Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Luận văn giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.33 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG THÁI HƯNG

GI¶I QUYÕT XUNG §éT PH¸P LUËT VÒ HîP §åNG
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Do đó, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đặng Thái Hưng



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời
cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VÀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ............................ 6
1.1.

Khái quát về xung đột pháp luật....................................................... 6

1.1.1. Quy phạm và hệ thống quy phạm pháp luật xung đột.......................... 6
1.1.2. Phƣơng pháp giải quyết xung đột pháp luật......................................... 8
1.1.3. Các hệ thuộc luật cơ bản..................................................................... 12
1.2.

Khái quát về xung đột pháp luật về hợp đồng............................... 16

1.2.1. Hợp đồng và hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài .................................... 16
1.2.2.

Đặc điểm và nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài ........ 27

1.2.3. Nhận xét chung về xung đột pháp luật về hợp đồng .......................... 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 35
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CỦA VIỆT NAM..................................... 37
2.1.


Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của
hợp đồng ............................................................................................ 37

2.1.1. Phƣơng thức giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng........ 37
2.1.2. Thực trạng các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về
hình thức hợp đồng............................................................................. 40
2.2.

Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng ...... 43

2.2.1. Phƣơng thức giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng......... 43
2.2.2. Thực trạng các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về
nội dung hợp đồng .............................................................................. 46


2.3.

Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ
thể giao kết hợp đồng ....................................................................... 58

2.3.1. Phƣơng thức giải quyết xung đột pháp luật về năng lực chủ thể
giao kết hợp đồng ............................................................................... 58
2.3.2. Thực trạng các quy định giải quyết xung đột pháp luật về năng
lực chủ thể giao kết hợp đồng ............................................................ 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 64
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRONG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG....................................................................................... 65
3.1.


Định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giải
quyết xung đột pháp luật về hợp đồng ........................................... 65

3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng ......................................................... 65
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung
đột pháp luật về hợp đồng .................................................................. 68
3.2.

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung
đột pháp luật về hợp đồng ............................................................... 71

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp
luật về hình thức hợp đồng ................................................................. 71
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp
luật về nội dung hợp đồng .................................................................. 72
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp
luật về năng lực chủ thể giao kết hợp đồng........................................ 75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLDS 2005


: Bộ luật Dân sự của Quốc hội nƣớc Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam số 33/2005/QH11 ngày 14/6/2005

Công ƣớc Viên 1980

: Công ƣớc của Liên Hợp quốc về Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (Vienna, 1980)

Quy tắc Roma I

: Quy tắc số 593/2008 về Luật áp dụng đối với nghĩa
vụ hợp đồng (Quy tắc Roma I)

XĐPL

: Xung đột pháp luật


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kể từ khi bắt đầu tiến hành Đổi Mới vào năm 1986, Việt Nam đã bắt
đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ đặc biệt hội nhập
sâu và toàn diện vào sân chơi toàn cầu khi chính thức gia nhập Tổ chức
Thƣơng mại Quốc tế (WTO) năm 2007.
Chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhƣ vậy, điều dễ dàng nhận thấy
mỗi một quốc gia đều có một hệ thống các quy định pháp luật riêng và các quy
phạm pháp luật này khác với quy phạm pháp luật của các quốc gia khác thậm
chí là hoàn toàn trái ngƣợc. Nguyên nhân của sự khác nhau về pháp luật của
mỗi quốc gia do xuất phát từ các đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội và điều kiện

lịch sử hình thành của mỗi quốc gia đó.
Sự khác nhau về hệ thống pháp luật giữa các quốc gia sẽ dẫn đến
XĐPL khi điều chỉnh một quan hệ pháp luật có yếu tố nƣớc ngoài đặc biệt
trong lĩnh vực hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài.
Vì vậy, pháp luật Việt Nam vẫn cần thiết phải hoàn thiện để tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, các quy định pháp luật cần phải có sự
thống nhất và phù hợp theo thông lệ của thế giới nói chung và trong lĩnh vực
hợp đồng nói riêng, đặc biệt là việc giải quyết XĐPL về hợp đồng để đảm bảo
quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong và ngoài nƣớc.
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự 2005 mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể
so với Bộ luật Dân sự 1995 về những quy định liên quan đến Phần thứ 7 về
Quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Tuy nhiên, những quy định về giải
quyết xung đột pháp luật tại Phần này của Bộ luật Dân sự 2005 còn có những
điểm bất cập, chƣa phù hợp hoặc gây khó khăn cho việc áp dụng hoặc không
thể áp dụng đƣợc trên thực tế. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc hội nhập
kinh tế của Việt Nam và đồng thời cũng chƣa tƣơng thích với xu thế

1


phát triển của pháp luật của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Chính vì vậy,
tại kỳ họp thứ 8 Khóa XIII năm 2014, Quốc hội Việt Nam đã cho ý kiến về dự
thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005. Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam tại kỳ họp
thứ 8 Khóa XIII đã bắt đầu xây dựng một đạo luật riêng về tƣ pháp quốc tế để
pháp điển hóa các quy định liên quan đến tƣ pháp quốc tế
Do đó, bằng việc nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích đề tài "Giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng" để đƣa ra cái nhìn tổng quát về các quy định
pháp luật liên quan đến lĩnh vực xung đột hợp đồng theo quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 và các quy định pháp luật khác có liên quan và hƣớng giải quyết
XĐPL trong lĩnh vực hợp đồng theo các quy định của pháp luật Việt Nam

hiện hành. Đồng thời, tác giả cũng mong muốn đƣa ra những kiến nghị để sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 trong lĩnh
vực giải quyết XĐPL về hợp đồng và đóng góp đối với việc xây dựng đạo luật
về tƣ pháp quốc tế riêng biệt của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu trong vấn đề xung đột pháp luật và xung đột pháp luật
trong lĩnh vực hợp đồng tại Việt Nam đã có một số đề tài nhƣ:
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Bá Chiến về "Cơ sở lý luận và thực tiễn về
hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam"; Luận án tiến
sĩ của Nguyễn Thị Thuận về "Giải quyết xung đột về hiệu lực và áp dụng giữa
các điều ước quốc tế"; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Công Khanh về "Cơ sở lý
luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài ở nước ta hiện nay"; Luận án tiến sĩ của Nông Quốc Bình về
"Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam";
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Thoa về "Giải quyết tranh chấp hợp đồng
thương mại quốc tế bằng tòa án"; Luận văn thạc sỹ của Phạm Thành Tài về
"Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định

2


của pháp luật Việt Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số
nước trên thế giới"; Luận văn thạc sỹ của Lê Thu Hƣờng về "Một số vấn đề
pháp luật và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài"; Luận
văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Mai Hƣơng về "So sánh chế định giao kết hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ", ...
Các công trình nghiên cứu nhƣ: Nguyễn Tiến Vinh: "Bàn về việc hoàn
thiện các quy định trong Phần VII "Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài"
(Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 5/2003, tr.45252); Đỗ Văn Đại: "Tư pháp

Quốc tế Việt Nam và vấn đề dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng" (Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 10/2003, tr. 64271), .v.v...
Các sách chuyên khảo nhƣ: "Giáo trình Luật Thương mại quốc tế", của
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội do PGS. TS Nguyễn Bá Diến chủ biên,
2005, .v.v...
Các công trình về xung đột pháp luật của nƣớc ngoài nhƣ: Conflict of
laws (Michael Freeman, Published by the University of London Press, 2004);
Yeo Tiong Min, Professor of Law, School of Law, Singapore Management
University: "The conflict of laws", .v.v...
Tóm lại, đã có rất nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về xung đột pháp
luật, một số vấn đề về quy phạm xung đột và việc áp dụng quy phạm xung đột
trong thực tiễn nhất là trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài và mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong tất cả các công
trình nêu trên và theo tác giả đƣợc biết thì chƣa có một công trình nào chỉ tập
trung nghiên cứu chuyên sâu, phân tích, đánh giá một cách có hệ thống và
tổng thể đối với quy phạm xung đột về hợp đồng tại Việt Nam.
Do đó, đề tài "Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng" nhằm mục
đích nghiên cứu một cách chuyên sâu, tổng hợp, khái quát, đánh giá một cách

3


có hệ thống các quy định giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng và hoàn
thiện các quy phạm xung đột pháp luật về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2005.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
Mục đích nghiên cứu:
- Phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những quan điểm, phƣơng
hƣớng và kiến nghị cụ thể để hoàn thiện các quy định giải quyết xung đột
pháp luật về hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 hiện hành.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận văn:

- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005.
- Đƣa ra những kiến nghị và đề xuất giải pháp góp phần sửa đổi, bổ
sung các quy định giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nƣớc
ngoài theo quy định tại Phần thứ 7 của Bộ luật Dân sự 2005.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng đƣợc nghiên cứu của đề tài là các quy phạm pháp luật xung
đột về hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài chủ yếu trong Bộ luật Dân sự 2005 và
các quy định pháp luật khác có liên quan của pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào phân tích chủ yếu các
quy định về giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Đề tài chỉ phân tích những quy phạm
pháp luật xung đột về lĩnh vực hợp đồng theo Bộ luật Dân sự 2005 mà những
quy định này còn có những điểm bất cập, không phù hợp với tình hình thực tế
hoặc gây khó khăn trên thực tế khi áp dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, phƣơng pháp phân tích và tổng

4


hợp, phƣơng pháp luật học so sánh và phƣơng pháp thu thập thông tin để giải
quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. Các phƣơng pháp này đƣợc sử dụng linh
hoạt trong các phần khác nhau của luận văn.
Ngoài ra, luận văn còn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh
tính phổ biến của pháp luật quốc tế và pháp luật các nƣớc trong lĩnh vực giải
quyết xung đột pháp luật về hợp đồng. Luận văn cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề

tài đặt ra.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn giới thiệu, trình bày một cách tổng hợp, khái quát các quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 về việc áp dụng các quy phạm xung đột pháp
luật để điều chỉnh các loại hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài.
Luận văn làm rõ thêm một số quan điểm, đề xuất những phƣơng hƣớng
và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan đến việc
giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2005.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về xung đột pháp luật và xung đột pháp
luật về hợp đồng.
Chương 2: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng của
Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VÀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG

Để có cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong việc giải
quyết vấn đề XĐPL về hợp đồng, Chƣơng này sẽ trình bày những vấn đề c ó t
í n h l ý l u ậ n l i ê n q u a n đ ế n X ĐP L , p h ƣ ơ n g p h á p g i ả i q u y ế t XĐ P L , k h á i niệm
về hợp đồng và hợp đồng có yếu tố nƣớc ngoài và giải quyết XĐPL về hợp
đồng.
1.1. Khái quát về xung đột pháp luật

1.1.1. Quy phạm và hệ thống quy phạm pháp luật xung đột
Khái niệm "xung đột pháp luật"
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới đặc biệt kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Quốc tế
(WTO) vào năm 2007 thì các mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế, sự gia tăng lƣu thông hàng hóa khiến các quan hệ mua bán hàng
hóa ngày càng phát triển. Việc hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến các quan hệ
pháp luật ngày càng phát triển và không còn bị giới hạn trong phạm vi Việt
Nam mà còn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác
nhau và các quan hệ pháp luật phát sinh không chỉ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều quốc gia
khác nhau. Do đó, dẫn đến hiện tƣợng XĐPL giữa các bên khi tham gia vào
quan hệ hợp đồng.
Trƣớc hết, chúng ta cần làm rõ thuật ngữ "xung đột pháp luật" đƣợc
hiểu nhƣ thế nào? Thuật ngữ "xung đột pháp luật" đƣợc hiểu theo nghĩa thông
thƣờng là các quy định mâu thuẫn, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật
khác nhau trong việc giải quyết một vấn đề nào đấy.

6


Tuy nhiên, khái nhiệm "xung đột pháp luật" (conflict of laws) trong tƣ
pháp quốc tế lại đƣợc hiểu theo ý nghĩa hoàn toàn khác. Thuật ngữ này thuộc
chuyên ngành tƣ pháp quốc tế đƣợc sử dụng ở một quốc gia với mục đích
dùng để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nƣớc ngoài.
Ví dụ nhƣ việc ký kết hợp đồng giữa một công ty X của Việt Nam và
công ty Y của Hoa Kỳ. Trong quá trình thực hiện hợp đồng có phát sinh tranh
chấp thì câu hỏi đặt ra là hệ thống pháp luật nƣớc nào sẽ đƣợc áp dụng để giải
quyết tranh chấp.
Một ví dụ khác là việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và

công dân Hàn Quốc thì pháp luật quốc gia nào sẽ đƣợc áp dụng để việc đăng
ký kết hôn phù hợp với quy định pháp luật của Việt Nam và Hàn Quốc.
Theo định nghĩa trong Giáo trình Tƣ pháp Quốc tế của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS. Nguyễn Bá Diến định nghĩa thì "Xung đột
pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia
điều chỉnh một quan hệ Tư pháp Quốc tế cụ thể và giữa các hệ thống pháp
luật này có sự khác biệt về các quy định khi giải quyết vấn đề" [19, trg. 93].
Theo định nghĩa của Giáo trình Tƣ pháp quốc tế trƣờng Đại học Luật
Hà Nội thì "Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật
đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay
quan hệ pháp luật khác" [56, tr. 27].
Theo định nghĩa của Giáo trình Luật Tƣ pháp quốc tế của Bùi Thị Thu
"Xung đột pháp luật là một tình huống pháp lý hoặc một quan hệ pháp lý khi
phát sinh có thể chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau" [55, tr. 127].
Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể nhận thấy XĐPL xảy ra khi có từ
hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật và quan
hệ pháp luật này là quan hệ có yếu tố nƣớc ngoài.

7


1.1.2. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Để giải quyết XĐPL ngƣời ta thƣờng sử dụng hai phƣơng pháp:
Phƣơng pháp xung đột và phƣơng pháp thực chất.
Phương pháp xung đột
Phƣơng pháp xung đột là phƣơng pháp mà cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các quy phạm xung đột để xác định hệ thống pháp luật cụ thể nào để giải
quyết XĐPL nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng của tƣ pháp
quốc tế.

Phƣơng pháp xung đột đƣợc áp dụng một cách chủ yếu và khá phổ biến
trong cả hệ thống dân luật (civil law) mà tiêu biểu là một số quốc gia Châu Âu
lục địa nhƣ Pháp, Đức và hệ thống thông luật (common law) nhƣ Anh, Mỹ,
Australia.
Phƣơng pháp xung đột đƣợc xây dựng trên cơ sở hệ thống quy phạm
pháp luật xung đột của quốc gia, điều này có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền
phải lựa chọn pháp luật của quốc gia này hay quốc gia kia có liên quan đến
các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên dựa trên những quy định pháp luật xung đột của quốc gia đó. Ví dụ,
để xem xét việc giải quyết tranh chấp hợp đồng giữa một công ty Hàn Quốc và
một công ty Việt Nam thì cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trƣớc hết cần
xác định hệ thống pháp luật nào sẽ đƣợc áp dụng nhằm giải quyết tranh chấp
hợp đồng giữa các bên.
Việc lựa chọn này nhằm xác định luật thực chất của quốc gia nào sẽ
đƣợc áp dụng và các nguyên tắc về quy phạm thực chất nào sẽ đƣợc áp dụng
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Việc lựa chọn này thƣờng do tòa án có
thẩm quyền xem xét. Đây là điều trái ngƣợc hoàn toàn với việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Vì việc lựa chọn trọng tài là cơ quan để giải quyết
tranh chấp thì các bên có ý muốn tránh khỏi việc bắt buộc sử dụng phƣơng

8


pháp xung đột của một quốc gia để lựa chọn luật giải quyết vụ tranh chấp.
Hội đồng trọng tài thƣờng áp dụng luật do các bên lựa chọn.
Trên thực tế, có rất nhiều trƣờng hợp cơ quan có thẩm quyền không
chọn đƣợc luật thực chất để áp dụng bởi chƣa có quy phạm xung đột trong
lĩnh vực đó. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần phải xem xét lại hệ thống
pháp luật của quốc gia của mình để tìm ra các quy định phù hợp nhất để giải
quyết vụ việc.

Việc áp dụng phƣơng pháp xung đột tại quốc gia theo hệ thống thông
luật (common law) còn phức tạp hơn nhiều vì tòa án có thẩm quyền rộng
trong việc giải thích pháp luật và sáng tạo pháp luật (tuy nhiên vẫn phải đảm
bảo những nguyên tắc cơ bản nhƣ tính công bằng, tôn trọng sự thỏa thuận của
các bên và nằm trong khuôn khổ pháp luật) và việc giải quyết vụ việc lại dựa
trên các án lệ; vì vậy rất dễ dẫn đến trƣờng hợp có nhiều trƣờng hợp phát sinh
trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng mà các bên liên quan không thể
tiên liệu đƣợc tất cả tình huống phát sinh trên thực tế [56, tr. 33].
Từ những phân tích nêu trên, ta nhận thấy phƣơng pháp xung đột có
một số mặt hạn chế sau:
Thứ nhất, khó có khả năng tòa án đƣa ra một phán quyết có tính thống
nhất chung cho vụ tranh chấp bởi vì tòa án của các nƣớc khác nhau sẽ có
quan điểm, cách nhìn nhận và áp dụng pháp luật khác nhau khi giải q u yế t v ụ t
ran h ch ấ p .
Thứ hai, phƣơng pháp xung đột thƣờng không có tính ổn định và lâu
dài vì các quy phạm xung đột luôn đƣợc hoàn thiện cùng với việc hệ thống
hóa và pháp điển hóa tƣơng ứng với các điều ƣớc quốc tế mà quốc gia đó gia
nhập hoặc văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia đƣợc ban hành trong
từng thời kỳ khác nhau [55, tr.59].

9


Phương pháp thực chất
Phƣơng pháp thực chất là phƣơng pháp xây dựng trên cơ sở các quy
phạm thực chất, các quy phạm thực chất này quy định quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Chính nhờ
phƣơng pháp thực chất này mà cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ các bên khi
tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài này chỉ cần căn cứ vào nội
dung của những quy phạm thực chất này để giải quyết mà không cần phải sử

dụng đến phƣơng pháp xung đột.
Quy phạm thực chất gồm hai loại: quy phạm thực chất thống nhất trong
điều ƣớc quốc tế và quy phạm thực chất trong pháp luật của quốc gia.
Quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế, tập quán
quốc tế:
Xu hƣớng của các quốc gia hiện nay là càng ngày càng gắn bó với nhau
về mặt kinh tế nên các quốc gia ngày càng có xu hƣớng sử dụng các quy
phạm thực chất bằng cách ký kết các điều ƣớc quốc tế để điều chỉnh các quan hệ
sản xuất, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, hàng hải, hàng không, đầu
tƣ, thƣơng mại mua bán hàng hóa. Việc ký kết các điều ƣớc quốc tế và đƣợc
nội luật hóa trong pháp luật quốc gia có tác dụng đơn giản hóa và giải quyết
một cách có hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc
ngoài. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét các quy phạm thực chất trong điều
ƣớc quốc tế để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Điều này
dẫn đến việc không cần phải xem xét việc chọn luật và áp dụng luật nƣớc ngoài
mà áp dụng ngay các quy phạm thực chất trong các điều ƣớc quốc tế mà quốc
gia đó gia nhập, ký kết [56, tr. 35].
Các quốc gia trên thế giới đã ký kết nhiều điều ƣớc quốc tế đa phƣơng
nhƣ: Công ƣớc Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ƣớc
Paris 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ƣớc Bec-nơ 1886 về bảo hộ

10


quyền tác giả, Công ƣớc 1980 của Liên hợp quốc về vận tải hàng hóa đa
phƣơng thức quốc tế, …
Bên cạnh đó, quy phạm thực chất thống nhất còn đƣợc ghi nhận trong
các tập quán quốc tế (nhất là trong lĩnh vực thƣơng mại và hàng hải quốc tế
nhƣ Tập quán thƣơng mại quốc tế (Incorterm), Quy tắc thực hành thống nhất
về tín dụng chứng từ (The Uniform Customs and Practice for Documentary

Credits - UCP), .v.v…
Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia (luật quốc nội):
Trong phạm vi quốc gia, các quy phạm thực chất đƣợc quy định trong
các văn bản pháp luật của quốc gia. Các quy phạm này cũng đồng thời là các
quy phạm đƣợc quy định trong các điều ƣớc quốc tế. Các quy phạm thực chất
này trực tiếp điều chỉnh các quan hệ đã đƣợc các quốc gia thống nhất áp dụng và
đƣợc dùng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài. Ví dụ ở Việt
Nam hiện nay, các quy phạm thực chất đƣợc quy định trong văn bản luật nhƣ
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Đầu tƣ, Bộ luật
Hàng hải, Luật Hàng không Dân dụng Việt Nam, .v.v…
Tóm lại, phƣơng pháp thực chất có những ƣu điểm sau:
Thứ nhất, giải quyết trực tiếp quan hệ dân sự có yêu tố nƣớc ngoài và
thƣờng đƣợc áp dụng trong một lĩnh vực cụ thể nhất định (nhƣ mua bán hàng
hóa, sở hữu trí tuệ, đầu tƣ, .v.v…)
Thứ hai, sử dụng đối với các bên tham gia vào một quan hệ cụ thể và chỉ
đối với quốc gia là thành viên của điều ƣớc quốc tế đó và trong nhiều trƣờng hợp
chỉ áp dụng với một chủ thể cụ thể và chủ thể này thƣờng biết trƣớc các điều
kiện pháp lý khi tham gia vào quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đó.
Thứ ba, việc thực thi đƣợc nâng cao do các quy phạm thực chất trong c
ác đ i ề u ƣớ c q u ố c t ế đ ã đ ƣợ c n ộ i l u ậ t h ó a t h àn h các q u y p h ạ m p h áp l u ậ t củ a
q u ố c g i a.

11


1.1.3. Các hệ thuộc luật cơ bản
Các hệ thuộc luật là các nguyên tắc chọn luật áp dụng đối với mỗi quan
hệ dân sự trong tƣ pháp quốc tế. Mỗi quy phạm xung đột đều có phần hệ
thuộc của mình. Các quốc gia trong hệ thống pháp luật của mình đều xây
dựng và áp dụng các quy phạm xung đột dựa trên các nguyên tắc đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức phù hợp với truyền thống
pháp lý của quốc gia đó. Xu hƣớng phổ biến của quốc tế trong việc điều chỉnh
loại quan hệ xã hội đƣợc đề cập trong phạm vi của quy phạm xung đột. Các hệ
thuộc cơ bản sau đây thƣờng đƣợc dùng để điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu
tố nƣớc ngoài.
(1) Hệ thuộc luật nhân thân (lex personalis): là hệ thống pháp luật của
nƣớc mà cá nhân hoặc pháp nhân mang quốc tịch hoặc có nơi cƣ trú. Đây là
hệ thuộc luật đƣợc áp dụng phổ biến nhất để điều chỉnh các loại quan hệ dân sự
có yếu tố nƣớc ngoài bao gồm: xác định năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự của các bên đƣơng sự là thể nhân, pháp nhân, quan hệ về hôn nhân và
gia đình nhƣ điều kiện kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân giữa tài sản
của vợ hoặc chồng, thừa kế đối với di sản là bất động sản …
Hệ thuộc luật nhân thân có hai dạng cơ bản là luật quốc tịch (lex
nationalis) và luật nơi cƣ trú (lex domicilii):
(*) Luật quốc tịch là luật quốc gia mà đƣơng sự mang quốc tịch, ví dụ
theo Khoản 1 Điều 762 BLDS 2005 quy định "Năng lực hành vi dân sự của
ngƣời nƣớc ngoài đƣợc xác định theo pháp luật của nƣớc mà ngƣời đó là công
dân, trừ trƣờng hợp pháp luật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có quy định khác".
(*) Luật nơi cƣ trú là luật của quốc gia mà ở đó đƣơng sự có nơi cƣ trú
ổn định (nơi cƣ trú ở đây là nơi thƣờng trú), ví dụ Điều 772 BLDS 2005 quy
định trong quan hệ giao dịch dân sự đơn phƣơng, quyền và nghĩa vụ của bên

12


tự nguyện thực hiện quan hệ giao dịch dân sự đơn phƣơng đƣợc xác định theo
pháp luật của nƣớc nơi cƣ trú hoặc nơi có hoạt động chính của bên đó.
(2) Hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân (lex societalis) là luật của
quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Hệ thuộc này thƣờng đƣợc dùng để

xác định quy chế pháp luật của pháp nhân nhƣ: năng lực pháp luật của pháp
nhân, tƣ cách chủ thể của pháp nhân, giải quyết vấn đề tài sản của pháp nhân
trong trƣờng hợp pháp nhân tổ chức lại hay chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên,
hiện nay các quốc gia vẫn chƣa thống nhất đƣợc các dấu hiện xác định quốc
tịch của pháp nhân. Các quốc gia theo hệ thống luật Châu Âu lục địa sử dụng
phƣơng pháp xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi có trụ sở chính của
pháp nhân hoặc trung tâm quản lý. Các quốc gia theo hệ thống luật Anh Mỹ
và các quốc gia Châu Mỹ La-tinh xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi
đăng ký điều lệ hoặc nơi thành lập của pháp nhân. Trong khi đó các quốc gia
Hồi giáo lại xác định quốc tịch của pháp nhân thực tế tiến hành hoạt động kinh
doanh.
(3) Hệ thuộc luật nơi có vật hoặc tài sản (lex rei sitae): là pháp luật
đƣợc áp dụng đối với nơi có tài sản. Hệ thuộc này thƣờng đƣợc áp dụng đối
với quan hệ sở hữu và thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, đặc biệt là giải quyết
quan hệ sở hữu đối với tài sản là bất động sản.
(4) Luật nơi thực hiện hành vi (lex loci actus): là pháp luật của nƣớc mà
hành vi đã đƣợc thực hiện. Hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi gồm có các
dạng cơ bản sau:
(*) Luật nơi giao kết hợp đồng (lex loci contractus): là hệ thuộc của
pháp luật nơi giao kết hợp đồng. Hệ thuộc luật nơi giao kết hợp đồng đƣợc áp
dụng nhằm xác định tính hợp pháp của hợp đồng đƣợc giao kết. Hợp đồng
đƣợc giao kết ở quốc gia nào thì áp dụng pháp luật của quốc gia đó. Ví dụ,
Việt Nam áp dụng hệ thuộc luật nơi giao kết hợp đồng để xác định hình thức

13


của hợp đồng thể hiện trong Khoản 1 Điều 770 BLDS 2005 "Hình thức của
hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nơi giao kết hợp đồng".
Việc xác định thời điểm và nơi ký kết hợp đồng có ý nghĩa quan trọng

trong trƣờng hợp hợp đồng đƣợc giao kết vắng mặt. Nhất là trong điều kiện
khoa học kỹ thuật phát triển nhƣ hiện nay, các bên có thể ký kết hợp đồng
thông qua thƣ điện tử, fax, điện tín, … Trên thế giới có hai trƣờng phái phổ
biến để xác định thời điểm và nơi ký kết hợp đồng là:
Thuyết tiếp thu: có nghĩa là hợp đồng coi nhƣ đƣợc ký kết khi bên chào
hàng nhận đƣợc chấp nhận vô điều kiện chào hàng. Thuyết tiếp thu thƣờng
đƣợc áp dụng tại các nƣớc Châu Âu lục địa nhƣ Pháp, Đức và Đông Âu.
Thuyến tống phát: có nghĩa là hợp đồng đƣợc coi là đã ký kết khi bên
nhận chào hàng chấp nhận vô điều kiện chào hàng và gửi chấp nhận chào
hàng vô điều kiện này cho bên chào hàng.
(5) Hệ thuộc luật nơi thực hiện hợp đồng (lex regit actum): là pháp luật
của nƣớc nơi thực hiện hợp đồng đƣợc ƣu tiên áp dụng đối với hợp đồng đó.
Theo đó, hợp đồng đƣợc thực hiện tại quốc gia nào thì pháp luật của quốc gia
đó sẽ đƣợc áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên. Hệ thuộc
này thƣờng đƣợc áp dụng để giải quyết XĐPL về hợp đồng. Pháp luật Việt
Nam quy định tại Khoản 1 Điều 769 BLDS 2005 "Quyền và nghĩa vụ của các
bên theo hợp đồng đƣợc xác định theo pháp luật của nƣớc nơi thực hiện hợp
đồng, nếu không có thỏa thuận khác".
(6) Hệ thuộc luật nơi thực hiện nghĩa vụ (lex loci solutionis): là pháp
luật của quốc gia nơi có nghĩa vụ chính phải thực hiện nhằm mục đích giải
quyết những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Hệ thuộc này dùng để giải
quyết XĐPL về nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng [55, tr. 75].
(7) Hệ thuộc luật nơi thực hiện kết hôn (lex loci celebrationis): là pháp
luật nơi tiến hành kết hôn.

14


(8) Luật nơi tiến hành công việc (lex loci laboris): là pháp luật nơi công
việc đƣợc thực hiện. Hệ thuộc này thƣờng đƣợc áp dụng để giải quyết XĐPL

liên quan đến giải quyết XĐPL về lao động.
(9) Hệ thuộc nơi xẩy ra hành vi vi phạm pháp luật (lex loci delicit
commissi): là hệ thuộc dùng để điều chỉnh quan hệ bồi thƣờng thiệt hại ngoài
hợp đồng. Theo Khoản 1 Điều 779 BLDS 2005 thì việc bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng đƣợc xác định theo pháp luật của nƣớc nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại.
(10) Hệ thuộc luật lựa chọn (lex voluntatis): là luật quốc tịch của ngƣời
bán thƣờng đƣợc áp dụng để giải quyết các quan hệ trong hợp đồng mua bán
trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác.
(11) Hệ thuộc luật quốc kỳ (lex banderae): là hệ thuộc chỉ ra pháp luật
của nƣớc mang quốc kỳ. Hệ thuộc luật quốc kỳ thƣờng đƣợc áp dụng để giải
quyết XĐPL trong các vấn đề nhƣ: quyền sở hữu tài sản trên tàu biển, hợp
đồng thuê tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý, trục vớt tài sản chìm đắm ở biển cả, các vụ việc xẩy ra ở
biển cả khi tàu đang ở biển cả, trƣờng hợp đâm va chạm tàu xảy ra ở biển cả
hoặc trong nội thủy, lãnh hải của quốc gia khác giữa các tàu biển cùng quốc
tịch [55, tr. 77-78]. … Ví dụ theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hàng hải quy
định "Trong trƣờng hợp quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản
trên tàu biển, hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng
vận chuyển hành khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ giữa chủ tàu cứu
hộ và thuyền bộ của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở biển cả, các vụ việc
xảy ra trên tàu biển khi tàu đang ở biển cả thì áp dụng pháp luật của quốc gia
mà tàu biển mang cờ quốc tịch".
(12) Hệ thuộc nơi đăng ý phƣơng tiện vận tải (lex libri sitae): là pháp
luật của nƣớc mà phƣơng tiện vận tải đƣợc đăng ký. Luật nơi đăng ký phƣơng

15


tiện vận tải thƣờng đƣợc áp dụng trong lĩnh vực hàng không dân dụng, ví dụ

Khoản 1 Điều 4 Luật Hàng không Dân dụng Việt Nam quy định pháp luật của
nƣớc đăng ký quốc tịch tàu bay sẽ đƣợc áp dụng đối với các quan hệ xã hội
phát sinh trong tàu bay và xác định các quyền đối với tàu bay.
(13) Hệ thuộc luật tòa án (lex fori): là hệ thuộc chỉ ra pháp luật của
nƣớc nơi có trụ sở tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc mang tính chất dân
sự có yêu tố nƣớc ngoài trong các lĩnh vực nhƣ kinh doanh thƣơng mại, lao
động, quan hệ hôn nhân và gia đình, tố tụng dân sự.
(14) Luật tiền tệ (lex monetae): là khi ký kết hợp đồng các bên thỏa
thuận thanh toán bằng một đơn vị tiền tệ, vì vậy, các vấn đề phát sinh liên
quan đến đồng tiền thanh toán đó sẽ đƣợc luật của quốc gia ban hành và sử
dụng đồng tiền đó. Hệ thuộc này thƣờng đƣợc sử dụng trong hệ thống luật của
Đức và Áo.
1.2. Khái quát về xung đột pháp luật về hợp đồng
1.2.1. Hợp đồng và hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Khái niệm hợp đồng
Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, các tổ chức cũng
nhƣ cá nhân ngày càng tham gia vào nhiều vào mối quan hệ xã hội khác nhau. Vì
vậy, các tổ chức hoặc cá nhân khi tham gia vào các giao dịch nhất định có
nhiều phƣơng thức để trao đổi, chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất cần
thiết. Một trong những phƣơng thức cần thiết và có từ rất lâu đời để thực hiện
việc chuyển giao quyền và lợi ích đấy là sự thỏa thuận của các bên. Sự thỏa
thuận đƣợc dựa trên các nguyên tắc tự do, bình đẳng và đƣợc đặt dƣới phạm
vi điều chỉnh của pháp luật (sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên chỉ có
hiệu lực nếu nó phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc).
Hợp đồng có lẽ là một trong những chế định cổ xƣa nhất của con
ngƣời. Thuật ngữ "contractus" (hợp đồng) đƣợc ngƣời La Mã sử dụng vào thế

16



kỷ 1 sau Công nguyên và đƣợc pháp luật công nhận và bảo vệ dƣới thời
Justinnian [35, tr. 8]. Sau này, thuật ngữ hợp đồng đƣợc các nƣớc phƣơng Tây
kế thừa và phát triển và sử dụng chính thức thuật ngữ "hợp đồng", tiếng Anh là
"contract", tiếng Pháp là "contrat".
Bên cạnh việc thống nhất sử dụng thuật ngữ "hợp đồng" trong các văn bản
pháp lý, chúng ta cần phải làm rõ nội hàm của khái niệm "hợp đồng". Các luật gia
từ thời kỳ La Mã đã đặt ra những điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu lực
nhƣ sau: phải có ý chí và sự thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch; xác
định rõ ràng nội dung của hợp đồng; hành vi, công việc trong hợp đồng phải
đƣợc thực hiện; đáp ứng những điều kiện về mặt hình thức nhất định [3, tr.
80]. Những điều kiện về hợp đồng từ thời La Mã đã có từ rất lâu nhƣng
những điều kiện này vẫn là những điều chính, cơ bản trong pháp luật hiện
hành của nhiều quốc gia trên thế giới.
BLDS Pháp, là một trong những bộ luật có ảnh hƣởng đến hầu hết các
quốc gia tại Châu Âu, đã đƣa ra khái niệm về hợp đồng tại Điều 1011 "Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều ngƣời cam kết với
một hoặc nhiều ngƣời khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm
một công việc nào đó". BLDS Đức cũng có những nét tƣơng đồng với BLDS
Pháp, đƣa ra định nghĩa về hợp đồng là điều kiện cần thiết để hình thành hoặc
làm thay [35, tr. 11].
Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): "Hợp
đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những
cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác" [35, tr. 11]. Tuy có
tính khái quát hơn, nhƣng định nghĩa này về cơ bản cũng giống định nghĩa tại
Điều 1101 BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của
hợp đồng là sự "thỏa thuận" hay "thống nhất ý chí" giữa các bên. Tuy nhiên,
nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của hợp đồng mà chƣa chỉ ra

17



đƣợc dấu hiệu đặc trƣng thứ hai của hợp đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc
pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Định nghĩa về hợp đồng của các quốc gia thuộc hệ thống thông luật
(common law) nhƣ Anh, Mỹ, Úc, Ấn Độ là một thỏa thuận có tính ràng buộc về
mặt pháp lý. Hợp đồng theo hệ thống common law đƣợc hình thành khi đáp
ứng những điều kiện: có đề nghị giao kết hợp đồng, có sự chấp thuận đối với đề
nghị giao kết hợp đồng, sự bù trừ nghĩa vụ và ý định thiết lập nghĩa vụ pháp lý.
Sự khác biệt của hệ thống luật common law là sự bù trừ nghĩa vụ đƣợc hiểu là
một giá trị nào đó (có thể là tiền, dịch vụ hoặc một công việc) mà theo đó mỗi bên
nhận đƣợc hoặc trao đi hoặc từ bỏ theo thỏa thuận. Do đó, nếu thiếu sự bù trừ
nghĩa vụ nghĩa là một trong các bên không có nghĩa vụ theo thỏa thuận thì hợp
đồng sẽ không thực hiện đƣợc [3, tr 81].
Định nghĩa "hợp đồng" cũng đƣợc qui định tại Điều 1-201 Bộ luật
Thƣơng mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State
of America): "Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự
„thỏa thuận‟ của các bên…". Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement
2nd) có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: hợp đồng là "một hay một tập hợp các
cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự
cƣỡng chế của pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc thực
hiện những cam kết này là một nghĩa vụ". Trong Bách Khoa toàn thƣ về pháp
luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: "Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc,
hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định". Định nghĩa này thể hiện
rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung
của nó cũng phù hợp hơn với các định nghĩa về hợp đồng của nhiều quốc gia
khác trên thế giới [35, tr. 11].
Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định hợp đồng là sự

18



thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các chủ thể bình đẳng, thể nhân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác. Các thỏa
thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… phải phù hợp
với qui định của các luật khác. Định nghĩa về hợp đồng của Trung Quốc tƣơng
đối dài vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực hiện hợp
đồng mà Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc "bình đẳng" giữa
các bên tham gia hợp đồng. Tuy nhiên, khái niệm hợp đồng của Trung Quốc
có nhiều điểm giống với khái niệm hợp đồng của luật La Mã khi coi hợp đồng là
một căn cứ để xác lập nghĩa vụ và cũng nhấn mạnh tới sự tự do ý chí khi giao
kết hợp đồng thông qua việc coi trọng quyền bình đẳng của các bên trong hợp
đồng [35, tr. 29].
Tƣơng tự nhƣ định nghĩa hợp đồng của Trung Quốc, theo qui định tại
khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994) định nghĩa "Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự". Định nghĩa về hợp đồng của Nga vẫn có tính khái quát và ngắn gọn
hơn so với định nghĩa về hợp đồng của Trung Quốc.
Bộ luật Dân sự của Nhật Bản định nghĩa hợp đồng là một loại giao dịch
dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên. Mục đích của hợp
đồng là làm phát sinh nghĩa vụ. Bộ luật Dân sự Nhật Bản coi hợp đồng là một
quan hệ pháp luật và là căn cứ để làm phát sinh nghĩa vụ. Hợp đồng theo Bộ
luật Dân sự Nhật Bản không phải lúc nào cũng làm phát sinh quan hệ nghĩa
vụ mà trong một số trƣờng hợp, hợp đồng có thể là các giao dịch không có
mục đích làm phát sinh nghĩa vụ nhƣ quan hệ hôn nhân đƣợc coi là một giao
dịch hợp đồng không làm phát sinh nghĩa vụ [3, tr. 82].
Hợp đồng theo quy định tại Điều 1305 Bộ luật Dân sự Phi-lip-pin là "Sự
thống nhất ý chí giữa các bên, theo đó, mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn
trọng bên kia để chuyển giao vật hoặc thanh toán dịch vụ cho bên kia" [3, tr. 82].


19


Theo đó, hợp đồng cũng là cơ sở làm phát sinh nghĩa vụ và xác lập quan hệ
giữa các bên.
Tại Thái Lan, khái niệm hợp đồng không đƣợc định nghĩa cụ thể trong
Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại. Tuy nhiên, quan điểm về hợp đồng của Thái
Lan là hợp đồng đƣợc hình thành do lời đề nghị giao kết, sau đó lời đề nghị
chính thức trở thành hợp đồng khi nó đƣợc chấp nhận (kèm theo phải đáp ứng
một số điều kiện nhƣ: thời hạn trả lời, điều kiện về thiện chí của bên đƣa ra lời
đề nghị giao kết hợp đồng, không có yếu tố lừa dối, .v.v…) [3, tr. 83].
Thuật ngữ "hợp đồng" chỉ xuất hiện và sử dụng chủ yếu tại Việt Nam kể
từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp vào giữa thế kỷ 19 trở
đi. Trong đời sống thực tế, Việt Nam thƣờng sử dụng các thuật ngữ thay thế
cho thuật ngữ hợp đồng: giao kèo, cam kết, giao ƣớc, khế ƣớc, văn tự, văn khế,
tờ ƣng thuận, … Trong Quốc Triều Hình luật của thời Lê thƣờng sử dụng các thuật
ngữ nhƣ: mua, bán, cầm, cho đƣợc gọi chung là Văn khế [35, tr. 8]. Thuật ngữ
"Khế ước" đƣợc sử dụng chính thức lần đầu tiên trong Sắc lệnh ngày
21/7/1925 ở Nam phần dƣới sự cai trị của thực dân Pháp. Tiếp theo nó đƣợc
sử dụng trong Bộ Dân luật Bắc 1931 và trong Bộ Dân luật Trung 1936 - 1939.
Thuật ngữ "Khế ƣớc" cũng đƣợc sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đƣợc Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950
(Điều 13). Thuật ngữ "khế ƣớc" cũng đƣợc sử dụng trong Bộ Dân luật 1972
của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trƣớc 30/4/1975 (Điều 653). Ngoài
ra, trong Bộ Dân luật Bắc 1931, Bộ Dân luật Trung 1936 - 1939 và Bộ Dân
luật Sài Gòn 1972 còn sử dụng thuật ngữ „hiệp ƣớc‟, trong đó nhà làm luật
xem „khế ƣớc‟ là một „hiệp ƣớc‟ hoặc đồng nhất giữa „khế ƣớc‟ với „hiệp
ƣớc‟. Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nƣớc ta không còn sử dụng
thuật ngữ "khế ƣớc" hay „hiệp ƣớc‟ nhƣ trƣớc đây mà sử dụng các thuật ngữ
có tính "chức năng", "công cụ" nhƣ hợp đồng dân sự (Điều 388 BLDS


20


×