Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Đề cương thi Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 101 trang )

Câu 1: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử trong phong trào cách mạng
Việt Nam

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự
cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào
cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hong Kong,
Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt
và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp
nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam.
Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam
gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được
thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
 Sự ra đời của ĐCSVN là quá trình tất yếu của lịch sử, là sự kết hợp chủ nghĩa Marx- Lenin với phong trào
yêu nước cùng với quan điểm cách mạng HCM
 ĐCS ra đời là nhân tố vô cùng quan trọng tạo ra bước phát triển nhảy vọt của cách mạng VN. Đây là “bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng VN ta” và “ Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo Đảng cách mạng”
II.
ĐCSVN ra đời chấm dứt thời kì khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối của cách mạng VN;
mở ra một giai đoạn lịch sử mơi trong chiến đấu cách mạng
1. Trước khi ĐCSVN ra đời
- Việt Nam rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp biến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến và chịu
nhiều áp bức bóc lột từ nhiều mặt kinh tế chính trị văn hóa xã hội.
- Vào cuối thế kỉ XIX đầu tk XX, nhiều phong trào đấu tranh yêu nước đã nổ ra
+ p/tr hệ phong kiến


I.



Phong trào Cần Vương ( 1885-1896)



k/n Yên Thế, Bắc Giang (1884-1913)

• p/tr của nhân dân Việt Nam (1914-1918)
 Các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Nguyên nhân vì giai cấp phong kiến cũng như hệ tư tưởng phong kiến

không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước, giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc.
+ Phong trào hệ dân chủ tư sản:


Duy tân ( Phan Châu Trinh) 1906-1908



Đông du (phan bội châu) 1906-1908




Đông kinh nghĩa thục (1907)
Từ năm 1919, tư sản Việt Nam tổ chức tẩy chay hàng Hoa Kiều, vận động “chấn hưng nội hóa”, “bài trừ
ngoại hóa”.



Năm 1923, một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và xuất cảng
lúa gạo ở Nam Kì.
• Năm 1923, một số tư sản và đại địa chủ ở Nam Kì thành lập Đảng Lập hiến, đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự
do dân chủ, nhằm tranh thủ quần chúng.
• Ngoài ra còn có nhóm Nam phong và nhóm Trung Bắc tân văn hoạt động ở Bắc Kì, mở các cuộc vận động
đòi tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do buôn bán.
• …
 Các phong trào thổi một làn gió mới vào cách mạng Việt Nam đương thời nhưng cuối cùng đều thất bại
Nguyên nhân: Bế tắc về đường lối, không thấy được bản chất của các nước đế quốc, phương pháp đấu
tranh không phù hợp.


+ Phong trào hệ trí thức tiểu tư sản: Hoạt động của tiểu tư sản


Năm 1923, một số thanh niên yêu nước hoạt động ở Quảng Châu – Trung Quốc, trong đó có Lê Hồng Sơn,
Hồ Tùng Mậu… lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Năm 1924, Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát Toàn quyền
Đông Dương Méc-lanh ở Sa Diện (Quảng Châu), tuy không thành công, nhưng đã khích lệ tinh thần đấu
tranh của nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên yêu nước.



Ở trong nước, tầng lớp tiểu tư sản trí thức sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ; thành lập một
số tổ chức chính trị (như Phục Việt, Hưng Nam, Việt Nam nghĩa đoàn, Thanh niên cao vọng), xuất bản
nhiều tờ báo tiến bộ (bằng tiếng Pháp có: An Nam Trẻ, Người nhà quê, Chuông rè, báo bằng tiếng Việt:
Hữu Thanh, Đông Pháp thời báo…). Một số nhà xuất bản như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư
xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế)…đã phát hành nhiều sách tiến bộ.




Một số phong trào đấu tranh chính trị như cuộc đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), truy điệu và để
tang Phan Châu Trinh, đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Ngoài ra, tiểu tư sản Việt Nam còn
tiến hành những hoạt động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền tư tưởng tự do dân chủ và cổ vũ lòng yêu nước.
Càng về sau, phong trào của tiểu tư sản càng bị phân hoá mạnh, có bộ phân đi sâu hơn nữa vào khuynh
hướng tư sản, có bộ phận chuyển dần sang khuynh hướng vô sản.

 Tất cả các cuộc khởi nghĩa ở giai đoạn này đều thất bại
Nguyên nhân thất bại
+ Giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giữ vững ngọn cờ lãnh
đạo cách mạng.
+ Ngọn cờ tư tưởng tư sản tuy đối với người Việt Nam còn rất mới mẻ, nhưng không đủ khả năng giúp
nhân dân Việt Nam thoát khỏi kiếp nô lệ.
+ Giai cấp tư sản Việt Nam còn thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp cách mạng
khoa học.
+ Tổ chức chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam, tiêu biểu là Việt Nam quốc dân đảng, rất lỏng lẻo, thiếu
cơ sở trong quần chúng, nên không đủ sức chống đỡ trước sự tiến công của đế quốc Pháp.
+ Về khách quan, đây là lúc thực dân Pháp đang mạnh, đang củng cố được nền thống trị ở Đông Dương. So
sánh lực lượng chưa có lợi cho phong trào yêu nước, thời cơ cách mạng cũng chưa xuất hiện.
 Cho thấy sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo.

+ Khuynh hướng vô sản:


– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lần khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất, ngày càng tăng về số lượng. Dưới ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản,
phong trào công nhân ngày càng phát triển thep phương hướng từ tự phát đến tự giác.
– 1919-1925: Đã nổ ra 25 cuộc đấu tranh, tiêu biểu:
Năm 1922, có các cuộc bãi công của công nhân và viên chức các cơ sở công thương tư nhân ở Bắc Kì
và công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn – Chợ Lớn.

• Năm 1924 có các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải
Dương.
• Tháng 8 – 1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn bãi công, không chịu sửa chữa chiến hạm
Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Trung
Quốc. Lần đầu tiên trong cuộc đấu tranh này đã xuất hiện ý thức giai cấp, ý thức chính trị và tinh thần
đoàn kết quốc tế.
 Phong trào công nhân có bước phát triển mới so với trước Chiến tranh thế giới thứ nhất: hình thức bãi
công đã trở nên phổ biến hơn, qui mô lớn hơn và thời gian dài hơn.


Tuy nhiên khẩu hiệu đấu tranh chủ yếu vẫn là kinh tế.Giai cấp công nhân Việt Nam chưa ý thức được
sứ mệnh lịch sử của mình, còn thiếu một tổ chức lãnh đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn.
Phong trào vẫn còn dừng ở trình độ tự phát và còn phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung.
– 1926 – 1929






Tháng 6 – 1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập. Thông qua những hoạt động của tổ
chức này, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh.
Trong hai năm 1926 – 1927, nổ ra khoảng 20 cuộc bãi công, sôi nổi nhất là phong trào công nhân đồn
điền.
Năm 1928, sau khi có chủ trương “vô sản hoá”, nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã
đi vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động
cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng.
Trong hai năm 1928 – 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam, nhất là ở
các trung tâm kinh tế, chính trị.

– Tháng 3/1929, tại số 5D, Hàm Long (Hà Nội) những người tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên ở Bắc Kì lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên. Chi bộ mở cuộc vận động để thành lập một đảng cộng
sản nhằm thay thế Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên.
– Tháng 5/1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên họp tại Hương
Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kì đưa ra vấn đề thành lập đảng cộng sản, song không được chấp
nhận, nên rút khỏi Đại hội về nước.
– Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, ra báo Búa liềm, xây dựng cơ sở ở khắp nơi trong
cả nước.
– Tháng 8/1929. các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và Kì bộ Nam Kì quyết định thành lập
An Nam Cộng sản đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc, một số chi bộ hoạt động ở Nam Kì.
Tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của đảng.
– Tháng 9/1929 những thành viên trong Tân Việt Cách mạng đảng tuyên bố thành lập Đông Dương
Cộng sản liên đoàn, xây dựng nhiều chi bộ ở Trung Kì, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ.


Sự ra đời ba tổ chức cộng sản là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam.


+ Các tổ chức cộng sản đều tích cực lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng, làm làm cho
phong trào phát triển mạnh hơn.
+ Nhưng ba tổ chức lại hoạt động riêng rẽ với nhau, làm cho lực lượng và sức mạnh của cách mạng
bị phân tán. Điều đó không có lợi cho phong trào cách mạng.
-

2. ĐCSVN ra đời mở ra một trang sử mới cho cách mạng VN :
Sau khi ra đời Đảng đã lãnh đạocách mạng Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi

+ Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám (1930-1945)

Theo Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã phát cao trào cách mạng 19301931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo cách mạng
của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ để bảo vệ Đảng, duy
trì tổ chức quần chúng, khôi phục phong trào cách mạng những năm 1932-1933, Đảng đã biết chuyển
ngay sang đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thời kì 1936-1939 khi tình hình trong nước và thế giới có sự
biến chuyển mới. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu,
lan rộng trong quảng đại quần chúng, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã chuyển hướng chiến lược cách mạng, nêu cao
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung vào mục tiêu giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân,
tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang nhằm đảnh đuổi mọi kẻ thù ngoại xâm bất luận da trắng hay da
vàng. Chính từ sự chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm 1939-1945
và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng đã
phát động cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng
xích nô lệ của thực dân gần 90 năm và chế độ quân chủ chuyên chế để lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam – kỉ nguyên độc lập tự do, dân chủ
nhân dân, đi lên chủ nghĩa xã hội.

+ Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1945-1954)
Sau cách mạng Tháng Tám, khó khăn của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà là hết sức to lớn. Ba thứ
giặc: “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, đều là những hiểm hoạ đặt vận mệnh dân tộc như “ngàn cân
treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Chỉ thị Kháng chiến
kiến quốc, vạch con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam. Với những cố gắng phi thường, đến cuối năm
1946, nhân dân ta đã làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xâm lược của các thế lực đế quốc, bảo vệ được độc
lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng, thành quả lớn nhất của cuộc cách mạng Tháng Tám.
Từ ngày 19/12/1946, khi thực dân Pháp bội ước, gây chiến tranh xâm lược ra cả nước, với ý chí
“Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ “, Đảng đã
phát động toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp theo đường lối chiến
tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Trải qua những khó

khăn ban đầu, đến cuối năm 1950, sau chiến dịch Biên Giới thắng lợi, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã
giành được những thắng lợi quan trọng. Từ năm 1951, theo đường lối của Đại hội Đảng lần thứ hai, cuộc
kháng chiến của quân dân Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Đặc biệt, với cuộc tiến công chiến


lược Đông Xuân 1953- 1954, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã buộc thực dân Pháp
phải đi tới đàm phán và kí kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ có ý nghĩ lịch sử

vĩ đại. Đó là đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được đế quốc Mĩ giúp sức
ở mức độ cao, bảo vệ được chính quyền cách mạng, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương. Đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc và
tăng cường sức mạnh vật chất tinh thần cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đoa còn có ý nghĩa
cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp…
+ Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh (1954-1975)
Với dã tâm làm bá chủ thế giới, từ tháng 7/1954, đế quốc Mĩ đã từ can thiệp chuyển sang trực tiếp
thay chân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta vì độc lập, thống nhất trở nên hết sức
gay go, phức tạp. Trải qua nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương
chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình thành. Đó là đường lối tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung
trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ quốc.
Theo đường lối sáng suốt của Đảng, nhân dân miền Bắc đã €ung hái phấn đấu xây dựng hậu phương
xã hội chủ nghĩa và giành được những thành tựu hết sức quan trọng. Đến năm 1965, miền Bắc trở thành
căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, hậu phương có tiềm lực kinh tế quốc phòng ngày to lớn cho
miền Nam. Được sự chi viện của miền Bắc, với truyền thống “Thành đồng Tổ quốc”, quân dân ta ở miền
Nam đã anh €ung đấu tranh vượt qua những năm tháng khó khăn của giai đoạn đấu tranh chính trị là
chính, tiến tới cuộc nổi dậy và “Đồng Khởi” (1959- 1960) theo Nghị quyết lần thứ 15 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, giành quyền làm chủ ở các vùng nông thôn, rừng núi, đưa cách mạng chuyển từ thế giữ

gìn lực lượng sang thế tiến công. Tiếp đó đã đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ
(1961- 1965), đưa cuộc chiến đấu tiến lên mạnh mẽ, làm lung lay tận gốc rễ chế độ nguỵ quân, nguỵ quyền
tay sai.
Từ năm 1965, do đế quốc Mĩ gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đánh phá ra miền Bắc, Đảng và Hồ
Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và đề ra đường lối
cho cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới, giai đoạn cả nước có chiến tranh. Với tinh thần “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”, quân dân miền Bắc đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của không quân, hải quân Mĩ, bào vệ vững chắc hậu phương, đồng thời ra sức sản xuất, công tác tạo
nên tiềm lực to lớn chi viện miền Nam với tất cả khả năng của mình. Quân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí
kiên cường giành được thắng lợi trong các mùa khô 1965- 1966, 1966- 1967 và nhất là cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) làm cho cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ bị thất bại, buộc chúng phải
ngồi vào bàn đàm phán với ta ở hội nghị Paris. Trong những năm 1969- 1975, quân dân miền Nam đã liến
tiếp đánh bại các thủ đoạn của chiến tranh “Việt Nam hoá” của đế quốc Mĩ, đã “đánh cho Mĩ cút” và tiến tới
“đánh cho nguỵ nhào” với đỉnh cao làChiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975.
 Thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước với đỉnh cao là chiến dịch

Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với nước ta và với thế giới. Đánh giá thắng lợi
lịch sử của sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước, Báo cáo chính trịtại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
tư của Đảng đã ghi rõ: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp
chông Mĩ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi
nhất, một biểu tượng sáng người về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ


con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ 20, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc“.
III.
ĐCSVN ra đời có ý nghĩa to lớn và là bước ngoặt đối với cách mạng VN
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có
đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung

nguyện suốt đời hy sinh cho lý tưởng Đảng, vì độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
+ Sự ra đời của Đảng với tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt tình
trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Từ đây cách mạng Việt
Nam bước lên một con đường mới, con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã
hội.
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng.Phong trào công nhân Việt Nam từ đây hoàn toàn trở thành một phong trào tự giác.
+ Sự lãnh đạo của đảng làm cho cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới. Từ đây nhân dân Việt Nam tham gia vào sự nghiệp cách mạng thế giới một cách có tổ
chức.
+ Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có ý nghĩa quyết định cho những bước phát triển tiếp
theo của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là nhân tố hàng đầu đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Bài học
- Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
- Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng VN
 SV: tư tưởng chính chắn đứng đắn nhất quán; kiến thức sâu rộng vững vàng, nắm bắt thời cuộc
tình hình xã hội, chính trị trong và ngoài nước; Đạo đức tốt, nhiệt huyết, kiên định,tinh thần đoàn
kết, lòng yêu nước niềm tin vào Đảng, nhưng không mù quán, đóng góp xây dựng và phát huy
truyền thống phê phán lên án bài trừ những tệ nạn.
IV.

Câu 2: Đảng lãnh đạo phong trào Dân sinh Dân chủ 1936 – 1939

I. Tình hình thế giới và trong nước
1. Tình hình thế giới
* Những năm 30 của thế kỷ XX, thế lực phát xít cầm quyền ở Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản chạy đua vũ trang,

chuẩn bị chiến tranh thế giới.
* 07/1935, Đại hội lần VII - Quốc tế Cộng sản xác định:
+
Kẻ thù là chủ nghĩa phát xít.
+
Nhiệm vụ chống chủ nghĩa phát xít.
+
Mục tiêu là đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hòa bình, thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi. Lê
Hồng Phong, đại diện Đảng Cộng Sản Đông Dương tham dự
* 06/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, thi hành cải cách tiến bộ ở thuộc địa.
Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới, nới rộng quyền tự
do báo chí … tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
2.Tình hình trong nước


a. Chính trị
Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới, ân xá tù chính
trị,nới rộng quyền tự do báo chí … tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
Có nhiều đảng phái chính trị hoạt động: đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản
động …, nhưng ĐCS Đông Dương là Đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ, chủ trương rõ ràng.
b. Kinh tế: sau khủng hoảng kinh tế thế giới, Pháp tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự
thiếu hụt cho kinh tế Pháp.
* Nông nghiệp: tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất, độc canh cây lúa, trồng cao su, đay, gai, bông …
* Công nghiệp: đẩy mạnh khai mỏ. Sản lượng ngành dệt, xi măng, chế cất rượu tăng. Các ngành ít phát
triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm...
* Thương nghiệp: thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối và xuất nhập khẩu, thu lợi nhuận
rất cao, nhập máy móc và hàng tiêu dùng, xuất khoáng sản và nông sản.
Những năm 1936 -1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam nhưng kinh tế Việt Nam vẫn
lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.
c. Xã hội: đời sống nhân dân khó khăn do chính sách tăng thuế của Pháp

Công nhân: thất nghiệp, lương giảm.
Nông dân: không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ, cường hào…
Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp.
Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.
Đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
II. PHONG TRÀO DÂN SINH DÂN CHỦ 1936 - 1939
1.Hội nghị Ban Chấp hànhTrung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7 - 1936
Chủ trương của Đảng trong những năm 1936 - 1939
Tháng 7/1936 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong
chủ trì ở Thượng Hải (Trung Quốc) dựa trên Nghị quyết Đại hội 7 của QTCS, đề ra đường lối và phương pháp
đấu tranh:
* Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là chống đế quốc và phong
kiến.
* Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít,
chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
* Phương pháp đấu tranh: Kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.
* Chủ trương: Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Tháng 3/1938, đổi
thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
2. Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
a. Đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ
* Phong trào Đông Dương Đại hội
Năm 1936,Đảng vận động và tổ chức nhân dân thảo ra bản dân nguyện gửi tới phái đoàn chính
phủ Pháp, tiên tời triệu tập Đông Dương Đại hội (8-1936)
Các ủy ban hành động thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân
sinh… )
Tháng 09/1936 Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo.
Qua phong trào, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Đảng thu
được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.

* Phong trào đón Gô đa: năm 1937, lợi dụng sự kiện đó Gô đa và Toàn quyền mới sang Đông Dương,
Đảng tổ chức quần chúng mít tinh, biểu dương lực lượng đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ.
* 1937 - 1939: nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi quyền sống tiếp tục diễn ra, nhân ngày Quốc tế lao
động 01/05/1938, lần đầu tiên nhiều cuộc mít tinh tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác có
đông đảo quần chúng tham gia.


b. Đấu tranh nghị trường: hình thức đấu tranh mới của Đảng
Đảng đưa người của Mặt trận Dân Chủ Đông Dương ra ứng cử vào Viện dân biểu Bắc kỳ, Trung kỳ,
Hội đồng quản hạt Nam kỳ….
Mục tiêu: Mở rộng lực lượng Mặt trận dân chủ và vạch trần chính sách phản động của thực dân, tay
sai, bênh vực quyền lợi của nhân dân.
c. Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí
Từ 1937 báo chí công khai của Đảng bằng tiếng Việt: Tin tức, Đời nay, Phổ Thông, Dân chúng …,
bằng tiếng Pháp: Lao động), Tranh đấu….trở thành mũi xung kích trong cuộc vận động dân chủ, dân sinh.
Nhiều sách chính trị – lý luận xuất bản công khai hoặc đưa từ Pháp về. Nhiều tác phẩm văn học
hiện thực phê phán ra đời như: Bước đường cùng, Tắt đèn, Số đỏ ,thơ cách mạng, kịch Đời cô Lựu…
Cuối 1937, Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ giúp quần chúng đọc được sách
báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị và cách mạng.
Cuộc đấu tranh trên lãnh vực báo chí đã thu kết quả to lớn về văn hóa – tư tưởng: đông đảo các
tầng lớp nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng.
3. Ý nghĩa của phong trào dân sinh dân chủ 1936 - 1939
Là phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng..
Buộc Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.
Quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng.
Cán bộ đựợc tập hợp và trưởng thành và tích lũy bài học kinh nghiệm.
Là một cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
4. Bài học kinh nghiệm của phong trào dân sinh dân chủ 1936 - 1939
Về việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp.

Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với các đảng phái phản động.
Đảng thấy được hạn chế trong công tác mặt trận, dân tộc…
Là một cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
Nhận xét
Sự khác nhau giữa phong trào 1930-1931 và phong trào dân chủ 1936-1939 cho thấy do hoàn cảnh
thế giới và trong nước khác nhau,nên chủ trương sách lược,hình thức tập hợp lực lượng và hình thức đấu
tranh phải khác nhau mới phù hợp.
Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936-1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng rất kịp thời và
phù hợp với tình hình mới, tạo ra cao trào đấu tranh sôi nổi. Qua đó chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành, có
khả năng đối phó với mọi tình huống, đưa cách mạng tiến lên không ngừng.

Câu 3: Quá trình hình thành đường lối kháng chiến chống Pháp 1951-1954
1. Hoàn cảnh lịch sử:
– Nước CHDCND Trung Hoa được t.lập, làm vững chắc hơn lực lượng hòa bình dân chủ cho ptr
CMNDTG.
– LX và các nc Đông Âu càng ngày càng lớn mạnh.
– Sau chiến dịch biên giới thu đông 1950 ta giành thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ.
– Từ 1950 nhận được sự giúp đỡ và công nhận của LX, TQ và các nc Đông Âu.
– Sự can thiệp của Mỹ càng ngày càng sâu hơn, đầu tiên là sự viện trợ cho Pháp.
Đặt ra đường lối mới phù hợp với hoàn cảnh hiện nay.
Đảng phải ra hđ công khai.
2. Quá trình hình thành đường lối:
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần 2 đã đưa ra (02/1951):
+ Cách mạng ở Lào, CPC, VN ở trong tình hình mới.
+ Ở VN Đảng phải hđ công khai lấy tên Đ Lao Động VN.
+ Thông qua báo cáo chính trị của chủ tịch HCM.


+ Th.qua báo cáo hoàn thành gpdt, phát triển CMDCND tiến tới xd XHCN của Trường Chinh.
+ Th.qua tổ chức và điều lệ Đảng.

Báo cáo của Trường Chinh nằm trong nd chính cương của Đảng LĐVN.
– Tính chất của kc: Dân chủ nhân dân, nữa thuộc đia nữa phong kiến.
– Đối tượng cách mạng:
+ Đối tượng chính: Pháp và sự can thiệp của Mỹ.
+ ĐT phụ: phong kiến, phản động.
– Nhiệm vụ:
+ Đánh P để giành đl thực sự cho nhân dân.
+ Xóa bỏ tàn tích, tàn dư của PK.
+ Tiến lên xd XHCN.
– Động lực cách mạng: công nhân, ndan, tiểu tư sản tri thức, tts thành thị, địa chủ vừa và nhỏ, tư sản
dân tộc.
– Đặc điểm cách mạng: giải phóng dt, động lực công nhân, nông dân, tiểu tư sản, người lãnh đạo là gc
công nhân.
– Triển vọng cách mạng: Cuộc CM DTDCND ở VN sẽ đưa VN lên XHCN.
– Con đường cách mạng: 3 giai đoạn.
+ Hệ thống CMDTDCND.
+ Xóa bỏ các tàn dư của XH cũ.
+ Xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
– Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đ: gc công nhân với mục tiêu xd XHCN
– Chính sách của Đảng: đề ra 15 chính sách cơ bản để động viên, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc quyết
tâm giành thắng lợi.
– Quan hệ quốc tế: VN đứng về phe hòa bình, đoàn kết, ủng hộ pt CM TG, thực hiện đoàn kết Việt –
Trung – Xô và Việt – Miên – Lào.
3. Ý nghĩa:
– Đối với dân tộc ta:
+ Làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ sức ở mức độ cao.
+ Quốc tế công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước đông dương.
+ Làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại
hòa bình ở Đông Dương.
+ Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để iền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,

hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam.
+ Tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế.
– Đối với quốc tế:
+ Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, tăng cường lực lượng cho chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới.
+ Cùng nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở 3 nước đông
dương.
+ Mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực
dân Pháp.

Câu 4: Công nghiệp hóa ở nước ta giai đoạn 1995-2015
I.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ.
1. Công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật của các nước đi từ nền sản xuất nhỏ đi
lên một nền sản xuất lớn.
Để có một xã hội như ngày nay không phải do tự nhiên mà có , nó do quá trình tính luỹ về lượng ngay
từ khi loài người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu như không có gì
nhưng trải qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải
qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời đây con người đã tạo ra được những thành công đáng kể. Thành tựu


đạt được là do quy luật phát triển do tự thân vận động của con người trong toàn xã hội. Ngày nay công
cuộc xây dựng các nước đã cố gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh tế. Thể hiện là các
chính sách, đường lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ sản xuất, lực lượng
sản xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu
để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là một quy luật chung, phổ biến
đối với tất cả các nước. Tuy nhiên tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục

tiêu phát triển không giống nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn,
hiện đại không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta hiện nay (nền
sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...) công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để
tồn tại và phát triển nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới:
- Xây dựng được cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Mới tiến hàng tái sản xuất mở rộng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, mới tích
luỹ về lượng mới để xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Mới tăng cường phát triển lực lượng giai cấp công nhân.
- Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con người mới ở Việt Nam.
Như vậy công nghiệp hoá là xu hướng mang tính quy luật cả các nước đi từ một nền sản xuất nhỏ
sang nền sản xuất lớn.
2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành nước kiệt quệ đã
trở thanh một trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể
chia cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70. Giai đoạn này sử dụng khoa
học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản xuất, phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và tăng thêm các
yếu tố sản xuất. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất cả về con người và
công cụ sản xuất.
Bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm ở các nước kinh tế phát triển là 5,6%. Tốc độ tăng trưởng
này được giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm 1950 đến 1970.
- Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai
đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui mô lớn và toàn diện trên lực lượng sản xuất trên cơ sở áp
dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng
những phương tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng loạt các thiết bị lạc
hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao.
Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời
kỳ mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phương

thức sản xuất mới.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự chênh lệch về
kinh tế.
Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước đó là các cường quốc về kinh tế, các nước phát triển và đang
phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các
nước đang phát triển là đường lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách
mạng về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất còn non
nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của XHCN. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn,không còn con
đường nào khác là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ thuật phát
triển cao.
Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát triển nhảy vọt, cùng một lúc
thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô xơ sang lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của
nhà nước theo định hướng XHCN.
Một số định nghĩa:


* Định nghĩa công nghiệp hoá:
Công nghiệp hoá được định nghĩa và có nhiều quan niệm khác nhau song nó thường được hiểu là
một quá trình gắn liền với việc xác định một cơ cấukinh tế hợp lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho
các ngành kinh tế nhằm thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu cácnguồn lực và lợi
thế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tổ chức phát triển nông nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra định nghĩa: “Công nghiệp hoá
là một quá trình phát triển kinh tế trong các quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế, nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc
điểm của cơ cấu kinh tế này là óc một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất
và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đámự tiến bộ về
kinh tế xã hội.
Song dù muốn hay không công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay trước mắt nhằm xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Song có lẽ sẽ là thiếu sót nếu chúng ta

không quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội. Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm của một số nước
đang phát triển cho thấy ngay từ bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển
nhất thiết phải đảm bảo tính đồng bộ giữa kinh tế xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế phải xây dựng
những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội, phát triển văn hoá nâng cao đời sống nhân dân.
Qua những vấn đề phân tích trên ta có thể định nghĩa:
Công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh
tế – xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học công nghệ ngày càng
hiện đại.
* Hiện đại hoá:
Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá. Hiện đại hoá có nội dung lớn và
phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị và văn hoá. Hiện đại hoá thường được định nghĩa là một
quá trình nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến
hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội và chính trị
giống hệ thống của những nước phát triển hiện đại hoá cưỡng bức, dập khuôn sẽ làm bại hoại cho quốc
gia vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân chủ.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ.
1. Lý luận chung:
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại đã hình
thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến
đổi giới tự nhiên đó, quan hệ này dược biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác, con người phải quan hệ
với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời – phương thức
sản xuất – mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, và lịch sử xã
hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức cũ lạc hậu tất yếu được thay thế
bằng phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng
vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất chẳng những là thước đo thực tiễn của con người trong quá trình
cải tạo tự nhiên nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người mà còn làm thay đổi quan hệ
giữa

người
với
người
trong
sản
xuất,
thay
đổi
các
quan
hệ

hội.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì
quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế xã hội, là cơ sở thực hiện hoạt động sản xuất tinh thần của
con người của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn của sự phát triển đó
là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thành kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế này
bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất.
Rằng sự vật và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các quy luật khách
quan.


Ph. Ang - ghen khẳng định "Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo một quá trình tự nhiên, và về căn bản
cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau". Dẫu luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của hình thái
kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, bị chi phối bởi quy luật như nhau và "một xã hội ngay cả khi đã
phát hiện ra quy luật tự nhiên của sự vận động của nó ... cũng không thể nào nhẩy qua các giai đoạn phát
triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ nhưng giai đoạn đó, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút
ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ". Điều đó có nghĩa rằng quá trình lịch sử tự nhiên chẳng

những có thể diễn ra tuần tự từ hình thaí kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội nào đó, trong
những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận
cho phép chúng ta khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta, của thời
đại.
Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới, công nghiệp hoá hiện vẫn đang được coi là phương hướng chủ đạo,
phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết
Mác về hình thái kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách là cơ sở lý
luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì một mặt, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất, hiện đại cho chế độ
xã hội mới. ở đây "công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó
không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá
trình chuyển dịch cơ cấu gắn với căn bản công nghiệp, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả
cao

lâu
bền
của
toàn
bộ
nền
kinh
tế
quốc
dân.
Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh
thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa
học công nghệ thế giới.
Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,

vận hành theo cơ chế thị trường và theo định hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời,
chúng luôn tác động, thúc đẩy hỗ trợ cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên
lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính
là xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp".
Như vậy, từ quan điểm của C.Mác về kết cấu chính thể của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự
thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng,
chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội để xây dựng hình thái kinh tế xã hội ở nước ta. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc cách mạng
đó phải thực hiện là "tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học công
nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực,
không ngừng tăng năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái".
Tổng kết, hệ thống, khái quát hoá của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá:
- Như ta đã biết từ khi chủ nghĩa xã hội đuợc xây dựng tất cả các nước XHCN đều thực hiện nền kinh
tế kế hoạch hoá tập chung. Cơ chế này duy trì một thời gian khá dài và được xem là đặc trưng riêng biệt
của chủ nghĩa xã hội. Thật sự thì không phải như vậy. Nền kinh tế tập chung không phải là sản phẩm riêng
biệt của Chủ nghĩa xã hội, cũng nưh nền kinh tế thị trường không phải là duy nhất được thiết lập trong chủ
nghĩa tư bản. Nền kinh tế tập chung đã được thiết lập trong chủ nghĩa tư bản được các nươc stư bản áp
dụng từ trước khi nhiều nước xác lập XHCN nhưng họ đã xoá bỏ nó để chuyển sang cơ chế thị trường.
Nhưng công bằng mà nói cũng chưa phải là cái duy nhất đảm bảo sự t ăng trưởng và phát triển xã hội
theo quan điểm Mác - Lênin thì xã hội cộng sản là một xã hội tiên tiến, con người có thể "làm theo năng
lực hưởng theo nhu cầu" nhưng thực tế trong chủ nghiã xã hội của cải xã hội chưa đạt đến mức hết sức
phong phú, dư thừa và cả trong giai đoạn tiếp theo, do vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì


tồn tại nền sản xuất kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường bước phát triển cao của nền sản xuất hàng
hoá là lẽ đương nhiên.
a.


Những năm vừa qua với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đã làm thế giới
ngỡ ngàng, ca ngợi. Từ chỗ chúng ta còn xa lạ, nay đã hội nhập được với nền kinh tế tiên
tiến hiện đại. Tất cả những thành tựu kinh tế mà chúng ta đã đạt được đã nói lên công cuộc
đổi
mới

nước
ta

cuộc
cách
mạng
thật
sự.
- Đổi mới ở nước ta không chỉ giới hạn về lĩnh vực kinh tế mà còn tạo điều kiện cho chúng
ta nhận thức mới chính xác hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa Mác - lênin tư
tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước đây ta nhận thức chưa
đúng, hơn thế ta còn nhận thức sai lầm nghiêm trọng đầy ảo tưởng duy ý chí về mình.
Chúng ta đã nhận thức lại và đánh giá đúng sự thật. Nhờ đổi mới tư duy nhiều ván đề về
công
nghiệp
hoá
hiện
đại
hoá
được
nhận
thức
lại.

- Bảo vệ vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là mục
tiêu nhiệm vụ không kém phần quan trọng, làm sang tỏ thêm ý nghĩa vai trò cách mạng của
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - lênin là
khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không có ai có thể phủ
nhận rằng khi lý luận đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân thế giới đã
làm lên biến cố lịch sử vĩ đại do vậy Đảng ta đã tuyên bó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
- Các nước tư bản chủ nghiã đã thực hiện thành cường quốc về kinh tế, nhưng họ lại bất
lực trước vấn đề giải quyết quanhệ xã hội họ mang tư tưởng bảo thủ lấy hiện tượng che lấp
bản chất, công cuộc đổi mới mục đích là vì kinh tế chứ không phải là vì con người. Một xã
hội vẫn tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chính thì con người chỉ là kẻ làm thuê
luôn bị bóc lột sức lao động của mình không hưởng quyền của con người. Hiện nay Đảng ta
đã đi đôi với công nghiệp hoá đất nước phải thực hiện mục tiêu "ổn định chính trị, xây dựng
nhà
nước
pháp
quyền
của
dân,
do
dân


dân".
- Một mục tiêu cực kỳ quan trọng thể hiện rõ tính cách mạng của công nghiệp hoá Việt
Nam đó là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá - hiện đại hoá
"dân
giàu
nước
mạnh,


hội
công
bằng

văn
minh".
b.
Đường
lối
chỉ
đạo:
- Nội dung của công nghiệp hoá ở nước ta bao gồm 2 nội dung chủ yếu là trang bị kỹ thuật
và công nghiệp hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Các Mác nhận xét khoa học là động lực của công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, hội nghị TW II một lần nữa nhấn mạnh
"cùng với giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu là động lực
phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định công nghiệp hoá - hiện đại hoá"
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một
hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào nhân tố dân số và nhu cầu,
điều kiện tự nhiên và tiềm tàng của đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất
khoa học kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn tích lũy quan hệ kinh tế quốc tế. Theo qui luật
của vận động thì đấu tranh là cha đẻ của vận động. ở nước ta là một nước có nền kinh tế
thấp thì việc tồn tại 5 thành phần kinh tế là tất yếu. 5 thành phần đó là: kinh tế nhà nước
(quốc doanh), kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Nhà nước. Việc tồn tại
5 thành phần kinh tế là khách quan nhưng kiểm soát được nhằm đảm bảo các qui luật của
cạnh tranh (có cạnh tranh mới có phát triển) của nội bộ ngành kinh tế theo hướng XHCN.
Tổng kết: Nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ, từ nhận thức trên

nền trong thực tiễn không thể dẫn đến những sai lầm nôn nóng trong cách làm và bước đi,
thiếu kết hợp hài hoà quá trình vận dụng quy luật tuần tự với qui luật nhảy vọt, để tìm ra
mô hình phát triển nhanh, đưa nước ta phát triển theo định hướng đã định.


- Áp dụng một cách máy móc mô hình "kinh tế chỉ huy" và theo đó là cơ chế quan liêu bao
cấp mang nặng tính hiện vật kéo dài, chính mô hình và cơ chế này đã vi phạm nghiêm trọng
qui luật lợi ích của người lao động và của chủ thể kinh tế. Vô tình hay hữu ý đã xoá đi
những mặt tích cực của kinh tế thị trường, làm kìm hãm sự phát triển khoa học công nghệ

lực
lượng
sản
xuất.
2.
Thực
tiễn:
A. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy mọi quá trình công nghiệp hoá thành công
cho
đến
nay
đều
đòi
hỏi
phải

các
điều
kiện
sau

đây:
+ Thứ nhất là thị trường. Lịch sử nhân loại chưa có một quốc gia nào khi công nghiệp hoá
mà không cần đến thị trường, vốn, công nghệ, lao động, tài nguyên. Các chính sách tự do
hoá thương mại, giá cả, tín dụng ... Là cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng thị trường
trong nước còn thị trường ngoài nước, trong thời kỳ trước các quốc gia đã phải dùng chiến
tranh để phân chia thị trường thế giới. Ngày nay người ta không còn chiến tranh mà vẫn
mở rộng thị trường thông qua thoả thuận ký kết các hiệp nghị thương mại giữa các quốc
gia trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam thì thị trường có ý nghĩa rất quan
trọng, đồng thời Việt Nam là thị trường hấp dẫn cho việc đầu tư nước ngoài.
+ Nguồn nhân lực: Đây là một trong những hạt nhân của lực lượng sản xuất. Thực tế ở các
nước đã tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá cho thấy là việc xác lập một cơ cấu
nguồn nhân lực thích hợp, đầu tư tài chính đủ cho giáo dục và y tế, thực hiện cơ chế thị
trường trong việc sử dụng nhân lực kết hợp với chính sách ưu đãi.
Là nguồn gốc cơ bản của thành công. Đối với Việt Nam không còn con đường nào khác là
hợp tác trung tâm kỹ thuật có nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời đẩy mạnh giáo
dục
đào
tào.
+ Thứ ba là công nghệ và vốn: Để phát triển lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản
xuất của XHCN thì không thể không cần đến công nghệ và vốn. Thực tế cho thấy các nước đi
trước phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đều dựa chủ yếu vào phát triển công nghệ
và vốn. Đối với Việt Nam thì thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là cần thiết
đồng thời có chính sách thu hút vốn trong nước và phát triển công nghệ với 3 đặc trưng
chủ yếu trên mô hình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam phải tận dụng tối đa lợi thế
của nền kinh tế phát triển cao hơn, có chính sách cụ thể đúng đắn để điều chỉnh sự vận
động của các nhân tố trên phục vụ đắc lực vào thực tiễn.
C.
Những
thuận
lợi

khó
khăn
*
Những
khó
khăn:
Tiến hành CNH – HĐH theo định hướng XHCN là mục tiêu con đường phát triển lớn nhất
quan trọng nhất của nước ta trong giai đoạn tới. Trong thời kỳ đầu của CNH – HĐH chúng
ta còn đứng trước nhiều điều mới mẻ, nhận thức về CNH, HĐH còn hạn chế bởi nước ta vừa
thoát khỏi hai cuộc chiến tranh tàn khốc, điểm xuất phát kinh tế thấp từ một cơ cấu kinh tế
mất cân đối và kết cấu hạ tầng thấp kém. Vốn là chìa khoá là nhân tố quan trọng để thực
hiện CNH, HĐH thế nhưng khả năng huy động vốn cho quá trình này rất bị hạn chế. Hiện
nay trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thì vốn trong nước chỉ
có 25% còn 75% là vay nợ nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu quả cùng với tham
nhũng sẽ dẫn đến nguy cơ gánh nặng nợ nần lớn và khả năng trả nợ khó khăn.
Tiếp đó, bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi vừa đặt ra những thử
thách nguy cơ. Đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên
trong môi trường cạnh tranh quyết liệt (Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VII, NXB chính
trị quốc gia, Hà Nội 1996, Tr 79). Nước ta lại nằm ở khu vực châu á Thái Bình Dương và
Biển Đông, nơi đang có những diễn biến phức tạp, nơi đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể
gây
mất
ổn
định.
Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chưa xóa bỏ
hết cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình thành.
Quản lý kinh tế xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy hành chính



cồng kềnh kém hiệu quả... có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CNH, HĐH đến việc thu
hút đầu tư chuyển giao công nghệ... Đặc biệt tệ quan liêu tham nhũng và suy thoái về phẩm
chấ, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên... làm cho các chủ trương và chính sách
của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng đó cũng là mảnh đất thuật
lợi
cho
diễn
biến
hoà
bình.
*
Những
thuận
lợi.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi.
Trên thế giới cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển vào trình độ ngày càng cao,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống
xã hội. Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác được những yếu tố
nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ thị trường...) và những nguồn lực bên trong của đất
nước có hiệu quả, thực hiện CNH, HĐH rút ngắn, kết hợp các bước đi tuần tự với nhảy vọt,
vừa
tăng
tốc,
vừa
chạy
trước,
đón
đầu.
Nhà nước tiến hành CNH, HĐH đi sau chúng ta có lợi thế của con người đi sau. Chúng ta có
thể tiến hành được những thất bại mà những nước đi trước gặp phải. Lợi dụng cơ hội là đi

thẳng vào công nghệ tiên tiến thích hợp với Việt Nam, đạt được sự phát triển nhanh bền
vững.
Đất nước sau 10 năm đổi mới đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nhiều tiền để cần
thiết cho CNH, HĐH đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những thế và lực mới, cả bên
trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Nước ta có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế. Nằm trên bán
đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam á Viẹt Nam là cửa ngõ đầu mối giao thông của
các tuyến đường quốc tế quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động và được coi
là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó, chúng ta có điều kiện để mở rộng các
hoạt động kinh tế đối ngoại có điều kiện thu nhập và xử lý thông tin nhanh chóng.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28/7/1995 và Mỹ bỏ
lệnh cấm vận 3/2/1994 mở ra một hướng phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam. Chúng
ta có thêm điều kiện thuận lợi để hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó tình hình kinh tế chính trị tự ổn định nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực vật chất được tăng
cường mức sống nhân dân tăng nhanh rõ rệt, sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng lên
đáng kể; nếu như 1996 nước ta xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới thì đến cuối 1997 nước ta
đã vượt lên đứng thứ 2 trên thế giới xuất khẩu gạo sau Mỹ, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ
trong năm 1991 – 1995 nhịp độ tăng hàng năm về GNP đạt 8,2% vốn đầu tư toàn xã hội
năm 1990 chiếm 18,8% GNP đến 1995 tăng lên 27,4% GNP. Sự nghiệp giáo dục đào tạo của
đất nước có nhiều tiến bộ, trình độ dân trí được nâng lên nhờ đó có thể tiếp thu dễ dàng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ cho quá trình CNH, HĐH.
Ngoài ra nước ta còn có những thuận lợi quan trọng khác và nó được coi là nguồn nội lực
không thể thiếu được cho quá trình CNH, HĐH: có chế độ chính sách ưu việt phù hợp cho
từng ngành nghề, nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú.
Như vậy qua phân tích trên ta thấy với những tiềm năng trên cộng với đường lối chính
sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi vượt qua những thử thách,
thực hiện thắng lợi cộng với đường lối chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được
thời cơ thuận lợi vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi công cuộc CNH, HĐH đất
nước

thành
một
nước
công
nghiệp
vào
năm
2000.
Căn cứ vào sự đổi mới thực sự toàn diện về lý luận và thực tiễn của quá trình CNH ở nước
ta chia làm hai giai đoạn cơ bản: giai đoạn từ 1960 – 1980 và giai đoạn 1986 đến nay
*
Giai
đoạn
1960

1986:
Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được xác định
từ Đại hội Đảng lao động Việt Nam lần thứ III (9/1960). Tại đại hội này Đảng ta khẳng
định: Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hoá
XHCN, mà vấn đề mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Chủ trương về công


nghiệp hoá là: Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với
nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ... Thực hiện chiến lược
này, chúng ta đã tập trung một nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ viện trợ,
giúp đỡ của các nước XHCN đầu tư trang bị lại và xây dựng mới hàng loạt các cơ sở sản
xuất và các ngành kinh tế. Chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta đã hình thành một cơ cấu
kinh tế đa ngành trong đó các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, khai thác than...
Cơ cấukinh tế đã có sự cấu trúc lại, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp trong tổng sản

phẩm, xã hội không ngừng tăng từ 31,7%(1960) lên 42,7%(1978). Nông nghiệp giảm từ
31,5% xuống 29,3%khối lượng vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định trong các ngành tăng
nhanh
đặc
biệt

công
nghiệp
nặng.
Sau 1975 tình hình trong và ngoài nước có nhiều thay đổi lớn. Tốc độ tăng bình quân về
sản phẩm xã hội chỉ đạt bình quân 1,4, hội chi ngân sách 2,1 lần trong thời kỳ 1976 – 1980.
Đại hội Đảng lần thứ V khẳng định: Nội dung của công nghiệp hoá XHCN trong 5 năm
(1981 – 1985) và những năm 80 ta tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Nhờ kết quả của sự
điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đầu tư này đã đạt được những tiến độ đáng kể. Tốc độ tăng
bình quân tổng sản phẩm xã hội 7,3% thu nhập quốc dân tăng 6,4%, công nghiệp 9,5%
nông nghiệp 5,1%. Song việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất diễn ra chậm, ứng dụng khoa học
kỹ thuật và mức độ đổi mới trang bị kỹ thuật thấp, chậm. Nền kinh tế vẫn khủng hoảng tình
hình
kinh
tế
vẫn
tiếp
tục
khó
khăn.
/>*
Giai
đoạn

từ
1956
đến
nay
Đây là thời kỳ đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ cả về quan điểm, nhận thức cũng
như tổ chức chủ đạo thực hiện CNH đất nước. Đại hộiVI khẳng định: “tiếp tục xây dựng tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp theo” và
trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 – 1990, phải thực sự tập trung sức người sức của
vào việc thực hiện cho được ba mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu... Sự chuyển hướng chiến lược cùng với những thay đổi trong cơ chế
quản lý kinh tế đã thu được những hiệu quả đáng khích lệ. Một thành tựu khác về đổi mới
kinh tế là chúng ta bước đầu hình thành một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ đó trong thời kỳ từ 1986 –
1990 chúng ta đã đạt được tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm xã hội là 4,5% thu
nhập quốc dân 3,9% giá trị sản lượng công nghiệp 3,9%, nông nghiệp 3,8% giá trị xuất
khẩu 28%, nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành: dầu mỏ,
than đá, lâm, hải sản, gạo. Lần đầu tiên sau hơn 30 năm chúng ta gần như lập được cânđối
giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong tình hình nguồn viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông
Âu
không
còn
nữa.
3. Nội dung CNH –HĐH trong những năm tới cuối thập kỷ 90.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình thực hiện gắn liền với những chặng đường
nhất định. Trong mỗi chặng đường đó, CNH – HĐHđược tiến hành với nội dung khác nhau

tất
yếu
được
hoàn

thành
với
tốc
độ
không
giống
nhau.
a. Đặc biệt
coi trọng CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn.
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư, nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ
sản

liên
kết
với
công
nghiệp

đô
thị.
- Thực hiện thủy lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá và hóa học hoá.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai
thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản
xuất

đời
sống
nhân
dân.



- Hoàn thành cơ bản việc giao đất, giao rừng cho hộ nông dân, điều chỉnh việc phân bổ vốn
và huy động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông
thôn.
b.
Phát
triển
công
nghiệp.
Ưu tiên các ngành chế biến lương thực – thực phẩm sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, phát triển có chọn lọc, một số cơ sở công
nghiệp nặng như: năng lượng, nhiên liệu vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu
thủy,
hoá
chất.
c.
Xây
dựng
kết
cấu
hạ
tầng.
- Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có bằng cách khôi phục
nâng cấp và mở rộng những tuyến giao thông trọng yếu. Mở thêm đường đến các vùng sâu,
vùng xa cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay xây dựng dần cảng biển
nước
sâu.
- Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mạng thông tin liên lạc quốc gia, mở rọng mạng lưới
điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định. Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm

nguồn
nước
sạch
cho
nông
thôn.
d.
Phát
triển
nhanh
du
lịch
Các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải và các dịch vụ
phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch,
thương
mại
dịch
vụ

tầm
cỡ
trong
khu
vực.
e.
Phát
triển
hợp

các

vùng
lãnh
thổ.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng
của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng đều phát triển.
Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm để thúc đẩy sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Chúng ta cần làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh
tế xã hội giữa các vùng, coi đây là một trọng tâm chỉ đạo của các ngành, các cấp. Hình
thành mạng lưới đô thị hợp lý, tránh không tạo thành các siêu đô thị . Tăng cường công tác
quy
hoạch

quản

đô
thị.
g.Nội dung cuối cùng là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
- Đó là việc đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh
tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ
chế tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tình trạng hàng xuất khẩu. Nâng cao tỷ trọng
phần giá trị gia tăng trong quá trình hàng nhập khẩu. Giảm dần nhập siêu, có chính sách
bảo
hộ
hợp

sản
xuất
trong
nước.
- Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hộinhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng

đắn
lợi
ích
giữa
ta
với
đối
tác,
tăng
dự
trữ
ngoại
tệ...
C. Phương hướng nội dung, mục tiêu của công nghiệp hoá
Phương hướng hiện nay là công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hoá
phát triển theo mô hình công nghiệp hoá rút ngắn. Mô hình này thừa kế tất cả ưu việt của
mô hình công nghiệp hoá ở các nước trên thế giới đồng thơì tính đến đặc điểm cụ thể t hiên
nhiên
của
con
người
Việt
Nam.
Cho đến nay Việt nam sau 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
quan trọng, tại Đại hội Đảng VIII Đảng ta đã khẳng định "nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép
nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
III.
Ý

KIẾN

NHÂN:
1.
Để
công
nghiệp
hoá
hiện
đại
hoá
thành
công:
Không thể thiếu các hạt nhân của nó, muốn phát huy được vai trò của nó ta phải phát triển
nó.
a.
Phát
triển
nguồn
nhân
lực:
Để triển khai những ý tưởng về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước mắt cũng như lâu dài


phải tính đến yếu tố hàng đầu của nguồn nhân lực. ở đây vấn đề là giáo dục là cái nền của
chất lượng nhân lực, không phải nhân lực chung chung mà ở đây nhân lực của một nền sản
xuất
lớn

hội

chủ
nghĩa.
Ngoài việc bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nhân lực còn đòi hỏi phải chú ý đến chăm sóc
sức
khỏe
cho
cộng
đồng.
b.
Phát
huy
sức
mạnh
của
năm
thành
phần
kinh
tế.
Muốn vậy phải kiểm soát giảm những yếu tố tự phát trong cơ chế mới và đảm bảo nó phát
triển
theo
định
hướng

hội
chủ
nghĩa.
c.
Về

thị
trường

vốn:
Thị trường cũng là một nhân tố quan trọng, là nơi mà công nghiệp hoá có thể thành công,
là môi trường cạnh tranh tạo sự phát triển về kinh tế nó là nơi giải quyết các mâu thuẫn
tồn tại bên trong nền kinh tế. Do vậy chúng ta cần chú ý đến cả thị trường trong nước và
ngoài
nước
để
tạo
ra
động
lực.
d. Bên cạnh các nhân tố làm nên công nghiệp hoá còn rất nhiều các yếu tố liên quan đến
chính
sách
của
Nhà
nước,
tài
nguyên,
môi
trường
tự
nhiên...
2. Thực tiễn đã chứng minh công nghiệp hoá là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế.
Việt nam là một nước có điểm xuất phát về kinh tế thấp chịu hậu quả của chiến tranh, kinh
tế phát triển muộn. Muốn phát triển nhanh nền kinh tế, muốn rút ngắn khoảng cách lạc
hậu

cần
phát
huy
các
điểm
sau:
Điểm thứ nhất: Phải sử dụng lợi thế nước phát triển muộn về công nghiệp.
Chúng ta có được những kinh nghiệm quý báu về thành công lẫn thất bại của các nước đi
trước. Thừa kế những kinh nghiệm đó, Đảng ta đã khẳng định "tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái". Thừa kế các công nghệ tiên tiến của trong và ngoài nước thông qua
chuyển giao công nghệ làm chủ trương để tăng trưởng công nghiệp, tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật
cho
lực
lượng

hội.
Điểm thứ 2: là tránh chiến tranh tạo khung cảnh hoà bình để làm kinh tế, vấn đề này bao
hàm
cả
về
ổn
định
chính
trị.
Điểm thứ 3: là phải xác định được và đúng mô hình phát triển công nghệ và kinh tế thị
trường.
3. Khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chúng ta phải chú ý đến mục tiêu của nó
suy cho cùng thì mục tiêu đó phải là tiến bộ xã hội, tạo tiền đề kinh tế, vật chất cho sự giải

phóng con người, giải phóng sự tha hoá con người, làm cho con người thực sự là con người
và một "xã hội văn minh" có điều kiện hình thành và phát triển và hoàn thiện, và chú ý đến
quyluật
phát
triển
khách
quan
của

hội.
C.
KẾT
LUẬN:
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nó nhằm tới
những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay đổi mới hàng loạt vấn đề cả về
lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính trị - xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
mác - lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá là nhằm mục tiêu biến đổi nước ta thành nước
công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật
chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội
công
bằng

văn
minh.
Như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản
toàn bộ bộ mặt nước ta về kinh tế chính trị - quốc phòng - an ninh. Quá trình công nghiệp
hoá hiện nay mới chỉ là bước đầu những thành tựu khiêm tốn mà nền kinh tế Việt Nam đạt

được
rất
đáng
khích
lệ.
Việc Đảng và Nhà nước chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là hết
sức đúng đắn. Bằng sự thông minh, sáng tạo cần cù con người Việt Nam chúng ta hoan
toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng


Châu Á và chúng ta hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước Việt
Nam sánh vai các nước bạn bè trong cộng đồng quốc tế trên con đường phát triển.
Câu 4: Công nghiệp hóa ở nước ta giai đoạn 1995-2015
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200 năm, kể từ cuộc cách mạng công
nghiệp cuối thế kỷ thứ XVIII ở nước Anh. Cuộc cách mạng công nghiệp này sau đó nhanh chóng lan rộng
sang các nước Tây Âu và các nước khác như một trào lưu phát triển mới của thế giới. Khi đó, theo cách
hiểu đơn giản, công nghiệp hóa đơn thuần chỉ là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc, nhằm biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị , xã hội mà quá trình phát triển công nghiệp hóa ở mỗi
quốc gia có những sự khác biệt. Ở Việt Nam, đường lối công nghiệp hóa có thể chia ra làm 2 thời kỳ chính,
trước và sau khi đổi mới ( Đại hội Đảng VI -1986).
I. Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới( 1960 - 1986)
1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
- Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 9-1960) của Đảng.
Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn
biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ
mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách

mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất (1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài
năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này lại kéo theo sự cấm vận của
Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo 2 giai đoạn:
từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước,
hai giai đoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt khác, vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu
chống Mỹ. Điểm xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960, công nghiệp
chiếm tỷ trọng18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản
lượng lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động chưa phát
triển và LLSX còn ở trình độ thấp thì QHSX đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ
yếu ( đến năm 1960: 85,8% nông dân vào HTX; 100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể
vào HTX tiểu thủ công nghiệp). Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện
qua nhiều giai đoạn.
+ Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng
làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /1960 lên 22,2%/1965; 26,6%/1971;
28,7%/1975)
+ Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo
xây dựng và phát triển công nghiệp là:
•Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
•Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
•Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. (Vốn đầu
tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 - 1975 tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông
nghiệp tăng 6 lần)


•Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
(Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)

=> Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập khẩu mà nhiều nước, cả
nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiện lúc đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở
miền Bắc (1960 – 1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).
- Trên phạm vi cả nước, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập thống nhất và quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16
năm tại Đại hội IV của Đảng (1976) nhưng chính sách thì đã có thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa
phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất”.
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo một sự thay đổi nhất
định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627 cơ sở năm 1980 và
3220 cơ sở năm 1985.
+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm 1976.
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn viện trợ từ nước ngoài
đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây
dựng dở dang vì thiếu vốn, công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn
là sự biểu hiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc lựa chọn ưu tiên
giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy
thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở
nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm
phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của
công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời
kỳ 5 năm trước đó. Cụ thể là:

+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3% 1985: 5,7%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3% 1985: 3%
+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%, tiểu thủ công nghiệp 43,5%,
công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh 56,5%.
+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.
+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời kỳ 1976-1980 xuống 1
triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước. Mặc dù nông nghiệp
được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông
nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không
dứt khoát đó đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó
khăn và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không những không
ổn định được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.


b. Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới
Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985 chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu
cũ với các đặc trưng cơ bản sau đây:
nặng.

- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp

- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ
nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực
để công nghiệp hóa chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh
tế xã hội.
2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa

Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những tiền đề
vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức hạn chế và trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Mặc
dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan trọng.
So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành, đã có
nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa
chất được xây dựng.
Đã có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào tạo được đội
ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với 1960 là thời điểm bắt đầu công
nghiệp hóa.
Trong điều kiện đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thì những kết quả
đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn
trong các giai đoạn tiếp theo.
b) Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế: Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới còn nhiều hạn
chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa
được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nên kinh tế quốc dân.
Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được
nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát
triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong
điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công
nghiệp hóa.
+ Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ
sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy
ý trí trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa.
II. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa.
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1986



Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương
công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985:
Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua
những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các
tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu
hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn , không tập trung sức giải
quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư
nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ V như: Nông nghiệp vẫn chưa thật sự
coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến
Đại hội X
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau. Phát triển lương thực thực phẩm và
hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân sau mấy chục năm chiến tranh
ác liệt và trong bối cảnh của nền kinh tế còn đang trong tình trạng thiếu hụt hàng hóa nghiêm trọng, góp
phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng xuất khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và
đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ
tự ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài để phát triển
kinh tế xã hội.
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng
nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập

khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá thành công tại các nước Châu Á lúc bấy giờ.


Như vậy, chính sách CNH của Đại hội VI đã:
- Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu – công
nghiệp nặng.
- Tạo một sự chuyển biến quan trọng cả về quan điểm nhận thức cũng như tổ chức chỉ đạo thực hiện
công nghiệp hóa đất nước. Đó là sự chuyển biến hướng chiến lược CNH từ:
+ Cơ chế KHHTT sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
+ Cơ chế khép kín sang cơ chế mở cửa kinh tế.
+ Từ xây dựng ngay từ đầu một cơ cấu kinh tế đầy đủ, tự cấp tự túc sang cơ cấu bổ sung kinh tế và
hội nhập.
+ Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “ lấy nông nghiệp và công nghiệp
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”. Từ đó dẫn đến sự đổi mới trong cơ cấu đầu tư: “Đầu tư
có trọng điểm và tập trung vào những mục tiêu và các ngành quan trọng, trước hết đầu tư cho sản xuất
nông nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cho chế biến nông sản và một số ngành công nghiệp nặng
trực tiếp phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn”
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.


Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và
sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đã xác định rõ vai trò “mặt trận hàng đầu”
của nông nghiệp, và trên thực tế đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách đã tăng lên. Đại hội đề cập đến lĩnh
vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; đưa ra
chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp
hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã có những bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất
hơn so với nhiều năm trước:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1991: 5,8% 1995: 9,5%
+ Tương ứng công nghiệp tăng: 1991: 5,3 % 1995: 15,5%
+ Nông nghiệp tăng 1991: 2,2% 1995: 4,8%

+ Xuất khẩu tăng 1991: -13,2% 1995: 34,4%
+ Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp 1991: 67% 1995: 12,7%
+ Cơ cấu kinh tế: 1991: 40,5 – 23,8 – 35,7(%)
1995: 27,2 – 28,8 – 44 (%)
+ Vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1991 – 1995 chiếm 38,4% tổng đầu tư xã hội (20,8 tỷ USD)
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định: nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền
đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan niệm như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông
nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách
mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con
người làm yếu tố trung tâm của CNH, HDH. Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
những năm trước mắt (1996-2000) là “đặc biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệp nông thôn…”. Kết quả là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3% 2000: 6,75%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5% 2000: 10,1 %
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4% 2000: 4%
+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2% 2000: 24%
+ Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 (%)
2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 (%)
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm
mới trong tư duy về công nghiệp hóa:
- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước.
Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật,
công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút
ngăn thời gian.


- Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực
hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy
vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh
tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HDH.
- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả các sản
phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng
ngoại.
- Đẩy nhanh CNH, HDH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
nông nghiệp.
- Đẩy mạnh CNH, HDH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai.
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc,
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định
mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
a. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết
hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở
từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội.


- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh vực, nhất là các
ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
+ Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công nghiệp hóa đối với
tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu

vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là
nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của
công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy,
quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hóa. Ở nước ta, trong những năm qua, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng. Trong những năm tới, định hướng phát triển cho quá
trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày
càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp
đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
+ Về quy hoạch phát triển nông thôn:
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông,
điện nước, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài
trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
+ Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn:
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp
để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở
nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công
nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả
lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số.
Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới
50% tổng số lao động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.

Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm còn công nghiệp,
dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Đối với công nghiệp và xây dựng:


×