Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Thời gian nghệ thuật trong thơ xuân diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.64 KB, 40 trang )

Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương bằng
những tác phẩm văn học Pháp vào thế kỉ thứ XIX. Sau đó, nó ngày càng trở nên
phổ biến trong các tác phẩm văn chương. Và theo thời gian, bằng những tác
phẩm suất sắc của mình, chủ nghĩa lãng mạn ngày càng khẳng định được vị trí,
những đóng góp của mình đối với nền văn học nói chung.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất, mang đậm dấu ấn riêng của chủ
nghĩa lãng mạn chính là việc đề cao chủ nghĩa cá nhân, đề cao cái “tôi” rất riêng
của nhà thơ thay vì cái “ta” chung trong chủ nghĩa cổ điển. Lần đầu tiên, những
ý thức cá nhân, những quan điểm, khuynh hướng thẩm mỹ, xúc cảm, con mắt cá
nhân được đề cao và được coi như là trung tâm của văn chương. Nhà nghệ sĩ
mạnh dạn bày tỏ hình ảnh của chính mình, đưa một cái “Tôi” nhân vật rất đậm
nét vào trong văn chương.
Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, có thể kể tên hàng loạt loạt các tác giả, tác
phẩm tiêu biểu như: René của François-René de Chateaubriand; Alphonse de
Lamartine với tập thơ Trầm tư; Alfred de Musset với truyện ngắn Lời bộc bạch
của những đứa con thời đại; George Sand với tiểu thuyết Cái đầm ma; Victor
Hugo với tập thơ Tia sáng và bóng tối, tiểu thuyết Nhà thờ đức bà Paris, Những
người khốn khổ, kịch Hernani.
Với văn học Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn thực sự mang dấu ấn đậm nét
sau khi sự ra đời của phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Đây là giai đoạn mà văn
học Việt Nam có sự đổi mới, cách tân vô cùng kì diệu, có sự chiến đấu mãnh liệt
giữa yếu tố cũ - yếu tố mới và kết quả là hang loạt những tác giả, tác phẩm nổi
tiếng đã ra đời, đem đến một hơi thở, một tiếng nói rất riêng, một “luồng gió
mới lạ” cho nền văn học nước nhà.
Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, đến Thơ mới, người ta không thể không
nghĩ đến Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”, người đã góp
phần đưa Thơ mới lên đến giai đoạn đỉnh cao nhất của nó.

SVTH: Dương Thị Hường



1

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Trong thơ Xuân Diệu, người đọc có thể thấy dấu ấn đậm nét, cảm hứng
lãng mạn im đậm trong mỗi vần thơ, thấm vào từng câu chữ, tứ thơ, thể hiện qua
cả hình thức và nội dung tác phẩm.
Trong bài viết này, do sự hiểu biết còn hạn hẹp và thời lượng không cho
phép, em chỉ xin khai thác một khía cạnh trong thơ Xuân Diệu: Đó là khía cạnh
thời gian nghệ thuật. Chắc hẳn, bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong cô
góp ý cho em để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thày!

SVTH: Dương Thị Hường

2

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG I. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
I. Vài nét về tác gia Xuân Diệu và chủ nghĩa lãng mạn
Xuân Diệu (1916-1985) – một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc,
đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn năm
mươi năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn
của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà

thơ cách mạng. Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài
năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của
văn học Việt Nam. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và
văn xuôi.
Chủ nghĩa lãng mạn vừa có nghĩa là trào lưu văn học, vừa là phương pháp
sáng tác, mang một nội dung lịch sử xã hội-cụ thể, được hình thành ở Tây Âu
sau Cách mạng tư sản Pháp năm 1789
II. Các nguyên lý cơ bản
1. Đề cao mộng tưởng
Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con
người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi
cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn "cái
tôi" bị tổn thương cái tôi của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn
là thế giới mộng tưởng. Tùy vào sự phản ứng khác nhau của hai khuynh hướng
tiêu cực và tích cực.
Đối với những người lãng mạn tiêu cực thì họ có thái độ bi quan trốn chạy
cuộc đời, họ thường tìm về quá khứ vào mộng ảo hay thu mình vào "cái tôi" bí
ẩn, thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái chết (Nỗi lòng chàng Werther của
Johann Wolfgang von Goethe).
Đối với những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn thỏa hiệp
với thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới đảm bảo hạnh phúc
cho con người, họ thường vẽ nên một xã hội lý tưởng (Nhà thờ đức bà Paris,
Những người khốn khổ của Victor Hugo.
2. Đề cao tình cảm
SVTH: Dương Thị Hường

3

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57



Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Chủ nghĩa lãng mạn còn được gọi là chủ nghĩa tình cảm, vì ở đây tình
cảm của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa lãng mạn chính
là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sùng lý trí với những
quy tắc tam duy nghiêm ngặt (không đề cập đến tình cảm của của con người,
không đưa thiên nhiên vào tác phẩm ...) đã siết chặt tính sáng tạo và tình cảm
của con người. Nên trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người được khai
thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất, trở
thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của con người.
3. Đề cao sự tự do
Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn hướng đến một
cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buột. Ở chủ nghĩa lãng mạn người nghệ sĩ
được trả lại tất cả mọi quyền tự do để họ thỏa sức sáng tạo và tưởng tượng. Nên
đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường, vì chủ nghĩa
lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt (đôi khi vô lý), nên nó
đã tự cho phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối.
III. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được thể hiện qua một số đặc
điểm
1. Đề tài
Không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Nếu trong chủ nghĩa cổ điển
đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lý tưởng cao cả của những
ông hoàng bà chúa hoàn toàn không đề cập đế những khía cạnh đời sống của
những tầng lớp dưới( những người bình dân). Thì ở chủ nghĩa lãng mạn mọi vấn
đề của cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đều ngang nhau trở thành đề tài cho
văn học nghệ thuật.
2. Nhân vật
Mọi người dù ở bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng đều được phản ánh qua
các tác phẩm của chủ nghĩa lãng mạn, không phân biệt giai cấp, mọi người đều
có quyền bước chân vào văn học. Văn học lãng mạn đã thành công khi thể hiện

hình ảnh "đám đông" quần chúng với những kiếp người đau khổ. Vd: Hình ảnh
đám đông trong Nhà thờ đức bà Paris của Victor Hugo.
SVTH: Dương Thị Hường

4

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
3. Thể loại
Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học không có sự phân biệt thiếu dân chủ
(như trong chủ nghĩa cổ điển) không phân chia thể loại cao cả và thấp hèn,
nhưng thể loại thích hợp và được sử dụng nhiều hơn cả là thơ trữ tình và tiểu
thuyết.
4. Ngôn ngữ
Câu văn trở nên linh hoạt, thủ pháp nghệ thuật được sử dụng nhiều hơn.
Chủ nghĩa lãng mạn phổ biến trong các sáng của nhiều nền văn học, tiêu
biểu nhất là văn học Pháp.
Cái tôi cá nhân với những lý tưởng thẩm mỹ rất riêng chính là một trong
những đặc điểm nổi bật nhất, góp phần phân biệt rạch ròi giữa chủ nghĩa lãng
mạn với các khuynh hướng văn học khác, mà tiêu biểu là chủ nghĩa cổ điển.
Trong Văn học Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn được thể hiện rõ nét nhất
qua phong trào Thơ mới 1932 – 1945.

SVTH: Dương Thị Hường

5

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57



Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG II. PHONG TRÀO THƠ MỚI VÀ TÁC GIA XUÂN DIỆU
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ “Tình già” của Phan Khôi ra mắt bạn
đọc trên báo “Phụ nữ tân văn” số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên “Một lối
thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài
thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới. Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ
mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới
chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của
thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên
gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới những năm 1932-1945 là
khuynh hướng lãng mạn. Từ khuynh hướng này đã nở rộ ra một loạt tên tuổi,
một loạt các gương mặt nhà thơ lãng mạn. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo
rực, băn khoăn như Xuân Diệu.
Xuân Diệu là nhà thơ được xếp là tiêu biểu nhất cho phong trào Thơ mới,
cho chủ nghĩa lãng mạn tồn tại trong văn học Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Điều
này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của ông giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám.
Trước Cách mạng Tháng Tám, sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu được
đánh dấu bởi các tập thơ: “Thơ Thơ“ (1938), “Gửi Hương Cho Gió” (1945),
“Trường Ca” (1945)… Trong đó, “Thơ Thơ” và “Gửi Hương Cho Gió” là tác
phẩm khiến Xuân Diệu góp phần đưa Thơ mới đến đỉnh cao huy hoàng và rực rỡ
nhất.
Chất lãng mạn in đậm trong mỗi vần thơ của Xuân Diệu thời kỳ này, thể
hiện qua nhiều yếu tố khác nhau: đề tài, thể loại, ngôn ngữ… Trong khuôn khổ

bài viết hạn hẹp này, em xin được trình bày về một khía cạnh giàu tính chất lãng
mạn trong thơ Xuân Diệu: đó là quan điểm, cái nhìn của Xuân Diệu về thời gian
và yếu tố thời gian hiện lên trong thơ Xuân Diệu.
SVTH: Dương Thị Hường

6

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG III. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THỜI GIAN
I. Từ trước đến nay, thời gian luôn được xem là một vấn đề khó có thể định
nghĩa rạch ròi, chính xác.
Một số từ điển có định nghĩa về thời gian như sau: “thời gian" - hình thức
tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là hiện tại, quá
khứ và tương lai”.
Theo giáo sư Trịnh Xuân Thuận – cho rằng thời gian là một khái niệm
không phải để ta nắm bắt và thời gian thường có 2 loại là thời gian tâm lý và vật
lý. Thời gian tâm lý là thời gian chủ quan và thời gian vật lý là thời gian khách
quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, nó là “thời gian đồng hồ”.
Trong bài viết của Minh Chi đã nói đến một ý nghĩa khác: “thời gian chỉ
là một điều kiện chủ quan của nhận thức trực cảm của chúng ta, nó không tồn tại
ở ngoài chủ thể”.
Như vậy thời gian là một khái niệm khó định nghĩa, khó hiểu và việc cảm
thức nó lại càng khó hơn. Trong triết lý nhà phật thì cho rằng thời gian không
phải là một thực tại cứu kính, nó không tồn tại tách biệt hiện tượng và người
quan sát, họ cũng thừa nhận tính ảo ảnh của thời gian. Thời gian qua đi rất mau,
nó còn nhanh hơn mũi tên bị bắn khỏi cung.
Có thể nói thời gian là vấn đề luôn luôn được tìm hiểu trong mọi thời kỳ,

từ quá khứ đến hiện tại và còn đến tương lai. Nó là vấn đề làm cho nhiều lĩnh
vực khác phải quan tâm và trong số đó có cả lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Trong văn chương nghệ thuật, viết về thời gian cũng vận động trên cả ba
chiều: quá khứ, hiện tại, tương lai. Tuy nhiên văn chương không gò bó cách thức
thể hiện quan điểm về thời gian mà nó có thể được đảo lộn trình tự hoặc cũng có
thể bỏ qua một hoặc hai trong ba chiều vận động vốn có của nó. Có nhiều cách
thức thể hiện thời gian khác nhau, tác phẩm nghệ thuật xuất phát từ một mốc
thời gian nhất định trong thời gian. Từ đó có thể làm ngưng lại một khoảnh khắc
của dòng đời dài đằng đẵng mà cũng có thể dồn nén một quãng thời gian hàng
chục năm, hàng trăm năm vào một thời khắc.
SVTH: Dương Thị Hường

7

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Với bàn tay của người nghệ sĩ, thời gian không còn theo chiều vận động
vốn dĩ của nó mà đã được đưa vào cái nhìn, suy nghĩ chủ quan của người nghệ
sĩ, và trong thơ ca, quan điểm về thời gian của người nghệ sĩ gắn liền với nguồn
cảm hứng sáng tạo của thi nhân bởi hình tượng thơ và hình tượng cảm xúc. Sự
cảm thụ thời gian trong thơ chính là mối rung động của nhà thơ trước cuộc đời
và ý nghĩa chung của đời sống nhân sinh. Nhà thơ càng nặng cõi đời thì sự quan
tâm trước mọi thời khắc càng trở nên mãnh liệt.
II. Thời gian trong chủ nghĩa lãng mạn
Trong chủ nghĩa lãng mạn, vấn đề thời gian được thể hiện qua rất nhiều
khía cạnh khác nhau. Đó có thể là sự đề cao, lý tưởng hóa quá khứ. Theo đó,
thời gian đi từ quá khứ đến hiện tại, tương lai theo đồ thị đi xuống. Không chỉ có
vậy, thời gian trong chủ nghĩa lãng mạn còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa

chủ thể thẩm mỹ với thời gian, hay nói một cách khác là nó đặc trưng cho cách
hiểu thời gian từ góc độ cá nhân…
Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu, thể hiện một cách rất riêng, rất
xuất sắc đặc trưng cho cách hiểu thời gian từ góc độ cá nhân ấy. Với nhà thơ,
thời gian được nhìn như một đối tượng “thù địch” với sinh mạng cá nhân. Với
ông, bi kịch lớn nhất của con người lãng mạn chính là thời gian.

SVTH: Dương Thị Hường

8

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG IV. MỘT VÀI QUAN NIỆM VỀ THỜI GIAN
TRƯỚC XUÂN DIỆU
Mãn Giác Thiền sư trong “Cáo tật thị chúng” đã viết:
“Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Với bài kệ nổi tiếng này. Mãn Giác Thiền sư đã đưa ra một quan niệm về
thời gian: thời gian tuần hoàn, bất biến, xuân qua rồi xuân lại tới, thời gian trôi
đi rồi thời gian lại trở về, cứ theo một vòng tuần hoàn: xuân - hạ - thu đông như
thế. “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, đạo Phật cho rằng con người khi chết
đi chỉ là chết về mặt thể xác, cái còn là linh hồn sẽ trường tồn vĩnh cửu. Hơn
nữa: “Đời là bể khổ, tình là dây oan”, nên con người chỉ luôn hướng về cõi cực

lạc, mong muốn thoát khỏi trần ai để mà về với một thế giới khác. Con người cứ
lặng lẽ treo theo dòng chảy vốn có ấy của thời gian một cách lặng lẽ, trung
thành.
Nói về thời gian tuần hoàn, Nguyễn Du cũng viết trong “Truyện Kiều”
“Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân”
Trong văn học thời kỳ trước, thời gian dường như đều được nhìn trên một
tầm vĩ mô, được đo bằng những khái niệm rất lớn: Nghìn năm, vạn năm:
“Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi”
(Nguyễn Công Trứ)
Còn Tản Đà thì :

SVTH: Dương Thị Hường

9

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
“Đời người thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài hơn”.
Các nhà thơ trước cũng đã có những lúc ý thức, thở than về cái hữu hạn
của đời người. Song, ý thức một cách sâu sắc, cuồng nhiệt thì chỉ đến thơ Xuân
Diệu mới có được.

SVTH: Dương Thị Hường

10


Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG V. QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THỜI GIAN
I. Thời gian tuyến tính, thời gian “thù địch” với sinh mạng cá nhân.
Khác với những quan niệm trước đó về thời gian, đến Xuân Diệu thời
gian là một đi không trở lại, vũ trụ là khách thể độc lập với con người. Và với
Xuân Diệu, thời gian không còn tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn năm, vạn
năm, thiên thu… như trong thơ cổ mà với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc,
nhà thơ cảm nhận rõ hơn ai hết sự thật đáng buồn “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm
lại”, cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.
Thời gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi khoảnh khắc qua đi là
mất đi vĩnh viễn.
Những bài thơ viết về thời gian của Xuân Diệu có thể kể đến rất nhiều
như: Đi thuyền, Thời gian, Giờ tàn, Chiếc lá, Vì sao, Giã từ thân thể, Vội vàng,
Giục giã, Hết ngày hết tháng… đều thể hiện những quan điểm cá nhân của nhà
thơ về thời gian, dòng thời gian hay cũng là dòng đời luôn luôn chuyển động,
thay đổi không ngừng. Bài “Thời gian” có thể coi là sự phát ngôn đầy đủ cho sự
cảm nhận về thời gian của nhà thơ:
“Dưới thuyền nước trôi
Trên nước thuyên chuồi
Và nước, và thuyền
Xuôi dòng đi xuôi”
Thông qua hình tượng “nước” và “thuyền” nhà thơ nói lên sự nhận thức
rõ ràng nhịp điệu trôi chảy của thời gian. Thời gian trong thế giới vũ trụ thì vĩnh
cửu, còn thời gian đời người là hữu hạn. Con người bất lực hoàn toàn trước sức
mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm:
“Nước cũng mất luôn

Nhưng nước còn nguồn
Thuyền chìm trong lúc
Đêm ngày nước tuôn”
Bài “Đi thyền” nhà thơ cũng vẫn mượn hai hình ảnh ấy:
“Thuyền qua mà nước cũng trôi
SVTH: Dương Thị Hường

11

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tô tưởng cũng thay khác rồi”
Với cách mượn dòng chảy của nước để nói đến dòng chảy của thời gian là
quá quen thuộc, thơ ca từ xưa đến nay nói đến điều đó không ít. Xuân Diệu với
cách nghĩ, cách nhìn của một nhà Thơ mới, thì thời gian còn gấp rút hơn rất
nhiều:
“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này”
Nói lên sự nhạy cảm vô cùng trước sự thay đổi của thời gian, sự thay đổi
không còn là năm là tháng là ngày nữa mà sự thay đổi diễn ra trong từng phút
một, cái “tôi” của phút trước đã khác với cái “tôi” của phút này.
Với “vội vàng” càng làm ta thấm thía về dòng chảy thời gian không bao
giờ biết ngừng nghỉ
“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Có lẽ, trước đó, chẳng có bất kì ai lại “sợ” thời gian hơn là Xuân Diệu.

Thông thường, người ta nắm trong tay cái gì rồi mới sợ mất, còn Xuân Diệu, dù
“xuân” mới chỉ đương tới, đương đến, nhà thơ đã nghĩ ngay đến khoảnh khắc
phai tàn, khoảnh khắc biến mất. Cặp từ đối lập: “tới – qua”, “non – già” càng
nhận mạnh sự chảy trôi nhanh chóng, đáng sợ của của thời gian qua mắt nhìn
Xuân Diệu.
Trong tâm tưởng của Xuân Diệu, ngày hôm nay qua đi rồi tháng, rồi năm,
rồi đời người sẽ hết, tuổi già, cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong lòng nhà thơ:
“Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi
Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi”

SVTH: Dương Thị Hường

12

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Và với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự
nuối tiếc thời gian của nhà thơ:
“Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì
Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng
Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa”
Nhà thơ dường như chú ý đến từng bước đi của thời gian từng chút một,
như chính “mùa thu tới”:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”
Thời gian chuyển động qua từng sắc lá trong vườn, và trong “Đây mùa

thu tới” tác giả Đỗ Lai Thuý đã có nhận định rằng: “Đó là tiếng gọi của thời
gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”.
Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi
không trở lại”. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn,
thời gian định hướng chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật
trong toàn bộ sáng tác của anh” .
Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, sự đối lập giữa thời gian
vũ trụ với thời gian của một kiếp người:
“Ngọn gió thời gian không ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh hoa rơi”
Hay:
“Những ngày cứ thắt đi từng phút
Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn
Trưa đến thôi rồi! Bình đã vỡ
Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan”
Bước đi của thời gian cũng khiến cho sự vật, cho không gian dường như
run rẩy, run lên vì sợ hãi:
SVTH: Dương Thị Hường

13

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Như thế, thời gian trong thơ Xuân Diệu là thứ thời gian tuyến tính, thời
gian “một đi không trở lại”. Thứ thời gian ấy có thể làm cho người ta hoảng hốt,
run sợ bởi cuộc đời sao mà quá ngắn ngủi, một kiếp người sao mà trôi đi quá

nhanh. Thời gian dường như là một kẻ “thù địch” với những số phận cá nhân,
mà Xuân Diệu là một điển hình tiêu biểu.
II. Xuân Diệu và bản lĩnh “chiếm lĩnh thời gian”.
Có lẽ, điều đáng quý nhất ở thơ Xuân Diệu, ở con người Xuân Diệu chính
là lối sông “chiếm lĩnh thời gian” mà bản thân ông luôn tâm niệm, và gửi gắm
tất cả vào trong thơ ca của mình.
Đồng nghĩa với việc nhận thức về dòng chảy thời gian “vô thủy, vô
chung”, một đi không trở lại, Xuân Diệu đã đem đến những vần thơ sôi nổi, gấp
gáp về một quan điểm sống hết mình trong từng hơi thở.
Chính vì ý thức rõ rệt được từng sự biến chuyển của thời gian nên Xuân
Diệu đã sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng cuộc sống, trong “vội
vàng”:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Rồi đến bài “Giục giã” thì:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi,
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi”
Thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất từng khắc
của tuổi thanh xuân,trong bài thơ “Thanh niên” Xuân Diệu viết:
“Ngươi đang ở! Ta vội vàng dữ quá!
SVTH: Dương Thị Hường

14

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu

Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn!
Sống toàn tâm và thức cả giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.”
Xuân diệu phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi quanh ta biết
bao điều mới lạ thật đáng yêu, cuộc đời trần thế đẹp và hấp dẫn biết bao càng
thấy đẹp ta càng muốn tận hưởng, càng muốn tận hưởng thì lại thấy cuộc đời
càng đáng sống biết bao.
Do đó người thi sĩ này không chờ đợi nắng mới hoài xuân, và cũng chính
ước mơ ấy mà nhà thơ có một suy nghĩ thật táo tợn và ngược đời, được thể hiện
trong “vội vàng”:
“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hoá, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên
nhiên, muôn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, bởi một người như Xuân
Diệu sống để yêu và yêu để sống thì thời gian mà tự nhiên định sẵn từ ngàn xưa
đến nay không thể nào đủ, Xuân Diệu muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi
xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy mới có đủ thời
gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Thiên nhiên đẹp quá, nó
được nhà thơ hình dung thật gần gũi, mà cũng thật táo bạo và mới mẻ :
“Và đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Mỗi buổi sáng thức dậy mở mắt là thi sĩ được chứng kiến một cảnh tượng
mới mẻ, diễm lệ. Ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới vạn vật. Nguồn ánh
SVTH: Dương Thị Hường

15


Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
sáng ấy như được toát ra từ vẻ đẹp của người thiếu nữ, và ở đây khác với thơ
xưa, luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp thì ở đây con người lại làm
chuẩn cho cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp trở nên mới mẻ hơn và cũng trần thế,
gần gũi hơn rất nhiều. Cái đẹp của thiên nhiên dường như chẳng đợi thời gian,
chỉ cần trong lòng thi sĩ thấy cảnh đẹp thi được rồi và “xuân không mùa” cũng
nói:
“Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng”
“Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa
Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng
Thơ Xuân Diệu, không phải lúc nào cũng chỉ có cái vui, cái rạo rực mà
những khoảnh khắc u buồn, nuối tiếc cũng không hề hiếm:
“Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?”
Thế nhưng, nỗi buồn ở đây chẳng qua cũng chỉ là một biểu hiện của lòng
ham sống. Cảnh xuân càng đẹp càng lộng lẫy bao nhiêu thì sự nuối tiếc của thi sĩ
càng lớn bấy nhiêu. Người ta chỉ ham sống khi họ thấy cuộc sống của họ có ý
nghĩa, Xuân Diệu cũng vậy càng yêu, càng đắm càng say cảnh đời lại càng phát
hiện ra biết bao cái tươi đẹp đang chờ đón, để rồi lại cay đắng nhận ra rằng thời
gian trôi đi càng lúc càng vội vã, “chưa có một nhà thơ nào luyến tiếc thời gian
đến xót xa như Xuân Diệu. Vì vậy trong niềm say sưa bồng bột trước cuộc đời,
tình yêu, sự hiện hữu của thời gian khiến ông chưa bao giờ bình thản”, “Đọc
Thơ thơ và Gửi hương cho gió ta dễ dàng nhận ra một Xuân Diệu đang cô đơn

chống trả lại sự tàn phá của thời gian”. Trong “Núi xa” ông viết:
“Lẫn với đời quay, tôi cứ đi
Người ngoài không thấu giữa lòng si”
SVTH: Dương Thị Hường

16

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Và cô độc trong “Hư Vô” với:
“Đêm lùa ta thức, một mình đau
Nghe tiếng giờ đi, não dạ sầu”
Với Xuân Diệu, tình yêu là thứ đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người.
Bởi vậy, nhà thơ lúc nào cũng say đắm, cũng hết mình, cũng cuống quýt, vội
vàng yêu và tha thiết, khao khát được yêu thương:
“Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời”
Và “Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng”
Rồi “Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi yêu ma”
Chết đi rồi vẫn cứ yêu, có lẽ chẳng mấy người nồng nàn, tha thiết được
như Xuân Diệu!
Nhà thơ muốn dành từng phút, từng giây để mà yêu gấp gáp:
“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”
Và khi đọc “Mời yêu” chúng ta mới cảm nhận hết được sự sục sôi, tha
thiết trong tâm hồn thi sĩ:

“Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam một chút cũng đành”
Hay:
“Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi”
Với lối sống, cách sống như Xuân Diệu, thì một phút, một giây thôi cũng
thực sự đáng quý, đáng trân trọng. Thời gian có thể “nuốt” con người, nhưng
trong những giây phút được sống, con người hoàn toàn có thể làm chủ được thời
SVTH: Dương Thị Hường

17

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
gian, hoàn toàn có thể tận hưởng một cách tối đa cuộc sống này. Sống gấp gáp
lên, sống hết mình đi, bởi con người chỉ có một lần để sống là quan niệm nhân
sinh vô cùng tích cực mà Xuân Diệu đã gửi gắm vào trong những tác phẩm của
mình.
III. So sánh thời gian trong thơ Xuân Diệu và một số nhà Thơ mới khác
Đối lập với khát vọng sống hết mình với thực tại, níu kéo từng phút, từng
giây để sống, để yêu của Xuân Diệu, nhiều nhà Thơ mới khác lại lý tưởng hóa
quá khứ, tìm về với quá khứ, chán ghét thực tại và họ chỉ có thể tìm thấy những
gì đẹp đẽ nhất ở trong quá khứ mà thôi.
Đó là Thế Lữ, hóa thân vào một “chúa sơn lâm” trong cũi sắt để mà tưởng
nhớ đến chốn rừng xanh thiêng liêng, hùng vĩ:
“Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ
Thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi”
Đối lập với quá khứ oai hùng ấy, là thực tại đau đớn mà chúa sơn lâm
đang gặp phải:
“Nay sa cơ, bị nhục nhằn, tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”
Chú hổ ấy đã phải thốt lên tiếng than đầy tuyệt vọng: “Than ôi, thời oanh
liệt nay còn đâu?”. Cuộc sống của chú là chuỗi ngày chán ghét thực tại, mất hi
vọng vào tương lai và chìm đắm trong quá khứ oai hùng nơi rừng thiêng.
Đó cũng là Lưu Trọng Lư hoài niệm về kí ức, “Lòng rượi buồn theo thời
dĩ vãng. Chập chờn sống lại những ngày không”. Là “Chế Lan Viên” “ở lì”
trong quá khứ, thù ghét mùa xuân mới:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi tất cả như vô nghĩa
SVTH: Dương Thị Hường

18

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Tất cả không ngoài nỗi khổ đau
Là Nguyễn Nhược Pháp với những vần thơ thấm đượm không khí xưa,
những câu chuyện xưa như “Chùa Hương” thật là đôn hậu, là Hàn Mặc Tử
mộng mơ về đất Huế khi tất cả chỉ còn là ảo ảnh, tất cả đã lùi đi rất xa…
Có nhiều ý kiến cho rằng, việc chán ghét thực tại, tìm về với quá khứ,
sống với nỗi buồn chán, cô đơn là khía cạnh tiêu cực trong chủ nghĩa lãng mạn.

Tuy nhiên, nếu đặt vào hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ, sống dưới chế độ thực
dân nửa phong kiến, rối ren, khổ cực, đất nước bị xâm chiếm, “sống trên quê
hương mình mà không phải của mình”, thì nỗi buồn chán ghét thực tại, tìm về
với quá khứ tự chủ trước đây của nước nhà lại là một nỗi buồn trong sáng, lành
mạnh, thấm đượm lòng yêu quê hương, yêu tổ quốc của các nhà thơ nhạy cảm,
giàu tấm lòng với quê hương mình.
Xuân Diệu đã không chìm đắm trong quá khứ mà có cách nhìn thời gian
hoàn toàn khác, đó là sống hết mình với thực tại, sống mau, sống gấp, bởi thời
gian không ngừng chảy trôi, một đi không bao giờ trở lại. Đó là quan niệm giàu
tính nhân sinh. Chính điều này đã làm nên những nét rất riêng trong hồn thơ
Xuân Diệu, khiến người ta không thể lẫn Xuânn Diệu với bất cứ ai khác.

SVTH: Dương Thị Hường

19

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
CHƯƠNG VI. KẾT LUẬN
Như vậy, qua các tác phẩm của Xuân Diệu, người đọc thấy thời gian trong
thơ ông mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn, thể hiện qua mối quan hệ
giữa chủ thể thẩm mỹ - nhà thơ và thời gian, nó đặc trưng cho cách hiểu thời
gian từ cá nhân nhà thơ: Thời gian trở thành thù địch, trở thành bi kịch của con
người lãng mạn.
Có cách nhìn ấy có lẽ một phần là bởi Xuân Diệu sớm tiếp cận với nền
văn hóa phương Tây, và chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi từ nền văn học ấy vào
trong sáng tác của mình. Mặt khác, bản thân nhà thơ là một con người luôn khát
thèm được sống, được yêu, yêu bao nhiêu dường như vẫn chưa đủ, sống mà vẫn

cứ lo sợ rồi cái chết sẽ đến, cướp mất cuộc sống tươi đẹp này.
Qua cách nhìn về thời gian, và cách thể hiện thời gian vào trong thơ của
mình, Xuân Diệu đã khiến người đọc được cảm nhận đầy đủ về một Xuân Diệu
yêu đời, yêu cuộc sống đến thiết tha, mãnh liệt, đem tất cả ra để mà sống cùng
với đời, hòa nhập vào cuộc đời. Đó là một cách sống mang tinh thần nhân bản
vô cùng sâu sắc.
Cả cuộc đời Xuân Diệu cũng đã sống đúng như thế, đã cống hiến sức lực
cho đời và để lại một sự nghiệp sáng tác vô cùng phong phú, giá trị. Điều đó lại
càng khiến hình ảnh của ông được độc giả mãi mãi yêu mến, kính trọng
Với những đóng góp ấy, Xuân Diệu xứng đáng được coi là: “Nhà thơ mới
nhất trong các nhà Thơ mới”, là gương mặt tiêu biểu cho nền thi ca Việt Nam.

SVTH: Dương Thị Hường

20

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý luận văn học, Hà Minh Đức
2. Ba đỉnh cao Thơ mới, Chu Văn Sơn, NXB Giáo dục
3. Tinh hoa Thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm, Lê Bá Hán (chủ biên)
4. Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân
5. 2.Dẫn giải ý tưởng văn chương. Nguyễn Thế Công (dịch). NXB Giáo Dục
6. xemsach.com.vn
7. wikipedia.org
8. docbao.com
9. thivien.net

10.evan.com.vn

SVTH: Dương Thị Hường

21

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
LỜI MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa lãng mạn bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương bằng
những tác phẩm văn học Pháp vào thế kỉ thứ XIX. Sau đó, nó ngày càng trở nên
phổ biến trong các tác phẩm văn chương. Và theo thời gian, bằng những tác
phẩm suất sắc của mình, chủ nghĩa lãng mạn ngày càng khẳng định được vị trí,
những đóng góp của mình đối với nền văn học nói chung.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất, mang đậm dấu ấn riêng của chủ
nghĩa lãng mạn chính là việc đề cao chủ nghĩa cá nhân, đề cao cái “tôi” rất riêng
của nhà thơ thay vì cái “ta” chung trong chủ nghĩa cổ điển. Lần đầu tiên, những
ý thức cá nhân, những quan điểm, khuynh hướng thẩm mỹ, xúc cảm, con mắt cá
nhân được đề cao và được coi như là trung tâm của văn chương. Nhà nghệ sĩ
mạnh dạn bày tỏ hình ảnh của chính mình, đưa một cái “Tôi” nhân vật rất đậm
nét vào trong văn chương.
Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, có thể kể tên hàng loạt loạt các tác giả, tác
phẩm tiêu biểu như: René của François-René de Chateaubriand; Alphonse de
Lamartine với tập thơ Trầm tư; Alfred de Musset với truyện ngắn Lời bộc bạch
của những đứa con thời đại; George Sand với tiểu thuyết Cái đầm ma; Victor
Hugo với tập thơ Tia sáng và bóng tối, tiểu thuyết Nhà thờ đức bà Paris, Những
người khốn khổ, kịch Hernani.

Với văn học Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn thực sự mang dấu ấn đậm nét
sau khi sự ra đời của phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Đây là giai đoạn mà văn
học Việt Nam có sự đổi mới, cách tân vô cùng kì diệu, có sự chiến đấu mãnh liệt
giữa yếu tố cũ - yếu tố mới và kết quả là hang loạt những tác giả, tác phẩm nổi
tiếng đã ra đời, đem đến một hơi thở, một tiếng nói rất riêng, một “luồng gió
mới lạ” cho nền văn học nước nhà.
Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, đến Thơ mới, người ta không thể không
nghĩ đến Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”, người đã góp
phần đưa Thơ mới lên đến giai đoạn đỉnh cao nhất của nó.

SVTH: Dương Thị Hường

22

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Trong thơ Xuân Diệu, người đọc có thể thấy dấu ấn đậm nét, cảm hứng
lãng mạn im đậm trong mỗi vần thơ, thấm vào từng câu chữ, tứ thơ, thể hiện qua
cả hình thức và nội dung tác phẩm.
Trong bài viết này, do sự hiểu biết còn hạn hẹp và thời lượng không cho
phép, em chỉ xin khai thác một khía cạnh trong thơ Xuân Diệu: Đó là khía cạnh
thời gian nghệ thuật. Chắc hẳn, bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong thày
góp ý cho em để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thày!

SVTH: Dương Thị Hường

23


Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
I. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
1. Lãng mạn được
Hiểu theo nghĩa chiết tự là sóng tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do,
vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn có rất nhiều thuật ngữ
khác nhau mà chủ nghĩa lãng mạn chỉ là một trong số đó như: "phương thức
lãng mạn", "hình thái lãng mạn", "tính chất lãng mạn"...
Phương thức lãng mạn là kiểu sáng tác tái tạo, là một trong hai kiểu sáng
tác chính của lịch sử văn học bên cạnh kiểu sáng tác tái hiện theo cách gọi của
Friedrich Engels.
Hình thái lãng mạn là khái niện đặc thù được Georg Wilhelm Friedrich
Hegel dùng để đối lập với hình thái tượng trưng trong lịch sử phát triển nghệ
thuật.
Tính chất lãng mạn là một thuộc tính thẩm mỹ biểu hiện chủ yếu ở chỗ
vươn lên trên thực tại và đã hình thành trong lịch sử sáng tác văn học. Lãng mạn
cùng với trữ tình là hai phạm trù nghệ thuật nằm trên những bình diện khác
nhau: đối lâp với lãng mạn là hiện thực, đối lập với trữ tình là tự sự. Trữ tình là
kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con nguời, do phản
ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Vì
vậy, trữ tình và lãng mạn dù khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau.
2. Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn vừa có nghĩa là trào lưu văn học, vừa là phương pháp
sáng tác, mang một nội dung lịch sử xã hội-cụ thể, được hình thành ở Tây Âu
sau Cách mạng tư sản Pháp năm 1789
3. Các nguyên lý cơ bản
a. Đề cao mộng tưởng

Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con
người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp con người quên đi
cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm thỏa mãn "cái
tôi" bị tổn thương cái tôi của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn

SVTH: Dương Thị Hường

24

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
là thế giới mộng tưởng. Tùy vào sự phản ứng khác nhau của hai khuynh hướng
tiêu cực và tích cực.
Đối với những người lãng mạn tiêu cực thì họ có thái độ bi quan trốn chạy
cuộc đời, họ thường tìm về quá khứ vào mộng ảo hay thu mình vào "cái tôi" bí
ẩn, thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái chết (Nỗi lòng chàng Werther của
Johann Wolfgang von Goethe).
Đối với những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn thỏa hiệp
với thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới đảm bảo hạnh phúc
cho con người, họ thường vẽ nên một xã hội lý tưởng (Nhà thờ đức bà Paris,
Những người khốn khổ của Victor Hugo.
b. Đề cao tình cảm
Chủ nghĩa lãng mạn còn được gọi là chủ nghĩa tình cảm, vì ở đây tình
cảm của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa lãng mạn chính
là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sùng lý trí với những
quy tắc tam duy nghiêm ngặt (không đề cập đến tình cảm của của con người,
không đưa thiên nhiên vào tác phẩm ...) đã siết chặt tính sáng tạo và tình cảm
của con người. Nên trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người được khai

thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất, trở
thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của con người.
c. Đề cao sự tự do
Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn hướng đến một
cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buột. Ở chủ nghĩa lãng mạn người nghệ sĩ
được trả lại tất cả mọi quyền tự do để họ thỏa sức sáng tạo và tưởng tượng. Nên
đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường, vì chủ nghĩa
lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt (đôi khi vô lý), nên nó
đã tự cho phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối.
4. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được thể hiện qua một số đặc điểm
a. Đề tài
Không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Nếu trong chủ nghĩa cổ điển
đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lý tưởng cao cả của những
SVTH: Dương Thị Hường

25

Lớp: ĐHSP Ngữ văn LT – K57


×