Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Bồi dưỡng hứng thú học tập phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 3 thông qua việc xây dựng hệ thống trò chơi học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.28 KB, 40 trang )

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành tiểu luận này, tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Sư phạm Tiểu
học – Mầm non , cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng dạy và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Nga - người đã
trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của tôi còn có rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Xin chân thành cám ơn!

i


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................i
MỤC LỤC.................................................................................................................ii
MỞĐẦU.....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu...........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................3
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu....................................................................3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
7. Đóng góp mới của đề tài..................................................................................3
8. Kết cấu của đề tài............................................................................................3
NỘI DUNG CHÍNH..................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠSỞLÝ LUẬN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP
PHÂN MÔN LUYỆN TỪVÀ CÂU CHO HỌC SINH THÔNG QUA XÂY DỰNG HỆ
THỐNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP...................................................................................5


1.1. Vị trí của phân môn Luyện từ và câu trong trường Tiểu học:....................5
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học:...............................................8
1.3.Cơ sở ngôn ngữ học.......................................................................................9
1.4. Nguyên tắc dạy học Luyện từ và câu ở Tiểu học......................................10
1.5. Cơ sở lí luận của việc bồi dưỡng hứng thú học tập phân môn Luyện từ và
câu cho học sinh Tiểu học thông qua việc xây dựng hệ thống trò chơi học tập.
.............................................................................................................................12
1.5.1. Hứng thú, hứng thú học tập và ý nghĩa của việc bồi dưỡng hứng thú học
tập cho học sinh Tiểu học..................................................................................12
1.5.2. Trò chơi học tập và vai trò của trò chơi học tập.....................................13
.................................................................................................................................14
CHƯƠNG 2: MỘT SỐTRÒ CHƠI HỌC TẬP PHÂN MÔN LUYỆN TỪVÀ CÂU LỚP
3...............................................................................................................................15
2.1. Tổ chức trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu....................................15
2.1.1. Thiết kế trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu:..............................15
2.1.2 Cách tổ chức trò chơi:...............................................................................16
2.2. Giới thiệu một số trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3...........16
2.3. Hiệu quả......................................................................................................25
2.3.1. Về phía học sinh :...................................................................................25
2.3.2. Về phía giáo viên:...................................................................................26
2.3.3.Chất lượng giảng dạy:..............................................................................26
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯPHẠM..............................................................27
KẾT LUẬN..............................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................29
PHỤ LỤC..................................................................................................................1

ii


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, với sự phát triển về mọi mặt của xã hội, đất nước đang trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục
nhằm đào tạo ra một lớp người năng động ,sáng tạo nhằm đáp ứng cho xã hội
nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho các mục tiêu kinh tế, xã hội.
Việc đổi mới mục tiêu giáo dục đã thực hiện thông qua việc đổi mới
chương trình và thay sách giáo khoa, thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng, kết hợp
giáo dục kĩ năng sống và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tiếp tục thực
hiện kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Trong Chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Tiếng Việt cùng với
các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan
trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Tiếng Việt nói chung và phân
môn luyện từ và câu nói riêng thì mỗi người giáo viên không phải chỉ truyền đạt,
giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa trong các sách hướng
dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học
tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ
diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không cao.
Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở
bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách
lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập.Trong đó “ Học mà chơi chơi mà học ” là một trong những phương pháp giúp học sinh tích cực tham gia
vào hoạt động thực hành rèn luyện kiến thức một cách tự giác và hứng thú. Trò
chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Các trò chơi có nội
dung học tập lý thú và bổ ích phù hợp với việc nhận thức của các em. Thông
qua các trò chơi các em sẽ lĩnh hội những tri thức một cách dễ dàng, củng cố,
khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú
1



trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi một cách
thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học sẽ ngày một nâng cao.
Chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài: Bồi dưỡng hứng thú
học tập phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 3 thông qua việc xây dựng hệ
thống trò chơi học tập.
2. Lịch sử nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về hứng thú học tập môn Tiếng Việt nói chung và
phân môn Luyện từ và câu nói riêng xuất hiện sớm nhưng việc nghiên cứu bồi dưỡng
hứng thú học tập chưa được các nhà khoa học và các nhà giáo quan tâm. Hiện tại chỉ
những tài liệu gián tiếp bàn về hứng thú học tập Tiếng Việt chủ yếu khơi gợi, tìm tòi
các biện pháp dạy học Tiếng Việt sao cho hay, cho vui. Đó là những cuốn sách tham
khảo như : “Những bài tập tiếng việt lí thú” (Trương Đức Thành), “Chuyện vui chữ
nghĩa” ( Nguyễn Văn Trứ ) , “Tiếng Việt lí thú ” (Trịnh Mạnh)... Các quyển sách trên
đều dẫn người đọc đi đến một kết luận : nếu biết sứ dụng nguồn tư liệu và bài tập phù
hợp kết hợp với phương pháp tổ chức học tập nhạy bén với ngữ cảnh... thì người thầy
sẽ có được một buổi lên lớp với môn Tiếng Việt thành công, học sinh sẽ có một buổi
học Tiếng Việt đầy hứng thú. Tiếp theo là những tài liệu đi sâu hơn vào vấn đề tạo
hứng thú cho học sinh trong việc học tập Tiếng Việt. Đó là những giáo trình hoặc
những chuyên đề được đăng lên các tạp chí khoa học giáo dục như : “Bồi dưỡng hứng
thú của học sinh đối với môn Tiếng Việt” (Lê Xuân Thại) , “ Để có những thành công
của học sinh trong giờ học Tiếng Việt những ngày đầu tiên đến trường” (Lê Phương
Nga). Các giáo trình và tài liệu trên đã đề cập đến biện pháp tạo hứng thú học tập
Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học nhưng chưa hoàn chỉnh và nhất là chưa khái quát
hóa các biện pháp tạo hứng thú thành lí luận để đội ngũ giáo viên ứng dụng vào giờ
dạy Tiếng Việt.
Việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt là một việc làm có ý nghĩa
quan trọng. Vì vậy vấn đề này cần được quan tâm đúng mức. Do thời gian nghiên cứu
có giới hạn nên tôi tập trung nghiên cứu việc bồi dưỡng hứng thú học tập phân môn
Luyện từ và câu thông qua việc xây dựng hệ thống trò chơi học tập cho học sinh lớp 3
với mong muốn nâng cao hơn nữa kết quả học tập.

2


3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiều học theo phương
hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường
hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Góp phần gây hứng thú học tập phân môn Luyện từ và câu cho học sinh.
Trò chơi học tập không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn
giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó.
Tạo cho các em có cơ hội phát huy trí tuệ, óc phân tích, tư duy sáng tạo.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Một số trò chơi phân môn Luyện từ và câu lớp 3 gây
hứng thú học tập cho học sinh.
Đối tượng: Học sinh lớp 3.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu.
Tìm hiểu các trò chơi học tập gây hứng thú cho học sinh trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 3.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp sau:
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, tôi sử dụng phương pháp
quan sát là chính. Ngoài ra tôi sử dụng thêm một số phương pháp hỗ trợ như
phương pháp điều tra, phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết tôi sử dụng phương pháp đọc
sách và tài liệu liên quan đến nội dung của đề tài.
7. Đóng góp mới của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi muốn đóng góp một số trò chơi học tập trong
dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 để bồi dưỡng hứng thú học tập cho

học sinh.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu , kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3 chương:
3


Chương 1: Cơ sở lý luận của việc bồi dưỡng hứng thú học tập phân môn
Luyện từ và câu cho học sinh thông qua xây dựng hệ thống trò chơi học tập.
Chương 2 : Một số trò chơi phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
Chuơng 3 : Thực nghiệm sư phạm

4


NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỨNG
THÚ HỌC TẬP PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC
SINH THÔNG QUA XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRÒ CHƠI HỌC
TẬP
1.1. Vị trí của phân môn Luyện từ và câu trong trường Tiểu học:
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn tiếng Việt cũng như
những môn học khác cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận
thức về thế giới xung quanh nhằm phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư
duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người.
Trong chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói
riêng , phân môn Luyện từ và câu chiếm một vị trí quan trọng trong chương
trình, có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang bị cho các em một số
kiến thức về từ ,câu.
Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực

hiện chức năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết
định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở tiểu học. Việc dạy Luyện từ
và câu nhằm mở rộng ,hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung
cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt
câu để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tốt nhất.
Học tốt môn này sẽ tạo tiền đề cho các em học tốt các môn khác.
Về vị trí của phân môn Luyện từ và câu, nó chiếm một vị trí quan trọng
trong môn Tiếng Việt nói chung và Tiếng Việt lớp 3 nói riêng. Phân môn này
được hình thành trên cơ sở của hai phân môn cũ trước đây là từ ngữ và ngữ
pháp. Việc nhập hai phân môn lại với nhau dựa vào quan điểm tích hợp trong
biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt ở Tiểu học mới. Theo quan điểm trên, việc
dạy kiến thức Tiếng Việt không tách rời việc cung cấp kiến thức của môn học
khác. Đồng thời các phân môn khác nhau trong Tiếng Việt cùng gắn bó, liên kết
5


chặt chẽ với nhau. Luyện từ và câu là một phân môn khoa học cung cấp cho học
sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu
và khả năng diễn đạt cho học sinh."Việc dạy học Luyện từ và câu ở Tiểu học có
một tầm quan trọng rất lớn trong việc hình thành năng lực sử dụng từ và sử
dụng
câu.Việc dạy từ không thể tách rời việc dạy câu. Từ và câu có vai trò quan trọng
trong hệ thống ngôn ngữ. Từ chỉ cho chúng ta biết khái niệm, còn câu mới cho
chúng ta biết một thông báo. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn
vị nhỏ nhất có thể thực hiện khả năng giao tiếp. Muốn hiểu rõ những đặc điểm
khác nhau về từ, cần đặt từ vào trong câu. Ngược lại, câu được cấu tạo nên bởi
số lượng từ nhất định. Do đó việc dạy từ và câu trong phân môn Luyện từ và
câu .
Bên cạnh đó, việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong
phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho các em những hiểu biết sơ giản, rèn cho

các em kĩ năng dùng từ đặt câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình một
cách linh hoạt. Thông qua phân môn Luyện từ và câu hướng dẫn cho học sinh
việc nghe, nói, đọc, viết và phát triển ngôn ngữ trí tuệ cho trẻ. Một học sinh khi
sỡ hữu số lượng từ phong phú, điều đó có nghĩa là các em đã hiểu biết về thế
giới xung quanh mình nhiều hơn, các em đã lưu giữ được kinh nghiệm, bài học
về cuộc sống tốt hơn thông qua các khái niệm mà các em đã có được.
Đồng thời nhờ có vốn từ dồi dào giúp các em tư duy một cách chính xác,
Không có vốn từ đồng nghĩa với việc các em không đủ điều kiện để diễn
đạt một cách sinh động, đầy đủ ý nghĩ của mình. Khi vốn từ ngày càng được
mở rộng, phong phú thì việc giao tiếp của các em trở nên tốt hơn trong cuộc
sống cũng như học tập, sinh hoạt và vui chơi của mình. Chính vì lẽ đó, việc dạy
Luyện từ và câu có tầm quan trọng rất lớn trong việc hình thành cho các em
năng lực sử dụng từ và cách đặt câu. Đặc biệt, khi học tốt phân môn này sẽ tạo
điều kiện, tiền đề cho các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học
khác.
Về nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu, phân môn này có vị trí rất
6


quan trọng trong môn Tiếng Việt. Nó đảm nhiệm các nhiệm vụ cơ bản như : mở
rộng hệ thống hóa vốn từ, trang bị cho học sinh một số kiến thức sơ giản về từ
và câu; rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu;
bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng khi nói và viết thành câu, có ý
thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong giao tiếp.
Đối với nhiệm vụ mở rộng hệ thống hóa vốn từ, trang bị cho học sinh một
số kiến thức sơ giản về từ và câu. Trong việc dạy nghĩa từ, giáo viên giúp học
sinh nắm và hiểu được nghĩa của từ cung cấp cho học sinh những từ mới và
nghĩa của những từ đã biết, giúp các em nắm được tính nhiều nghĩa và sự
chuyển nghĩa của từ. Việc dạy từ ngữ phải hình thành những khả năng phát hiện
ra những từ mới chưa biết trong văn bản cần tiếp nhận, nắm một số thao tác giải

nghĩa của từ, phát hiện ra nghĩa mới của từ đã biết, làm rõ những sắc thái nghĩa
khác nhau của từ trong những ngữ cảnh khác nhau. Đồng thời trong quá trình
hệ
thống hóa vốn từ, giáo viên giúp học sinh sắp xếp các từ một cách có hệ thống
trong trí nhớ của mình để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo ra tính thường
trực của từ. Công việc này hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiều từ trong hệ
thống hàng dọc của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ đề, đồng
nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo..., tức là kĩ năng liên tưởng để huy
động vốn từ. Dạy cho học sinh sử dụng từ phát triển kĩ năng sử dụng từ trong lời
nói và lời viết của học sinh, đưa từ vào trong vốn từ tích cực được học sinh sử
dụng thường xuyên. Tích cực hóa vốn từ tức là dạy học sinh biết dùng từ ngữ
trong hoạt động nói năng của mình. Bên cạnh đó, giáo viên dạy cho học sinh
biết cách đặt câu, sử dụng kiểu câu đúng mẫu.
Đối với nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng từ, đặt câu và sử
dụng dấu câu. Phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho học sinh một số kiến
thức cơ bản, sơ giản ban đầu, cần thiết và vừa sức với các em. Luyện từ và câu
trang bị cho họ sinh những hiểu biết về cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức
của chúng. Cụ thể đó là các kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ, từ
loại. Đồng thời cung cấp các kiến thức về câu như: cấu tạo câu, các kiểu câu,
7


dấu câu, các quy tắc dùng từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp.
Đối với nhiệm vụ bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng khi nói
và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong giao tiếp.Phân
môn Luyện từ và câu cung cấp cho học sinh một hệ thống vốn từ đa dạng và
phong phú. Thông qua việc dạy Luyện từ và câu tạo cho học sinh thói quen
dùng từ đúng khi nói và viết thành câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu
đúng để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, giáo
viên phải dạy cho học sinh cách dùng từ đúng, hiểu nghĩa của từ, từ đó học sinh

thêm yêu ngôn ngữ mẹ đẻ, có ý thức trong việc sử dụng Tiếng Việt
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học:
Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói cụ
thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp
nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động
quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí.
Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay khi
chúng không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú
trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập.
Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện
tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em
chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy
học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò
chơi xen kẽ ... để củng cố khắc sâu kiến thức.
Về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học, ta nhận thấy cơ thể của
các em đang ở thời kì phát triển.Cụ thể là các hệ cơ quan chưa hoàn thiện vì thế
sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn
điệu, dễ mệt nhất là khi hoạt động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí .
Ở lứa tuổi này các em thiếu hiểu biết về mọi mặt, đặc biệt là nhận thức về
thực tế cuộc sống. Như N.X.leytex đã khắc họa "Tuổi tiểu học là thời kì của sự
nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kì mà sự lĩnh hội chiếm ưu thế". Chúng hay
8


tò mò, thích khám phá, giàu trí tưởng tượng, luôn tin vào những phép nhiệm
màu
kì diệu là có thật. Từ đó mà các em thêu dệt nên những giấc mộng hoài bão rất
dễ thương, đáng yêu mang màu sắc tuổi thơ.Học sinh Tiểu học thiếu kiên trì,
bền bỉ dễ hưng phấn nhưng cũng nhanh chán nên chúng không tập trung cao độ.

Vì vậy, người giáo viên cần phải tạo ra hứng thú trong học tập và phải thường
xuyên được luyện tập.Tâm hồn các em còn hết sức trong sáng, hồn nhiên như
trang giấy trắng còn mới tinh. Ở độ tuổi các em rất dễ xúc động, thích tiếp xúc
với một sự vật hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc
mạnh.Học sinh Tiểu học giàu cảm xúc, cả tin dễ chia sẻ với bạn bè và người
mình tin yêu. Các em luôn tìm sự gần gũi, yêu thương chiều chuộng từ người
lớn, luôn mong muốn được che chở quan tâm.Năng lực hoạt động của các em
còn hạn chế. Nhận thức tư duy của học sinh độ tuổi này còn mang tính trực
quan chưa cụ thể.Chúng rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm
xúc song cũng chóng chán. Do vậy, trong quá trình dạy học giáo viên phải sử
dụng đa dạng hình thức dạy học như : đồ dùng dạy học, đưa học sinh tham quan
thực tế, tăng cường thực hành, tổ chức các trò chơi xen kẽ,... nhằm củng cố khắc
sâu kiến thức bằng cách tạo hứng thú học tập cho các em.
1.3.Cơ sở ngôn ngữ học
Ta

thấy

những

thành

tựu

trong

ngôn

ngữ


học

về

bản

chất ngữ nghĩa của các từ, các lớp từ.. là cơ sở những giờ dạy lý thuyết về từ,
giáo viên phải nắm được dần dần từng bước cho học sinh làm quen với những
khái niệm của từ, tính nhiều nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa,.. Dựa trên bình diện
phát triển lời nói, dạy từ phải tính đến đặc điểm của từ như một đơn vị ngôn
ngữ, quan hệ trực tiếp của từ với thế giới bên ngoài. Việc dạy từ cần được trình
bày như là việc thiết lập quan hệ giữa từ với một lớp sự vật cùng loại được biểu
thị bởi từ. Đó là hai mặt hình thức và nội dung của tín hiệu từ. Hai mặt này gắn
chặt với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Đồng thời, việc dạy từ nhất thiết phải
tính đến những quan hệ ý nghĩa của từ với những từ khác bao quanh trong các
phong cách chức năng. Như vậy, cần tính đến cơ sở ngôn ngữ học của dạy từ, đó
9


cũng chính là cơ sở của việc đề xuất nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ trong
hệ thống ngôn ngữ khi dạy từ. Để việc hình thành khái niệm nắm cấu trúc ngữ
pháp cho học sinh được tiến hành một cách thuận tiện phải đảm bảo sự thống
nhất giữa nội dung và hình thức. Đây là một nguyên tắc có tính ngôn ngữ học.
Nó đòi hỏi quá trình dạy phải luôn giúp học sinh nhận ra dấu hiệu nội dung và
dấu hiệu hình thức của của khái niệm, cấu trúc của từ.
1.4. Nguyên tắc dạy học Luyện từ và câu ở Tiểu học
Để dạy Luyện từ và câu một cách có mục đích, có kế hoạch người giáo
viên cần tuân thủ các nguyên tắc dạy học như: nguyên tắc giao tiếp; nguyên tắc
tích hợp; nguyên tắc trực quan và nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội
dung và hình thức ngữ pháp.

Đối với nguyên tắc giao tiếp, giáo viên cần chú ý giao tiếp là chức năng
xã hội của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của
loài người. Việc thay tên gọi hai phân môn "từ ngữ" và "ngữ pháp" của chương
trình Tiếng Việt cũ bằng "Luyện từ và câu" ở chương trình Tiếng Việt mới là sự
phản ánh quan điểm dạy học trong Luyện từ và câu. Nó đòi hỏi việc dạy học từ,
câu nằm trong quỹ đạo dạy Tiếng Việt như là một công cụ giao tiếp nhằm thực
hiện mục tiêu của chương trình Tiếng Việt Tiểu học mới hình thành và phát
triển ở học sinh kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và
giao
tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi.Vì thế, nguyên tắc giao
tiếp cũng chính là sự vận dụng nguyên tắc thực hành của lí luận dạy học vào
dạy học tiếng mẹ đẻ nên còn gọi là nguyên tắc thực hành. Trong dạy học Luyện
từ và câu không chỉ được thực hiện trên phương diện nội dung mà cả ở phương
pháp dạy học.Vì phương pháp dạy học, trước hết là các kĩ năng Tiếng Việt phải
được hình thành và phát triển thông qua hệ thống bài tập mang tính tình huống
phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên. Như vậy, nguyên tắc giao tiếp
trong dạy Luyện từ và câu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động ngôn ngữ
thường xuyên. Đó là những yêu cầu thực hiện bài tập miệng, bài viết trình bày ý
nghĩa tình cảm, ứng dụng tri thức lý thuyết vào bài tập. Đa dạng hóa các hình
10


thức ứng dụng nhằm phát triển ngôn ngữ lời nói. Quán triệt nguyên tắc giao tiếp
trong luyện từ và câu chính là việc hướng đến xây dựng nội dung dạy học.
Đồng thời việc làm giàu vốn từ, dạy từ phải gắn với đời sống với việc làm giàu
những biểu tượng tư duy, bằng con đường quan sát trực tiếp và thông qua các
hoạtđộng lời nói. Phải thiết lập được mối quan hệ đúng đắn giữa hình ảnh bằng
lời nói sinh động, những kinh nghiệm lời nói và những kinh nghiệm sống đã
được bổ sung. Dạy học phải đảm bảo sự thống nhất giữa lí thuyết ngữ pháp và
thực hành ngữ pháp với mục đích phát triển kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ.

Đối với nguyên tắc tích hợp, giáo viên cần chú ý không có vốn từ phong
phú, không hiểu nghĩa đặc điểm ngữ pháp của từ thì không thể đặt câu đúng,
đồng thời nếu không nắm vững quy tắc đặt câu thì dù có vốn từ phong phú, dù
nắm chắc nghĩa của từ vẫn không thể trình bày được ý nghĩ của mình một cách
đúng đắn, mạch lạc. Vì vậy, luyện từ và luyện câu không thể tách rời. Nguyên
tắc này đòi hỏi việc dạy Luyện từ và câu phải được hình thành mọi lúc, mọi nơi
ngoài giờ học, trong các môn học. Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng
Việt đều có vai trò lớn trong Luyện từ và câu. Chúng mở rộng sự hiểu biết về
thế giới, con người, góp phần làm giàu vốn từ ngữ và cách trình bày có tính
chất
chuyên ngành. Chúng sẽ bổ sung vốn tiếng mẹ đẻ cho học sinh.
Đối với nguyên tắc trực quan, giáo viên cần biết được ý nghĩa của những
hình ảnh, những biểu tượng của trẻ em về thế giới xung quanh là một tổ hợp
cần thiết cho bất kỳ việc dạy học nào. Quan điểm này là cơ sở của nguyên tắc
trực quan. Việc dạy từ đồng thời tác động đến học sinh bằng vật thật (hoặc vật
thay thế) và bằng lời nói. Quá trình học, học sinh phải kết hợp cả nghe, nói, đọc,
viết từ và câu. Các ngữ liệu giáo viên đưa ra làm cơ sở xem xét trong giờ học
Luyện từ và câu phải thực sự tiêu biểu. Đồng thời, để đảm bảo việc sử dụng tài
liệu trực quan hiệu quả thì giáo viên phải nắm chắc mục đích nội dung, nhiệm
vụ bài học đó yêu cầu. Qua đó giáo viên nhìn nhận để chọn ra tài liệu trực quan
phù hợp đảm bảo mục đích yêu cầu của tiết học. Trên cơ sở đó, giáo viên xây

11


dựng kế hoạch sử dụng tài liệu trực quan phù hợp với từng bước lên lớp, từng
nội dung, nhiệm vụ dạy học.
Đối với nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức
ngữ pháp trong dạy học Luyện từ và câu. Giáo viên cần chú ý đến quá trình
hình thành khái niệm cũng đồng thời là quá trình học sinh nắm những thao tác tư

duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa và cụ thể
hóa.
Khi tiến hành dạy học sinh về hình thành khái niệm phải chú ý đến việc
đối chiếu từ trong việc giải nghĩa từ, đặt từ trong các hệ thống hàng ngang, hàng
dọc, phẩm chất xã hội để xem xét và sử dụng.Đồng thời, phải đặt câu trong ngữ
cảnh, trong văn bản để xem xét.
1.5. Cơ sở lí luận của việc bồi dưỡng hứng thú học tập phân môn Luyện từ
và câu cho học sinh Tiểu học thông qua việc xây dựng hệ thống trò
chơi học tập.
1.5.1. Hứng thú, hứng thú học tập và ý nghĩa của việc bồi dưỡng hứng thú
học tập cho học sinh Tiểu học.
1.5.1.1 Khái niệm hứng thú và hứng thú học tập của học sinh Tiểu học.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, nó
có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình
hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung
hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động , làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức , tăng sức làm việc.
Từ khái niệm về hứng thú ta có thể suy ra được định nghĩa của hứng thú
học tập : Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của
hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó
trong đời sống cá nhân.
1.5.1.2. Ý nghĩa của việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt cho
học sinh Tiểu học.
12


Hứng thú giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
của quá trình học tập, nhờ hứng thú mà quá trình học tập có thể giảm mệt mỏi,

căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực, tìm tòi, sáng tạo và quyết định
kết quả học tập của học sinh. Đồng thời, hứng thú học tập không chỉ có mối
quan hệ khăng khít với tri thức của học sinh mà còn tăng thích thú học tập của
học sinh Tiểu học giai đoạn hiện nay.
Hứng thú học tập góp phần hình thành quan hệ nhân cách cho học sinh là
cơ sở để học sinh đề ra nhiệm vụ học tập điều khiển hoạt động tự học ở nhà của
học sinh.
Hứng thú học tập là phương tiện góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
của giáo viên , là điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú học tập và lao động
của học sinh. Việc hình thành hứng thú học tập cho học sinh, đặc biệt là môn
Tiếng Việt sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên , tăng sự
thích thú học tập của học sinh Tiểu học trong giai đoạn hiện nay.
1.5.2. Trò chơi học tập và vai trò của trò chơi học tập
Hoạt động vui chơi là hoạt động mà động cơ của nó nằm trong chính quá
trình hoạt động trong bản thân trò chơi chứ không nằm ở kết quả chơi.
Trò chơi là loại phổ biến của hoạt động vui chơi là chơi theo luật, luật của
trò chơi chính là các quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu của hành động
trò chơi, luật của trò chơi có thể tường minh có thể không.
Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với
kiến thức kỹ năng có được trong hoạt động học tập, gắn với nội dung bài học,
giúp học sinh khai thác vốn kinh nghiệm của bản thân để chơi, thông qua chơi
học sinh được vận dụng các kiến thức kỹ năng đã học vào các tình huống của trò
chơi và do đó học sinh được thực hành luyện tập củng cố mở rộng kiến thức kỹ
năng đã học. Như vậy trong trò chơi học tập các kỹ năng môn Tiếng Việt được
đưa vào trò chơi.
Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh Tiểu học, có thể nói nó quan
trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm
mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Được chơi các em
13



sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ
ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn bã khi thất bại.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực. Giúp học sinh rèn luyện củng
cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động
chơi.
Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng Trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và
hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn.
Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục.
chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các phương pháp sao cho
phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp trực quan, thuyết trình, trò chơi ...
hoặc bài nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra, thực hành ... nhưng
phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học không thể ngồi quá lâu trong giờ học cũng như làm một
việc gì đố nhiều thời gian vì thề giáo viên có thể thay đổi hoạt động học của các
em trong giờ học; cho các em thảo luận, làm bài tập hoặc thông qua trò chơi. Có
như vậy mới gây được hứng thú học tập và khắc sâu được bài học.
tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Và việc vận dụng trò
chơi học tập trong phân môn Luyện từ và câu là hết sức cần thiết.

14


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 3
2.1. Tổ chức trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu
Để các trò chơi góp phần mang lại hiệu quả cao trong giờ học, khi tổ chức
và thiết kế trò chơi phải đảm bảo những nguyên tắc sau:

2.1.1. Thiết kế trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu:
Tổ chức trò chơi học tập để dạy phân môn Luyện từ và câu nói chung và
phân môn Luyện từ và câu lớp 3 nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài
học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù
hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy tiếng Việt có hiệu quả cao thì
đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm
bảo các yêu cầu sau:
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
-Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 3, phù hợp với khả
năng người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
- Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo.
- Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh
* Cấu trúc của Trò chơi học tập:
- Tên trò chơi
-Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ
năng nào. Mục đích của trò chơi sẽ quy định hành động chơi được thiết kế trong trò
chơi.
- Đồ dùng, đồ chơi: Mô tả đồ dùng, đồ chơi được sử dụng trong Trò chơi
học tập.
- Nêu lên luật chơi: chỉ rõ qui tắc của hành động chơi quy định đối với
người chơi, quy định thắng thua của trò chơi.
-Số người tham gia chơi: Cần chỉ rõ số người tham gia trò chơi.
15


- Nêu lên cách chơi.
2.1.2 Cách tổ chức trò chơi:
- Thời gian tiến hành : thường từ 5 - 7 phút

- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi:
+ Nêu tên trò chơi .
+ Hướng dẫn cách chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ luật chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi .
- Chơi thật.
- Nhận xét kết quả chơi, thái độ của ngươi tham dự, giáo viên có thể nêu
thêm những tri thức được học tập qua trò chơi, những sai lầm cần tránh.
- Thưởng - phạt: Phân minh, đúng luật chơi, sao cho người chơi chấp nhận
thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích học tập của học sinh.
Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức đơn giản, vui (như
chào các bạn thắng cuộc, hát một bài, nhảy lò cò ....).
2.2. Giới thiệu một số trò chơi trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi tiêu biểu áp dụng trong quá trình
dạy phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 3.
*Trò chơi 1: “Tìm nhanh từ chỉ đặc điểm”
Mục đích
- Nhận biết nhanh các từ chỉ đặc điểm
- Luyện trí thông minh nhanh tay, nhanh mắt.
Chuẩn bị
- 2 tờ giấy khổ to chép sẵn đoạn thơ có các từ ngữ chỉ đặc điểm.
Cách tổ chức:
Ví dụ : Bài 1/ Tuần 14 :Ôn tập về từ chỉ đặc điểm. Ôn tập câu Ai thế nào?
Bài 1 : Tìm các từ chỉ đặc điểm trong những câu thơ sau :
“ Em vẽ làng xóm
Tre xanh, lúa xanh
Sông máng lượn quanh
Một dòng xanh mát
16



Trời mây bát ngát
Xanh ngắt mùa thu.”
- Số đội chơi: 2 đội. Mỗi đội gồm 5 em tham gia (học sinh cả lớp cổ vũ và
làm trọng tài).
- Thời gian chơi: từ 3 đến 5 phút.
- Cách chơi:
+ Mỗi đội chơi có một tờ giấy đã chép sẵn đoạn thơ trên
+ Gv yêu cầu từng thành viên trong đội chơi lên gạch một gạch dưới các từ
chỉ đặc điểm trong khổ thơ. Em đầu tiên lên gạch một từ chỉ đặc điểm rồi đi
xuống đứng vào cuối hàng của đội mình, sau đó em thứ hai lên và cứ tiếp nối
cho đến em cuối cùng. Trong thời gian như nhau, đội nào xác định được đúng
nhiều từ nhất thì được điểm cao. Mỗi từ xác định đúng được tính 2 điểm ( ví dụ:
xanh, bát ngát, xanh mát, xanh ngắt), mỗi từ xác định sai bị trừ 2 điểm. Đội nào
được nhiều điểm thì đội đó thắng .
* Trò chơi 2 : “Truyền điện”
Mục đích:
- Ôn luyện kỹ năng nói , viết câu đúng mẫu Ai thế nào? Có sự phù hợp
nghĩa giữa thành phần chủ ngữ và thành phần vị ngữ.
- Luyện óc quan sát, tác phong nhanh nhẹn.
Chuẩn bị:
Gv chuẩn bị một số từ ngữ phù hợp với các chủ đề theo mẫu câu : Ai thế
nào?
Cách tổ chức:
Ví dụ: Bài tập 2/ Tuần 17:
Đặt câu theo mẫu Ai thế nào?để miêu tả:
a/ Một bác nông dân
b/ Một bông hoa trong vườn
c/ Một buổi sớm mùa đông
- Gv chia lớp thành 3 tổ: tổ 1 và 2 tham gia chơi, tổ 3 làm trọng tài.
- Thời gian chơi từ 3 đến 5 phút.

17


- Cách chơi:
1 Hs ở tổ 1 nêu bộ phận của câu trả lời cho câu hỏi: Ai? ( Bác nông dân).
Sau đó chỉ định cho 1 Hs ở tổ 2 nêu bộ phận của câu trả lời cho câu hỏi :Thế
nào?( rất chăm chỉ).
Nếu học sinh đó trả lời đúng thì được quyền nêu bộ phận của câu trả lời
cho câu hỏi: Ai?. Nếu HS nào không trả lời được hoặc trả lời sai mẫu câu thì HS
đó đứng tại chỗ , nếu tổ nào có nhiều HS trả lời đúng thì tổ đó thắng cuộc.
* Trò chơi 3 : “ Tiếp sức”
Mục tiêu:
Mở rộng vốn từ; rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh.
Chuẩn bị :
Bảng phụ ghi sẵn bài giải để bổ sung một số từ sau khi trò chơi kết thúc mà
các em chưa tìm được.
Cách tổ chức:
-Tổ chức cho 2 đội thi đua,với số học sinh của 2 đội bằng nhau.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên nhóm từ,yêu cầu các em
kể ra những từ thuộc nhóm đó. GV chỉ cần nêu tiếp sức bắt đầu: Lần lượt từng
học sinh của 2 đội nối tiếp nhau ghi lên bảng mỗ em 1 từ. Hết thời gian chơi đội
nào ghi nhiều từ và đúng thì sẽ chiến thắng.
Trò chơi này tôi thường dùng khi dạy các bài: BT1 tuần 4;BT1 Tuần15;
BT1 tuần 16, BT2 tuần 26, BT1 tuần 31, BT1 tuần 34, …
* Trò chơi 4: “Hỏi nhanh, đáp giỏi”
Mục tiêu:
Rèn kĩ năng sử dụng câu hỏi và trả lời; luyện tư duy và phản ứng nhanh.
Chuẩn bị :
Bảng phụ ghi nội dung bài tập
Chuẩn bị thêm một số đáp án cho những bài tập có nội dung đặt câu hỏi.

Cách tổ chức: Lớp chia làm hai đội A và B; lần lượt một HS của đội A
hỏi thì một HS đội B trả lời và ngược lại. Mỗi lần đặt đúng câu hỏi hoặc trả lời
đúng thì ghi cho đội mình được 10 điểm. Cứ như thế, các HS khác tiếp tục cho
18


đến hết câu hỏi trong thời gian cho phép (từ 3- 5 phút.) Những em trả lời sai
hoặc chậm thì không được tính điểm. Đội nào có số điểm cao sẽ chiến thắng.
Ví dụ: BT 2, tuần 28
HS1(Đội A): Con phải đến bác thợ rèn để làm gì?
HS1 (Đội B): Con phải đến bác thợ rèn để xem lại bộ móng.
HS2 (Đội B): Cả một vùng sông Hồng nô nức làm lễ,mở hội để làm gì?
HS2 (Đội A): Cả một vùng sông Hồng nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ
ông.
HS3 (Đội A): hỏi
HS3 (Đội B): Trả lời
…………………………………………………………………
Hình thức trò chơi này tôi đã vận dụng cho nhiều bài tập như:BT3, BT4;
Tuần 19; BT2 , BT3,tuần 30;…
* Trò chơi 5 : “ Bông hoa đẹp nhất”
Mục tiêu:
Ôn luyện kĩ năng nói, viết đúng câu theo mẫu; luyện khả năng nhận xét
nhanh.
Chuẩn bị : Những danh từ ghi sẵn trên tấm thẻ, hai bông hoa nhiều cánh
(số cánh hoa phù hợp với yêu cầu của bài tập) chưa có màu sắc. HS: một số cánh
hoa rời có màu (kích cỡ như GV quy định).
Cách tổ chức:
Lớp chia thành hai đội (Bông Hồng ,Bông Cúc). Tổ chức chơi thử sau đó
tiến hành chơi.
GV lần lượt giơ từng tấm thẻ ghi sẵn các từ ngữ, các đội luân phiên đặt câu

hỏi theo yêu cầu. Mỗi lần HS trả lời đúng thì sẽ có một cánh hoa có màu. Hết
giờ chơi, đội nào có nhiều cánh hoa có màu sắc hơn, đội đó thắng cuộc.
Ví dụ: BT4 tuần 11-Dùng mỗi từ ngữ đặt câu theo mẫu Ai làm gì?
GV lần lượt giơ tấm bìa ghi “Bác nông dân”
HS đội Bông Hồng: Bác nông dân đang cày ruộng.
(Đội Bông Hồng sẽ có một cánh hoa có màu sắc hiện lên)
19


HS đội Bông Cúc: Bác nông dân đang gặt lúa trên cánh đồng.
(Đội Bông Cúc sẽ có một cánh hoa có màu sắc)
Tương tự với các cụm từ: Em trai tôi, những chú gà, …
Hết giờ chơi, đội nào có bông hoa có nhiều cánh có màu sắc, đội đó sẽ là
đội chiến thắng .
Trò chơi này, tôi thường sử dụng khi dạy các bài tập 3 tuần 4, BT2 tuần
17,…
* Trò chơi 6 :“Trắc nghiệm”
Mục tiêu: Ôn tập lại kiến thức đã học; luyện phản ứng nhanh, khả năng
quan sát, nhận xét, đánh giá chính xác, tiết kiệm thời gian.
Rèn tính tự giác, nêu cao tinh thần đồng đội.
Chuẩn bị: GV: chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp án.
HS: thẻ đúng , sai.
Cách tổ chức:
Chia lớp làm 2 đội chơi, cử 2 trọng tài.
- Cách 1: GV lần lượt giới thiệu từng câu hỏi, HS sử dụng bảng nhận xét
để trả lời, trọng tài theo dõi tổng kết. Đội nào có số bạn trả lời sai ít hơn đội đó
thắng cuộc.
- Cách 2: GV cho HS tự làm bài, lần lượt đưa từng đáp án, HS kiểm tra
bài làm của mình; tự giác trả lời bằng thẻ. Trọng tài theo dõi tổng kết.
+ Với trò chơi này, tôi có thể sử dụng vào tất cả các bài tập về so sánh,

nhân hoá, ôn về các dấu câu, mẫu câu.
Trò chơi này giúp HS biết đánh giá bài làm của mình, GV kiểm tra bài làm
của HS một cách nhanh gọn hơn.
* Trò chơi 7: “Trổ tài nhân hóa”:
Mục tiêu: Luyện phát hiện nhanh biện pháp nhân hoá và tạo nhanh cụm từ
có dùng biện pháp nhân hoá, luyện khả năng tưởng tượng, rèn phản ứng nhanh.
Chuẩn bị:

20


Giáo viên chuẩn bị một số từ ngữ gọi tên các đối tượng có thể nhân hóa và
một số cách nhân hóa các đối tượng này (gọi tên như người, có hành động, đặc
điểm như người, được gọi tên để chuyện trò như người).
Cách tổ chức:
Chia lớp thành hai đội (A,B), GV(hoặc mời 2 HS) làm trọng tài.
1HS đội A hô, 1HS đội B đáp và ngược lại.
Lưu ý mỗi đội chỉ được một lần hô hoặc đáp. Mỗi lần hô và đáp đúng sẽ
đạt được 10 điểm.
Hết giờ chơi quy định, đội nào có nhiều điểm hơn đội đó tài hơn và thắng
cuộc.
Tôi thường sử dụng trong khi dạy các bài Luyện từ và câu có nội dung về
biện pháp nhân hoá như BT1 tuần 19, BT 1 các tuần 21,25,33,…
*Trò chơi 8 : “Đặt câu với từ cho trước”
Mục đích:
- Rèn kĩ năng dùng từ đặt câu đúng nội dung, đúng ngữ pháp.
- Luyện phản ứng nhạy, tác phong nhanh nhẹn
Chuẩn bị:
- Các từ cần sử dụng để đặt câu thuộc chủ đề đã học.
-Số học sinh tham gia không hạn chế.

Cách tổ chức :
Giáo viên nêu ra một từ cần đặt câu và chỉ định một học sinh bất kì đứng
lên đặt câu .Nếu học sinh đặt câu đúng ,GV sẽ đưa ra một từ khác và HS sẽ chỉ
định người tiếp theo đặt câu . Ai không đặt câu được hoặc đặt câu sai sẽ nhảy tại
chỗ 5 lần.GV sẽ chĩ định người kế tiếp.
Hết thời gian chơi, nhóm nào ít bị nhảy hơn sẽ thắng cuộc.
Trò chơi này được sử dụng.Bài 2 Tuần 20.
* Trò chơi 9: “ Hỏi để đoán từ”
Mục đích:
- Luyện óc quan sát, nhận xét nhanh nhạy.
- Luyện kĩ năng đặt câu hỏi để lấy thông tin.
21


Chuẩn bị:
- Một số mẩu giấy hoặc mảnh bìa để ghi từ.
Cách tổ chức:
- Người chơi chia theo từ cặp hoặc theo 2 nhóm. Mỗi người hoặc nhóm
chơi đều có các bìa ghi từ theo 2 bộ khác nhau.
- Từ người ( hoặc nhóm) chơi sẽ đố và ghi lại từ, người nhóm kia sẽ hỏi,
đoán và đổi vai cho nhau.Hết giờ chơi, người hoặc nhóm nào được nhiều bìa ghi
từ hơn sẽ thắng.
* Trò chơi này áp dụng các bài: tuần 21, tuần 23, tuần 30.
* Trò chơi 10 :“Thử tài so sánh ”
Mục đích:
- Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có hình ảnh
so sánh đúng .
- Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng , liên tưởng về hoạt động
hay đặc điểm, tính chất ...của sự vật.
Chuẩn bị :

- Làm các bộ phiếu bằng giấy ( Kích thước : 3 x 4 cm)
- Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái , đặc điểm, màu
sắc ... của sự vật ( Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học ) . Lớp 3 chủ yếu là từ
chỉ hoạt động, trạng thái , đặc điểm , tính chất
Ví dụ :
+ Bộ phiếu A( 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái) : Đọc , viết cười ,nói , khóc
( Dành cho Tiết 7: ôn tập từ chỉ trạng thái )
+ Bộ phiếu B ( 5 từ chỉ màu sắc )Trắng , xanh, đỏ, vàng , đen
( Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh )
+ Bộ phiếu C ( 5 từ chỉ đặc điểm , tính chất ): đẹp, cao, khoẻ, nhanh,
chậm( Dành cho tiết 14 , 17: ôn tập từ chỉ đặc điểm )
- Phiếu được gấp tư để “bốc thăm”
- Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi .

22


Cách tổ chức :
- Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xụng phong lên thử tài
so sánh ( 1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”).
- Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi
nêu thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
- Ví dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cụm từ so sánh:
trắng như tuyết, trắng như vôi, ( hoặc : trắng như trứng gà bóc ).
- Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai
+ Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm .
+ Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm .
- Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài .Hết 5 phiếu thì về chỗ , thư kí
công bố kết quả .
- Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so sánh cao nhất là người thắng

cuộc.
*Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên . Cũng
có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu . Mỗi phiếu chỉ cần nêu 1 cụm từ .
Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người trước . Hoặc cũng có thể bốc
cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm . Nhóm nào tìm được nhiều cụm từ nhất thì
nhóm đó thắng .
*Trò chơi 11: “ Ai nhanh ai đúng”
Mục đích:
- Luyện kĩ năng sử dụng đúng dấu câu.
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, đoàn kết khi tham gia chơi.
Chuẩn bị:
-Câu văn, có chổ trống cần điền dấu câu.
- Phấn ( hoặc bút ) khác màu .
Cách tổ chức:
- Chia thành 2 nhóm chơi
Mỗi nhóm có số học sinh tương ứng với số dấu câu cần điền.

23


×