm phát lần lượt ở mức 11,75% và 18,58%.
Năm 2012, tăng trưởng kinh tế ở mức 5,03%, đã giảm khoảng 0,87% so với năm

2011. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ suy giảm tổng cầu do chính
sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát của Ngân hàng Nhà nước từ năm 2011,
hàng tồn kho tăng cao đặc biệt là tồn kho bất động sản, nhiều doanh nghiệp phá
sản (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trên 50.000 doanh nghiệp phá sản từ đầu
năm 2011 đến cuối quý I/2012), nhiều tập đoàn Nhà nước thua lỗ lớn tại
Vinalines, Vinashin, EVN, Tổng công ty Xi măng Việt Nam Vicem, tập đoàn Sông
Đà,...
Ngoài ra, do đà giảm kinh tế toàn cầu khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam giảm xuống (thu hút đầu tư nước ngoài từ đầu năm 2012 đến ngày
20/4/2012 chỉ bằng 68,5% so với cùng kỳ năm trước, vốn thực hiện giảm 0,3% so
với cùng kỳ năm trước), xuất khẩu Việt Nam cũng giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ
của nước ngoài giảm, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô giảm 3,1%;
cà phê giảm 7,9%; cao su giảm 8,3%; than đá giảm 12,2%; gạo giảm 27,8%...
Theo số liệu cuả tổng cục thống kê, tổng thu ngân sách 9 tháng đầu năm 2012 đạt
498.490 tỉ đồng, bằng 67.3% dự toán, tăng 1,3% so với cùng kì năm 2011. Tổng chi
ngân sách ước đạt 643.210 tỉ đồng, bằng 71,2% dự toán, tăng 14,5% so với năm
2011. Theo đó, bội chi ngân sách là 137.700 tỉ đồng. Trong khi đó, số liệu của Bộ
Tài chính là 122.326 tỉ đồng. Cả 2 số liệu đều chiếm 6,2% giá trị GDP theo giá hiện
hành. Theo kế hoạch đã được phê duyệt của Quốc hội, thâm hụt ngân sách năm
2012 và 2013 tối đa là 4,8% GDP.

9


Năm 2012, cũng là năm mà mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô được đặt lên hàng đầu. Theo đó, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách
tài khóa thắt chặt, giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách; Ngân hàng Nhà nước
thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt và linh hoạt; Bộ Tài chính tiếp tục
lộ trình quản lý, điều hành giá theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ giá độc
quyền, chống bán phá giá, đảm bảo cân đối cung - cầu hàng hóa...

Báo cáo của Bộ tài chính về tình hình Ngân sách Nhà nước 8 tháng đầu năm 2013
cho thấy hiện hoạt động đang rơi vào tình trạng hụt thu, lạm chi. Cụ thể, tổng thu
ngân sách nhà nước trong tháng 8/2013 đạt 50.100 tỷ đồng giảm 22.900 tỷ đồng
so với tháng 7. Dự kiến tổng thu hoạch sẽ đạt 788.5 nghìn tỷ đồng, hụt thu 27.5
nghìn tỷ đồng đạt 96.6% dự án năm.
Trong khi đó, tổng thu chi ngân sách nhà nước tháng 8 đạt 75.000 tỷ đồng. Trong
khi từ 8 tháng đầu năm thu ngân sách nhà nước đạt 484.820 tỷ đồng thì chi ngân
sách nhà nước đã lên tới 604.670 tỷ đồng. Chi ngân sách nhà nước vượt xa thu
ngân sách nhà nước lên đến xấp xỉ 25% tương đương 119.850 tỷ đồng. Mức bội
chi đạt 74% kế hoạch Quốc hội quyết định từ đầu năm.
Cũng theo bộ tài chính, nhằm duy trì nguồn thu và bù đắp bội chi, Chính phủ đã
huy động 134.820 tỷ đồng trái phiếu (đạt 69,1% kế hoạch). Cơ quan này cho biết
kết quả huy động đang thấp hơn so với yêu cầu đặt ra. Theo báo cáo của Bộ kế
hoạch và Đầu tư hoạt động thu ngân sách nhà nước thấp hơn dự toán năm là do
kinh tế gặp khó khăn, các doanh nghiệp đạt lợi nhuận thấp, giảm thu từ xuất
khẩu, ngoài ra còn chịu tác động của chính sách miễn giảm thuế với mục đích hỗ
trợ sản xuất kinh doanh.
Tình trạng thâm hụt giữa thu chi ngân sách nhà nước kéo dài khiến cho tháng đầu
năm, chính phủ đã dành 68.980 tỷ đồng để chi trả nợ và viện trợ, tăng 3,1% so với
cùng thời kỳ năm 2012.
Ta có thể thấy lĩnh vực sản xuất phục hồi đã góp phần làm tăng doanh thu từ thuế
thu nhập doanh nghiệp trong tháng 6 năm 2014, VAT (nhập khẩu) và thuế thu
nhập cá nhân so với thời điểm cuối 2013.

10


Biểu đồ 7 cho thấy thu ngân sách từ thuế tăng 14% so với cuối năm trước so với
mức 2% trong năm 2013.


11


Biểu đồ 8 mô tả chi tiết các chi phí hiện thời và đầu tư trong tương quan với GDP.
Chi phí trung bình (không bao gồm trả nợ gốc) chiếm khoảng 30% GDP kể từ năm
2006. Kể từ đó, con số này đã giảm xuống 28% của GDP. Phần lớn khoản giảm đến
từ phát triển đầu tư, giảm trung bình 7% xuống mức 5% GDP hiện tại.
Các chi phí hiện tại đều ở tiệm cận mức trung bình 22% trước đây. Chi phí trả
lãi tăng nhẹ chiếm 1,8% GDP trong quý 2 năm 2014 từ mức trung bình 1,4% trước
đây. Nhìn chung, kỳ vọng chi phí hiện tại sẽ giữa nguyên. Với nguồn thu được cải
thiện và chi phí có thể không thay đổi, mức thâm hụt ngân sách sẽ có thể được cải
thiện tốt hơn.
3.Nguyên nhân của thâm hụt ngân sách:
a.Nhóm nguyên nhân khách quan:
-Tác động của chu kỳ kinh doanh: ở giai đoạn khủng hoảng làm cho thu nhập của
Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới
vê kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh
tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương
12


ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ
kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
Do hậu quả các tác nhân gây ra: Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro thiên
tai dịch bệnh và đôi khi cả những rủi ro do chính con người gây ra như chiến
tranh, khủng bố tình trạng dân số gia tăng… mặc dù khi lập dự án ngân sách cá
quốc gia đã có nững biện pháp dự phòng nhưng đôi khi rủi ro vượt ra ngoài dự
đoán. Để xử lý các tình trạng khẩn cấp nhằm ổn định các hoạt động kinh tế xã hội,
nhà nước phải tăng chi và thâm hụt ngân sách xảy ra ngoài mong muốn của nhà
nước.

b.Nhóm nguyên nhân chủ quan:

-Thất thu thuế nhà nước: thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách
nhà nước bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước,
vay, nhận viện trợ,… Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều bất cập,
sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn
thuế, gây thất thu một lượng đáng kể cho ngân sách nhà nước… Bên cạnh đó, việc
giãn thuế, giảm thuế, miễn thuế một mặt giúp cho các doanh nghiệp có thêm
nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên việc miễn thuế, giảm
thuế hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác gây thâm
hụt ngân sách nhà nước.
-Đầu tư công kém hiệu quả: trên thực tế, tình trạng dầu tư dàn trải gây lãng phí ở
các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án
trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả đã gây lãng phí nguồn ngân sách
nhà nước và kìm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính dẫn
dến thâm hụt ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, nền hành chính công – dịch vụ
công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này làm cho tình
trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng.
-Nhà nước huy động vốn để kích cầu: Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính
là: Phát hành trái phiếu chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà
nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng
13


trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 812% GDP.
-Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên: Đây
là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách và áp lực với bội
chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy thông qua
cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chỉ giữa các cấp ngân sáchvà cơ chế bổ
sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được

phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể
trong dự toán gân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ
đòi hỏi đảm bảo nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công
trình khi hoàn thành và đi và hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các
công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về
ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu
cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
-Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn: Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp
nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ
bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản
chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ
thống tài chính. Chi tiêu của chính phủ một khi vượt qua một ngưỡng nào đó sẽ
làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực không hiệu quả dẫn
tới thâm hụt ngân sách nhà nước và cuối cùng là gây ra lạm phát.
-Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử dụng như một công cụ
trong chính sách tài khóa để kích thích tăng trưởng kinh tế: Chúng ta có thể dễ
dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi
lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu
hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đố ngân sách chúng ta thường xác
định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và
nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang tuần sau. Đây là chính
sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều
đó không gây ra xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và
kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các
14


dự án trọng điểm cà hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền
kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không.
4. Hậu quả của thâm hụt ngân sách

1.Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm
đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, giảm tăng
trưởng trong dài hạn.
2.Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực
điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức làm j phát kỳ vọng của
người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng chính phủ trước sau gì cũng sẽ
phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt.
3.Thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn đến việc Nhà nước buộc phải
phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt và điều này dẫn tới lạm phát .
4.Gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến sự tăng trưởng của
sản lượng tiềm năng chậm lại.
5.Thâm hụt còn làm cho các nhà hoạt động chính sách không thể hoặc không sẵn
sàng sử dụng các gói kích thích tài chính đúng thời điểm.
6.Để bù lại các khoản thâm hụt, chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc vay nợ thông
qua phát hành trái phiếu. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về
phúc lợi xã hội và các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn, làm giảm động lực
sản xuất và khả năng cạnh tranh. Đồng thời mức tiêu dùng cũng giảm dẫn đến
giảm tổng cầu.
Tóm lại: thâm hụt ngân sách cao, kéo dài đe dọa sự ổn định vĩ mô.

15


CHƯƠNG III. MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ.
1.Một số khái niệm:
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng giá trị tính bằng tiền của tất cả các hàng
hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm )
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị tính bằng tiền của tất cả các hàng

hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước sản xuất ra trong một thời kỳ
nhất định ( thường là một năm )
Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản phẩm quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính trên đầu
người (PCI ) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở
rộng quy mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời gian
nhất định.
→ Là sự lớn mạnh của nền kinh tế đơn thuần về mặt số lượng.
2. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ 2008 đến nay.
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn vốn và tài nguyên thiên
nhiên. Theo như bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, trong
các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thì nguồn vốn đã
chiếm tới 57,54%.
Việt Nam là đất nước giàu tài nguyên thiên nhiên vì vậy sử dụng nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ cho việc phát triển là việc đương nhiên. Tuy nhiên
hiện nay chúng ta đang quá phụ thuộc vào nguồn tài nguyên: khai thác kiệt quệ,
thô sơ, hiệu quả năng suất thấp. Chính vì quá phụ thuộc vào tài nguyên và vốn
nên tăng trưởng ở Việt Nam có chất lượng thấp.

16


Việt Nam là nước đang phát triển nên chúng ta chấp nhận phụ thuộc vào tài
nguyên và vốn để có nguồn lực phát triển. Tuy nhiên việc này cần phải từng bước
giảm dần nếu không sẽ gay ra hệ quả nghiêm trọng. Như ô nhiễm môi trường,
nền kinh tế tăng trưởng phát triển không ổn định.
Đóng góp phần không nhỏ vào tăng trưởng Việt Nam là doanh nghiệp FDI. Mỗi
năm Việt Nam thu hút được lượng lớn vốn đầu tư FDI vào nước ta. Nhờ lợi thế thị
trường ổn định, ít chịu tác động của tình hình kinh tế trong nước như các doanh

nghiệp trong nước nên doanh nghiệp FDI hoạt động khá tốt trên thị trường trong
nước. Ngoài ra do áp dụng khoa học cộng nghệ cao vào trong sản xuất đã làm
giảm chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp này tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị
trường
Hệ thống pháp lý còn chưa chặt chẽ, nhiều thiếu sót dẫn đến sử dụng không hiệu
quả các nguồn lực sẵn có.
Biện pháp:
Cải cách thể chế: tạo ra khuôn khổ pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân, các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia vào xây dựng cở sở hạ tầng, phát triển
kinh tế , tham gia vào dịch vụ công phục vụ cho đất nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước: hỗ trợ, bảo hộ,
xây dựng hệ thống pháp lý minh bạch, tăng năng suất lao động,áp dụng khoa học
kỹ thuật hiện đại, phù hợp, …
Không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Bảng số liệu về tăng trưởng kinh tế năm 2008-2013

Năm

2008

2009

2010

17

2011

2012


2013


Tăng
kinh tế

trưởng 6,18

5,32

6,78

5,89

5,25

5,42

Biểu đồ thể hiện tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam năm 2008-2013
3. Mối quan hệ với thâm hụt ngân sách nhà nước:
Năm Thâm hụt ngân sách

Tăng trưởng kinh tế

(tỷ đồng)

( %GDP)

200

8

22217

6,18

200
9

106487

5,32

201
0

60405

6,78

201
1

65750

5,89

201
2


162600

5,25

201
3

195400

5,32

Trong năm 2008, thực hiên tốt những chính sách tài khóa và tiền tệ ( chính sách
thắt chặt ) nên thâm hụt ngân sách thấp , tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có dấu
hiệu giảm.

18


Ảnh hưởng của các chính sách thắt chặt trong năm 2008 được biểu hiện rõ nét
vào đầu năm 2009. Bối cảnh nền kinh tế trước mắt là suy thoái. Nền kinh tế gặp
nhiều khó khăn: nền kinh tế yếu đi, nhiều doanh nghiệp trở nên suy kiệt, một số
phá sản, một số gặp khó khăn liên tục. Do đó chính phủ đã thi hành chính sách
mở rộng bao gồm các gói kích cầu. Với việc chính phủ chi ra lượng tiền lớn đã làm
cho nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đạt mức tăng trưởng đạt
5,32%. Tuy nhiên ngân sách nhà nước thâm hụt lớn ( từ 22217 lên đến 106487 tỷ
đồng ) –thâm hụt cơ cấu ( chủ động).
Năm 2010, tiếp nối năm 2009, nền kinh tế Việt Nam trên đà hồi phục sau khủng
hoảng với mức tăng trưởng 6,78%, tuy nhiên lạm phát cao.
Để hạn chế lạm phát tăng trưởng bền vững thì trong năm 2011 nước ta đã thực
hiện chính sách tài khóa thắt . Kết quả thâm hụt ở mức 65750 tỷ đồng, kèm theo

đó tăng trưởng ở mức 5,89% (giảm so với năm 2010).
Năm 2012, mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, chính sách tai khóa thắt chặt,
giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên với điều kiện khó
khan, nhất là sự chậm trễ trong thị trường bất động sản, nợ xấu…, chính phủ một
lần nữa phải đưa ra các gói kích cầu để cứu vớt nền kinh tế. Kết quả thâm hụt cao
mà tăng trưởng thì lại giảm xuống 5,25%.
Giải quyết vấn đề tồn đọng của năm 2012, năm 2013 mức thâm hụt ở mức cao,
tuy nhiên có thể thấy sự khởi sắc trong nền kinh tế khi mà tốc độ tăng trưởng cao
hơn năm 2012.
Nhờ áp dụng những chính sách linh hoạt và phù hợp nền kinh tế trong năm 2014
đang có những chuyển biến tích cực.Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu
năm 2014 ước tính tăng 5,18% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó quý I tăng 5,09%;
quý II tăng 5,25%. Đây là mức tăng GDP cao so với mức tăng cùng kỳ năm 2012 và
2013 và cả ba khu vực đều có mức tăng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 2013.
Trong mức tăng 5,18% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2,96%, cao hơn mức 2,07% của cùng kỳ năm 2013, đóng góp 0,55 điểm phần
trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,33%, cao hơn
mức 5,18% của 6 tháng đầu năm 2013, đóng góp 2,06 điểm phần trăm; khu vực
19


dịch vụ tăng 6,01%, cao hơn mức 5,92% của cùng kỳ năm 2013, đóng góp 2,57
điểm phần trăm.
Thâm hụt ngân sách có mối liên hệ chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế. Việc sử dụng
nguồn vốn như thế nào, hiệu quả ra làm sao (thu, chi ngân sách) sẽ quyết định tốc
độ tăng trưởng như thế nào. Vì vậy việc hoach định kế hoạch chi tiêu hợp lý trong
từng giai đoạn, thời kỳ là công việc quan trọng ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia
và của Việt Nam nói riêng.

CHƯƠNG IV. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM.

Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách, tùy theo bối cảnh, tình hình kinh tế
từng nước mà người ta có thể sử dụng một, hai hay nhiều biện pháp cùng kết hợp
20


với nhau như: Tăng thu giảm chi, vay nợ trong nước, vay nợ ngoài nước, sử dụng
dự trữ ngoại tệ, phát hành tiền.
Trong đó biện pháp thứ nhất thường bị coi là khá “bảo thủ” vì nó nhằm vào việc
các giảm chi tiêu. Do đó, biện pháp này sẽ bị các ban ngành, địa phương hoặc đơn
vị có ngân sách dự kiến bị cắt giảm lên tiếng phàn đối, cản trở hoặc tìm cách gian
lận, đồng thời tổng nhu cầu xã hội cũng bị co hẹp lại. Trong khi ngược lại, ba biện
pháp còn lại được xem như là những biện pháp “cấp tiến” vì nó không trực tiếp
cắt giảm quyền lợi của bất kỳ bộ phận nào trong xã hội. Mặt khác nó lại hướng
vào việc tăng nguồn tài chính cho nên khá dễ triển khai. Sau đây chúng ta sẽ đi
vào phân tích từng biện pháp cụ thể để thấy được ưu điểm cũng như nhược điểm
của từng biện pháp và biện pháp nào sẽ mang lại hiệu quả cao hơn?
-Biện pháp tăng thu giảm chi: Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền
hạn và nhiệm vụ được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ
Thuế.... và cắt giảm chi tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu và
giảm chi thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế. Đặt trong bối
cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của
Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm
đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ
chỉ thị:
+Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước;
+ Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước (DNNN);
+ Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư của Nhà
nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới
50% tổng đầu tư của toàn xã hội.

Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư
kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ
nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ
quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách
năm 2007). Cấu trúc đầu tư toàn xã hội (1995 - 2007) Nguồn: GSO, MPI.
21


Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực
của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý
do:
+ Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng,
nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã
được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và
nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự
án.
+ Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN), một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý
đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng.
+ Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư
công theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.
+ Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất
khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm.
Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm
không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường
xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi chính sách
chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi thường xuyên
đã được thực hiện… Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì
nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua
sắm xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách. Giảm thâm hụt ngân

sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt
chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu công
của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để
đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả.
Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho những dự án kém hiệu quả
(như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu.
Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát,
lãng phí (như dự án 112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là
22


thất thoát trung bình 30%). Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để
cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư
công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa
phương và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy
thiếu khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định
một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy mô đầu
tư nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố
rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán các DNNN và dự án đầu tư công
lớn cũng phải được công khai.
Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ
cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc
quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế
nhập khẩu như hiện nay.
Khi Việt Nam gia nhập WTO thì hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì việc cắt
giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự
do sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách. Điều này cũng dễ hiểu khi số
thu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các
nước đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí. Bộ Tài

chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, dưới tác động gián tiếp của cắt giảm thuế, tính ổn
định và bền vững của thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng. Số thu từ khu vực kinh tế
trong nước, nhất là từ các doanh nghiệp nhà nước sẽ bị ảnh hưởng mạnh do tác
động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh nghiệp. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và những thay đổi thị trường trong quá trình hội nhập cũng sẽ thay
đổi nguồn thu.
Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách
của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và
thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm
trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ
có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp
23


dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững cho ngân
sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư
CSHT vì quốc kế dân sinh.
- Vay nợ trong nước: Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình
thức phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi
nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát
hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam,
Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các
hình thức: tín phiếu kho bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm hụt ngân
sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện
pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát.
Hạn chế: Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy không gây ra lạm
phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu
như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm

giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm
tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao
(như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng,
làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình
để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy nhiên, nếu việc
này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín của Chính phủ và khiến
cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm
sau.
- Vay nợ nước ngoài: Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn
vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài
từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng Thế
giới (WB – World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF – International Monetary
Fund), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB – Asian Development Bank), các tổ chức
liên chính phủ, tổ chức quốc tế...

24


Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là
nguồn vốn phát triển chính thức ODA (Official Development Assistance) .Vay nợ
nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoại
tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
Năm
2002 2003 2004 2005 2006
2007
2008
2009
Số tiền vay 7,215 7,041 7,253 8,326 12,500 13,500 15,000 27,38

nước
0
ngoài(tỷ
đồng)

2010
20,050

Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có thể bù đắp
được các khoản thâm hụt mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế. Đây
cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm
khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở
nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn
đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến
cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
- Sử dụng dự trữ ngoại tệ: Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng
trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ
nắm giữ dưới dạng ngoại tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc
gia. Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân
sách.
Ưu điểm của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh được khủng
hoảng.
Nhược điểm việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách lại
tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng. Vì nếu khu vực tư nhân cho
25



×