MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VÈ DÂN CHỦ c ơ SỞ TRONG XÂY
DựNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................ 9
1.1. Những vấn đề chung về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và xây dựng nông
thôn m ới......................................................................................................... 9
1.2. Một số lý thuyết và mô hình dân chủ trên thế giới............................... 27
1.3. Nội dung, vai trò của dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam...................................................................................................... 34
Chương 2: THUC TRẠNG THUC HIỆN DÂN CHỦ Ở c ơ SỞ VÀ
NHŨNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DựNG NÔNG THÔN MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................41
2.1. Thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam...................................................................................................... 41
2.2. Đánh giá quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn ở
Việt Nam.....................................................................................................57
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CỦA VIỆC THựC HIỆN DÂN CHỦ c ơ SỞ TRONG XÂY DựNG
NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................... 71
3.1. Phương hướng thực hiện dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
ở Việt Nam.................................................................................................. 71
r
r
\
3.2. Một sô giải pháp chủ yêu nhăm nâng cao việc thực hiện dân chủ cơ sở
trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
.75
KÉT LUẬN..................................................
.90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....
.94
TÓM TẮT LUẬN VĂN..............................
101
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ là khát vọng sâu xa, cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh lâu
dài của các dân tộc và của cả loài người. Ngày nay, dân chủ đã trở thành khẩu
ngữ hàng ngày trong đời sống chính trị, xã hội trên toàn thế giới. Không một
đảng phái chính trị nào, không một quốc gia nào không nói tới dân chủ và
luôn nêu cao khẩu hiệu dân chủ, coi đó như là co sở cho hoạt động của đảng
phái mình.
Ở nước ta, dân chủ là một nội dung quan trọng của cuộc cách mạng do
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra và lãnh đạo thực hiện từ những năm mới
thành lập, đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Dân chủ cũng là
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực phát triển xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Dân chủ là cái quý báu nhất của
nhân dân" và "thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng
định: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hàng ngày của
xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình".
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta khẳng định: "Toàn bộ tổ chức và động lực của hệ thống chính tri
nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy chục năm qua, đặc biệt là trong xu thế
hội nhập toàn cầu hiện nay thì dân chủ vẫn luôn là mối quan tâm và được đặc
biệt chú ý.
Chính vi tầm quan trọng đó mà Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm
đến vấn đề dân chủ đặc biệt là dân chủ ở cấp co sở. De cụ thể vấn đề này,
ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng và thực
2
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hóa một bước chỉ thị này, ngày
15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã và đã được sửa đổi, bổ sung thay thế bằng Nghị định
số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 (quy chế này áp dụng cho cả phường và thị trấn,
và được gọi là Quy chế thực hiện dân chủ ở co sở). Đây là những văn bản
quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng,
chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ
trong nhân dân, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
nhanh sự nghiệp xây dựng đât nước trong thời kỳ hội nhập quôc tê mạnh mẽ
Thủ tường Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg Phê duyệt Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
Với quyết định này đã đặt ra cho vấn đề dân chủ co sở những yêu cầu và mục
tiêu mới nhằm giữ vững và nâng cao hơn nữa những thành quả đã đạt được
trong 12 năm thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở co sở. De đáp ứng yêu
cầu này, tác giả chọn đề tài “Dân chủ cơ sở trong xây dụng nông thôn mới ở
Việt Nam hiện nay ” để làm đề tài luận văn của mình, với mong muốn đề tài
sẽ góp được một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi trong việc nâng cao
tính dân chủ ở cấp co sở trong điều kiện xây dựng nông thôn mới ở nước ta
hiện nay.
2. Tmh hinh nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề dân chủ đang là một vấn đề cấp thiết có tầm quan trọng
có ảnh hưởng tới ổn định an ninh - chính trị, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, đây cũng là một vấn đề nhạy cảm cần có sự tham gia
nghiên cứu của các nhà khoa học. Chính vi tầm quan trọng của vấn đề này
3
đang là đối tượng nghiên cứu và tìm hiểu của nhiều nhà khoa học và độc giả
trên cả nước. Ở nước ta, dân chủ và dân chủ hóa đã trở thành một trong những
nội dung co bản được đề cập trong các vãn kiện của Đảng và Nhà nước, đặc
biệt thể hiện rõ trong thời kỳ đổi mới.
- Tại đại hội khóa VIII ngày 18/2/1998 Bộ chính trị đã ban hành chỉ thị
số 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị 30
của bộ chính tri sau đó được cụ thể bằng nghị định 29/ ND - CP ngày
11/5/1998 và nghị định 79/ NĐ-CP ngày 7/7/2003 ban quy chế thực hiện dân
chủ ở xã thay thế nghị định 29. Tiếp đó, Ban bi thư TW Đảng ( khóa IX ) ban
hành chỉ thị số 10 và thông báo kết luận số 159, ủy ban thường vụ quốc hội
ban hành các nghị quyết và pháp lệnh số 34/2007, chính phủ ban hành các
nghị định về Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính,
doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty Trách niệm hữu hạn đã tạo
ra cơ chế cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân. Cùng với việc ban hành các
chỉ thị, nghị định của chính phủ là các bài viết, sách báo đóng góp ý kiến, xây
dựng cho việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được nâng cao và hoàn
thiện.
- Bà Hà Thị Khiết - ủ y viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bi
thư Trung ương Đảng, trưởng ban dân vận Trung ương đã có nhiều bài viết
được đăng trên các tạp chí của Đảng góp phần tích cực vào việc xây dựng
Quy chế dân chủ cơ sở. Bài : “ Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở kết hợp
chặt chẽ các nội dung trong tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh” đăng trên Tạp
chí cộng sản số 652 (tháng 2/2009), trong bài viết này bà đã nêu lên thực
trạng, tầm quan trọng cũng như những yếu kém trong công tác thực hiện dân
chủ ở cơ sở. Thông qua đó bà đã liên hệ với các nội dung trong tư tưởng dân
vận của Hồ Chí Minh, gắn tư tưởng của Hồ Chí Minh vào việc thực hiện Quy
4
chế dân chủ ở cơ sở, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở.
- Ông Huyng Đảm - ủ y viên Trung ương Đảng, chủ tịch ủy ban Trung
ương mặt trân Tổ quốc Việt Nam, có bài: " Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn” đăng trên Tạp chí Cộng sản số tháng
10/2009. Trong bài viết này ông đã khẳng định : “ Qua 10 năm thực hiện Quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn quyền làm chủ của nhân dân ở các địa
phương trong cả nước được phát huy mạnh mẽ. Đó là động lực to lớn thúc
đẩy sự phát triển, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. De tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn các cấp ủy,
chính quyền và Mặt trận tổ quốc Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của
mình trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện quy chế” [19].
Khai thác dưới góc độ lịch sử, tâm lỷ học, văn hóa học có nhiều công
trình liên quan mật thiết đến vấn đề dân chủ ở xã như: Phan Đại Doãn: Mẩy
van đề văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; Phan Ngọc: Bản sac văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1998; Vũ Minh Giang: Xảy dựng loi sống theo pháp
luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền thống, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
3/1993; Đỗ Long - Phan Thị Mai Hương (chủ biên); Tỉnh cộng đồng, tỉnh cá
nhân và "cái tôi" của người Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Tâm lý xã hội
trong quá trình thực hiện quỉ chế dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004....
Bên cạnh các bài viết thì một số cuốn sách nghiên cứu về dân chủ ở co
sở cũng đã được xuất bản:
5
- Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cap xã ở nước ta
hiện nay - TS. Nguyễn Văn Sáu, GS.TS Hồ Văn Thông - Chủ biên NXB
Chính trị Quốc Gia - 2003.
- Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới GS.TS
Hoàng Chí Bảo - Chủ biên, NXB Chính trị Quốc Gia 2007.
- Quy chế dân chủ ở cơ sở - Ỷ Đảng, lòng dân Ban dân vận Trung ương
Chủ biên. NXB Chính trị Quốc Gia 2005.
- Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004.
Các bài viết và các công trình nghiên cứu đó là hết sức công phu,
được tác giả đúc rút từ thực tiến của đời sống cũng như những kết quả
thực tế đã đạt được của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở nước ta.
Các ông trình nghiên cứu đó đã có những cách tiếp cận và phạm vi nghiên
cứu khác nhau nhưng đều cố gắng làm rõ bản chất, nội dung cụ thể và
hiệu quả thực tế của việc thực hiện Quy chế dân chủ cũng như việc đưa ra
nhưng giải pháp, cách thức góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vấn đề dân chủ cơ sở từ trước
tới nay luôn là một vấn đề nhạy cảm và mang tính thời sự, mỗi một giai
đoạn của đất nước, trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì vấn đề
dân chủ lại có những biểu hiện khác nhau. Vi vậy, việc hoàn thiện được
Quy chế dân chủ ở cơ sở không thể được giải quyết ngay được mà cần
phải có thời gian và phải có sự đầu tư tâm huyết của Đảng và Nhà nước
cũng như những cá nhân quan tâm tới vấn đề này. Chính vi vậy, với đề tài
này tác giả muốn đóng góp một phần tâm huyết của cá nhân để sớm có thể
hoàn thiện được Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt trong điều kiện chúng
ta đang tiến hành xây dựng nông mới ở nước ta hiện nay.
6
3. Mục đích và nhiệm vu nghiên cún
•
•
•
O
3.1. Mục dich
Từ việc nghiên cứu thực trạng của việc thực hiện dân chủ cở sở trong
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay, tác giả đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện thực hiện dân chủ
ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiêm vu
•
•
De thực hiện được những mục đích nêu trên, luận văn cần phải tập trung
giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ các quan điểm về dân chủ, đặc biệt là những
quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lenin, những tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề dân chủ. Bên cạnh đó cũng phân tích
những tư tưởng dân chủ của chế độ tư bản, rút ra được những bài học kinh
nghiệm cần thiết để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong điều kiện
nước ta đang tiến hành xây dựng nông thôn mới; chỉ ra được những thành tựu,
hạn chế, những vấn đề đặt ra cần giải quyết
- Luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
dân chủ trong điều kiện xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu quá trình triển khai thực
hiện Quy chế dân chủ trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu
vấn đề thực hiện dân chủ trên địa bàn nông thôn Việt Nam, trong điều kiện
cả nước đang tiến hành chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2015.
7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: đề tài lấy Chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu.
- Cơ sở thực tiễn: đề tài lấy những vấn đề thực tế về dân chủ đang diễn ra
ở các cấp cơ sở trên cả nước, qua đó tổng hợp, phân tích để tìm ra những
nguyên nhân cũng như đề ra những giải pháp cho việc giải quyết những vấn
đề này.
- Bên cạnh đó, tác giả còn chú ý sử dụng phương pháp logic và lich sử,
phân tích và tổng hợp và một số phương pháp của xã hội học... để nghiên cứu
và trình bày luận văn.
6. Những đóng góp mói của đề tài
- Hệ thống hóa và khái quát hóa những vấn đề lý luận về dân chủ và thực
tiễn dân chủ ở Việt Nam trong gần 30 năm đổi mới. Luận chứng về sự cần
thiết, vai trò, tác dụng của dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Từ thực trạng hiện nay, đề tài chỉ ra những việc cần tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện về nội dung Quy chế dân chủ cơ sở, đối mới và nâng cao hiệu quả
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong điều kiện cả nước đang tiến hành xây
dựng nông thôn mới.
- Luận văn góp phần thúc đẩy thêm hướng nghiên cứu mới của vấn đề
dân chủ ở nước ta dưới góc độ thực hiện dân chủ ở cơ sở và trong xây dựng
nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Đây cũng là một tài liệu tham khảo cho
độc giả và những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết, bao gồm:
8
Chương 1: Lý luận chung về dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở và những van đề đặt ra
trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
9
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VÈ DÂN CHỦ c ơ SỞ TRONG XÂY DựNG
NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề chung về dân chủ, dân chủ ở cơ sở và xây dựng
nông thôn mói
1.1.1. Khái niệm về dân chủ
Trong lịch sử tư tưởng và chính trị của nhân loại, khái niệm “dân chủ” ra
đời từ khi có nhà nước đầu tiên: xã hội chiếm hữu nô lệ. Các nhà nước
phương Tây cổ đại, do hoàn cảnh kinh tế, xã hội đặc biệt nên đã thiết lập
được những thiết chế cộng hoá: Cộng hòa quí tộc chủ nô (Xpác, La Mã),
Cộng hòa chủ nô Aten (Hi Lạp). Đặc biệt, ở Aten, với thiết chế cộng hoá dân
chủ chủ nô, với nền kinh tế công - thương nghiệp phát triển, với tầng lớp chủ
nô công - thương và bình dân chiến thắng trên vũ đài chính trị, những tư
tưởng dân chủ phát triển mạnh mẽ. Có thể nói, Aten là khởi thuy cho một nền
cộng hoá dân chủ và những tư tưởng dân chủ cho toàn thể Châu Âu. Trong
ngôn ngữ cổ Hy Lạp đã ra đời khái niệm “Democratos”, trong đó, “Demos” là
nhân dân, “Cratos” là quyền lực. “Dân chủ” có nghĩa là “quyền lực nhân dân”
(hay là “quyền lực của nhân dân”). Xuất phát từ nguồn gốc trực tiếp dẫn tới
sư• ra đời khái niêm
• “Democratos”,/ thì “dân chủ” trước hết ỉà mot
• khái niêm
•
thuộc lĩnh vực chính trị, có nghĩa quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước
phải thuộc về nhân dân. Dân chủ là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa
trên nguyên tắc nhan dân là chủ the duy nhất của mọi quyền lực.
Phạm trù dân chủ có một lịch sử tiến hóa lâu dài, nó chính là khát vọng
của nhân dân được làm chủ vận mệnh của chính mình. Qua mồi thời đại, mỗi
mem
55
lại
• được
• biểu hiện
• một
• cách
khác nhau theo su hướng triệt để và tiến bộ hơn, do đó nó cũng được triển
khai phong phú hơn từ chiều rộng, chiều sâu đến quy mô, liên quan đến nhận
10
thức, hành vi con người, các cộng đồng xã hội và hoạt động của nhà nước. Ở
mỗi giai đoạn, mồi thời đại thì dân chủ lại mang những đặc trưng về hình
thức, nội dung, bản chất của thời đại đó. Vi vậy, dân chủ mang các hình thức
lịch sử khác nhau, trong quá trình lịch sử phát triển của nhân loại từ cổ đại
đến hiện đại đã xuất hiện rất nhiều nhung lý thuyết khác nhau về dân chủ, bên
cạnh những nét tưcmg đồng co bản thì cũng xuất hiện không it những quan
điểm, xu hướng khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
* Chu nshĩa Mác - Lenin về dân chủ
Với sự phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu có phê phán thành
tựu lý luận của những người di trước, khái quát lịch sử phát triển của dân chủ,
Các - Mác đã trình bày một cách khoa học về dân chủ.
Lý luận dân chủ gắn liền với học thuyết nhá nước của Các - Mác và chủ
nghĩa Mác nói chung. Sự hình thành và phát triển lý luận dân chủ không tách
rời sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là học thuyết của
Các - Mác về nhà nước. Vi vậy, nghiên cứu những tu tưởng lý luận dân chủ
của Các - Mác phải đặt trong quan hệ với học thuyết nhà nước. Ngược lại khi
nghiên cứu về nhà nước, không thể không nói đến dân chủ.
Vấn đề trung tâm của lý luận dân chủ mácxít là vấn đề con người, là tu
tưởng xây dựng một "vương quốc tự do" của con người. Các - Mác là người
kế thừa, phát triển tu tưởng nhân đạo, tu tưởng Xã hội chủ nghĩa đã có từ
trước. Điều khác căn bản là Các - Mác đã đem lại cho tu tưởng đó một cơ sở
khoa học, giải thoát nó khỏi những ảo ảnh và những dự định viển vông.
Trong tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" viết
năm 1843, Các - Mác đã nêu lên những quan niệm về bản chất của chế độ dân
chủ khi so sánh với chế độ quân chủ. Các - Mác viết:
ll
Chê độ dân chủ là nội dung và hình thức. Chê độ quân chủ
dường như chỉ là hình thức, nhưng trong thực tế thì nó xuyên tạc
nội dung. Dưới chế độ quân chủ, tổng thể, tức nhân dân, bi đặt vào
một trong những phuong thức tồn tại của họ, tức chế độ chính trị
của họ. Còn trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước thể
hiện ra là một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định
của nhân dân " và "Trong che độ quân chủ, chúng ta có nhân dân
của chế độ nhà nước; trong chế độ dân chủ, chúng ta có chế độ nhà
nước của nhân dân. Ở đây, chế độ nhà nước- không chỉ tự nỏ, xét
theo bản chất của nó, mà còn xét theo sự tồn tại của nó, theo tính
hiện thực của nó- ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới
con người hiện thực, nhân dãn hiện thực và được xác định là sự
nghiệp của bản thân nhân dân. Chế độ nhà nước ở đây xuất hiện
đúng chân tướng của nó - tức là xuất hiện với tính cách là sản phẩm
tự do của con người” [39, tr.571].
Cùng xuất phát từ con người, nhưng Các - Mác khác những bậc tiền bối
của ông là phát hiện ra những quy luật vận động của đời sống xã hội, quan
điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc đấu tranh để cải tạo xã hội.
Đặc biệt là Các - Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Từ hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận, Các - Mác ngày càng ý thức
rõ hơn về vi trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tư bản. Các Mác đã nhận thức rằng, giành lấy dân chủ là một mục tiêu, một nội dung của
giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng vô sản. Việc giai cấp vô sản trở thành
giai cấp thống trị cũng có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy dân chủ. Xây
dựng nhà nước của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động cũng có nghĩa là
12
xây dựng nên dân chủ của giai câp vô sản, nên dân chủ của nhân dân lao
động.
V.Lenin - lãnh tụ của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa đầu tiên, đã đặc
biệt nhấn mạnh tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ, khi mà cuộc đấu
tranh giai cấp đang diễn ra quyết liệt và vấn đề giành chính quyền được đặt ra
một cách trực tiếp. Khi phân tích sâu sắc những hạn chế của dân chủ tư sản,
tính tất yếu khách quan của việc dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước tư
sản giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ, V.Lênin cũng nhấn mạnh tính
lịch sử của dân chủ và phân tích sâu sắc thêm tư tưởng của chủ nghĩa Mác về
sự tiêu vong của nhà nước và chế độ dân chủ.
v.Lenin
khẳng định rằng,
không có dân chủ trừu tượng mà bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể,
dân chủ với giai cấp này, không dân chủ với giai cấp kia.
v.Lenin viết:
“Chế
độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà
nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ
chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế, nhưng
mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng
giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang
nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước” [37, tr. 123]
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của
nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân
trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý
luận và thực tiễn, Người đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong chế độ dân chủ, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân bao giờ cũng
di liền với nhau. Do đó không thể xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh nếu mỗi công dân không tự giác thực hiện đúng luật pháp và hoàn
13
thành nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Pháp luật có liên quan rất mật thiết
với vấn đề dân chủ. Yeu tố bảo đảm để dân chủ vận hành trong một hành lang
an toàn, không bi thiên lệch chính là pháp luật.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người dành trọn cuộc đời, hy sinh,
tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân, những giá trị
về độc lập dân chủ phải mất bao công sức, xương máu giành được là vô cùng
quý giá và phải được bảo vệ, giữ gin. Không cho phép bất cứ kẻ thù nào lợi
dụng, phá hoại chế độ dân chủ cũng như những giá trị dân chủ đã được xây
dựng nên. Người nói: "Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân,
nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, của nhân dân". [45, tr.586]
Có thể khái quát tư tưởng dân chủ của Chủ tich Hồ Chí Minh thành sáu
phạm trù cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Dân chủ là quý báu nhất của nhân dân.
Dân chủ là của báu vi đó là lý tưởng, là ước vọng của toàn thể nhân dân
ta về một xã hội tốt đẹp trong tương lai, một xã hội dân chủ theo đúng nghĩa
của nó “dân làm chủ, dân là chủ”; vi “nó” đem lại quyền làm chủ vận mệnh
của mình cho nhân dân, tạo ra những điều kiện, những tiền đề để toàn xã hội,
cũng như mỗi cá nhân trong xã hội phát triển và hoàn thiện. Con người nhờ
có dân chủ và thông qua dân chủ mới có hoạt động tích cực, chủ động, sáng
tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ điều này "Có dân chủ mới làm
cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”. [42, tr.244]
Thứ hai: Diá vi cao nhất là dân, vi dân là chủ.
•
•
y
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định
trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ những chuyện
nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa
14
chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu nhà nước. Người dân có quyền làm
chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do di lại, tự
do hanh nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập... trong khuôn khổ luật pháp
cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ
cơ quan, nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn
thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Người cho
rằng “mọi lợi ích là vi dân”, “mọi quyền hạn là của dân”, “mọi công việc do
dân”. Trong tu tưởng của Người, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là
lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các to chức chính trị, do vậy nhân
dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ che độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Thứ ba: Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân.
Người luôn luôn khẳng định bản chất nhân dân và bản chất dân chủ của
chính quyền ta. Người cũng nói đến chuyên chính, nhưng Người coi chuyên
chính là “cái khoá, cái cửa” để đề phòng kẻ phá hoại của quý báu nhất là dân
chủ mà thôi. Người khẳng định “Mở rộng dân chủ di đôi với tăng cường
chuyên chính để cho chính quyền ta thật sự là chính quyền của dân, phục vụ
nhân dân, chống lại kẻ thù của nhân dân”. [44, tr.289]
Trong quan niệm về chức trách và nhiệm vụ, Người nhấn mạnh tính chất
“Người đầy tớ công cộng” của chính quyền đối với nhân dân. Người dùng
chữ “công bộc” (người đầy tớ trung thành) để nói một ý nghĩa mới của một
chính quyền dân chủ.
Tu tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ vẫn còn giữ nguyên giá trị
trong việc củng cố và xây dựng một chính quyền nhà nước dân chủ để phục
vụ nhân dân có hiệu quả, hiệu lực, một chính quyền thật sự vi dân và do dân,
chứ không phải là quyền lực riêng của một cá nhân hoặc là một nhóm người
nào đó.
15
Thứ tư: Đảng cũng ở trong xã hội. Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên.
Đảng cũng ở trong xã hội, trước hết cần hiểu rằng, khi nói Đảng ở trong
xã hội, nghĩa là Đảng không bao giờ là một lực lượng siêu nhiên, siêu xã hội.
Đảng bao gồm những con người của đời thường, chịu những dấu ấn của mọi
mối quan hệ xã hội hiện hữu. Đảng không phải là tập thể của những thánh
nhân, không bao giờ mắc sai lầm.
Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên, được hiểu thế nào?
Trong tu tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm “do dân” trở thành một yếu tố định
hình, chi phối toàn bộ các lập luận. Bất cứ một hình thái tổ chức xã hội nào
đều do yêu cầu của dân mà thành lập, mà hoạt động. Do dân còn là do trình
độ dân trí mà tổ chức cho phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng cho
rằng Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không tồn tại, không tổ chức lên
vi chính mình. Vi thế, tu duy “do dân tổ chức nên” chính là cỗt lõi triết học
của khoa học tổ chức Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà trong công tác xây
dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải gắn với dân , bám
sát dân, đặc biệt là phải luôn nhạy cảm với thực tế.
Thứ năm: Đoàn thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền lợi của dân, liên lạc mật thiết giữa dân với Chính phủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Mint các đoàn thể trước hết phải là tổ chức của dân.
Trong du luận xã hội có khi đoàn thể chỉ là của Đảng, của chính quyền hoặc là
của cán bộ đoàn thể mà thôi. Neu làm cho dân chấp nhận được đoàn thể là của
chính họ, nhất định sẽ có phong trào quần chúng rộng rãi, sẽ có phương thức
hoạt động và sẽ có sự gắn bó chặt chẽ giữa đoàn thể và nhân dân.
Người cũng khẳng định nhiệm vụ của đoàn thể là phấn đấu cho dân và
bênh vực quyền lợi của dân. Chẳng hạn “công đoàn phải bảo vệ cho công
16
nhân có quyên thực sự trong xi nghiệp”. Đoàn thanh niên “muôn củng cô và
phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh
niên, phải tránh thành kiến, hẹp hòi cô độc”. Với Hội nông dân, Hội phụ nữ,
Nguời cũng đều nêu những yêu cầu tưong tự. Riêng với Mặt trận dân tộc
thống nhất, trước sau Người đều coi đó là một liên minh chính trị của các giai
cấp, các tầng lớp tôn giáo và dân tộc. Người cho rằng vai trò của Mặt trận
chẳng những có ích trong việc đoàn kết toàn dân, chống kẻ thù xâm lược, mà
còn rất cần thiết cả trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ sáu: Thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống của
nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự.
Pham trù này chính là nói về giải pháp và phương thức thực hiện dân
chủ. Người quan niệm dân chủ là một hệ thống tổng hợp những thiết chế, luật
lệ, vừa là một chế độ xã hội, vừa là một phương thức văn minh của các mối
quan hệ xã hội hiện đại vừa là một phong cách sống văn minh. Dân chủ vừa là
mục tiêu, là nội dung, là động lực phát triển xã hội.
Muốn thực hiện dân chủ thực sự, không thể không tiến hành những cải
cách xã hội về mọi mặt. Dân chủ thực sự là kết quả tất yếu phải đạt tới, thông
qua nhiều cải cách khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Đồng
thời dân chủ cũng là nội dung, là biện pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thành
những cải cách ấy. Đời sống của nhân dân là chỉ báo, là dấu hiệu, là chất
lượng của dân chủ, đồng thời cũng chính là mục tiêu và kết quả của mọi cải
cách xã hội. Ba yếu tố ấy (cải cách xã hội, nâng cao đời sống, thực hiện dân
chủ) gắn liền với nhau, đan xen nhau, hài hoá cân đối, thúc đẩy lẫn nhau.
Trong cải cách xã hội có nội dung dân chủ. De thực hiện dân chủ lại phải
vạch ra những chương trình cải cách xã hội, dù là về sở hữu, là quản lý sắp
xếp bộ máy Nhà nước, về văn hoá hay giáo dục.
17
Sáu luận điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một hệ thống hàng
trăm luận đề có nội dung phong phú, sâu sắc khác nhau, liên quan tới mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, là một kho báu có giá trị lớn lao, luôn được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng trong quá trình thực hành dân chủ cũng như xây dựng
và phát triển đất nước. Với những gi quan sát được từ chế độ dân chủ tư sản ở
các nước văn minh nhất mà Người đã từng sống như Mỹ, Pháp, Anh, từ
những ưu việt của chế độ Xô viết trong những năm đầu tiên, sự ngưỡng mộ và
nghiên cứu các tư tưởng của Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào thực tiễn
của Việt Nam. Chính vi vậy quan niệm dân chủ của Người vừa phù họp với
trào lưu chung của nhân loại toàn thế giới, vừa phù hợp với lý tưởng của xã
1
/V •
1
9
1 ~
hội chu nghĩa.
1.1.2. Khái niệm về dân chủ ở cơ sở
Gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi viec
dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội là một biểu hiện đặc trưng của nội
dung và phương thức thực hiện đường lối đổi mới trong những năm qua.
Dân chủ hóa chính là quá trình hiện thực hóa dân chủ trong đời sống xã
hội, là một cuộc vận động và đấu tranh trên quy mô toàn xã hội, liên quan đến
mọi người, mọi việc, mọi to chức nhằm phê phán những biểu hiện thiếu dân
chủ, xác lập được quyền dân chủ, quyền làm chủ của mọi công dân; ý chí,
nguyện vọng, lợi ích và quyền lực của nhân dân là sức mạnh tối cao, là quyền
lực chi phối và quyết định đối với mọi tổ chức xã hội, mọi co quan nhà nước.
Ở nước ta co sở là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị, là nơi diễn ra
thường xuyên và hàng ngày việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Ở đó, người dân trực tiếp gắn bó với cơ sở
và bộc lộ mình dưới nhiều diện mạo, tham gia vào các to chức đoàn thể, các
to chức, các nhóm, hội,.... Sức mạnh của cơ sở chính là sức mạnh của nhân
dân, vi vậy sẽ là một thiếu sót lớn nếu như chúng ta không biết phát huy và có
18
những cơ chê phát huy được những tiêm năng đó từ cơ sở. Từ thực tê xây
dựng và phát triển đất nước cho thấy, chính cơ sở là nơi nảy sinh, khơi nguồn
hình thành nên những tư tưởng đổi mới. Những quyết sách trong quá trình đổi
mới sở dĩ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân là bởi đó chính là sự
tổng kết, sự khái quát những tìm tòi, những thể nghiệm của quần chúng nhân
dân trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày của họ ở cơ sở.
Thực tế cũng cho thấy cấp cơ sở là cấp có vi trí và vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển nhiều mặt của đời sống xã hội, điều này được thể hiện:
+ Cấp cơ sở chính là nơi cung cấp nguồn lao động lớn cho xã hội, đồng
thời cũng là nơi giải quyết vấn đề lao động việc làm cho nhân dân lao động.
+ Cấp cơ sở là nơi thực hiện rộng rãi và trực tiếp nhất quyền làm chủ của
nhân dân.
+ Cấp cơ sở là cầu nối giữa dân với Đảng và Nhà nước, là nơi quyết định
và trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và tiếp thu ý kiến phản hồi của nhân dân.
+ Cấp cơ sở là nơi trực tiếp giữ gìn và phát huy những giá tri truyền
thống của dân tộc.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, Đảng ta luôn chủ trương tiếp tục phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân trên mọi mặt của đời sống xã hội, trước hết
ở cơ sở.
Từ những quan niệm về dân chủ và quan niệm về cơ sở như trên, tác giả
xin đưa ra định nghĩa về dân chủ ở cơ sở như sau:
Dân chủ ở cơ sở là quá trình đưa những giá trị dân chủ vào đời sông xã
hội một cách trực tiếp và rộng rãi nhất ở chính nơi mà nhân dân đang sinh
sống và làm việc hàng ngày. Hay nói cách khác, dân chủ ở cơ sở là quá trình
hiện thực hóa những cơ chế hoạt động của hệ thống tổ chức quyền lực ở cơ sở
19
sao cho nhân dân được đảm bảo một cách trực tiếp và rộng rãi nhất những
quyền được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra ở chính nơi họ đang sinh
sống và làm việc hàng ngày.
Ở Việt Nam hiện nay, nói đến cơ sở là nói đến xã, phường, thị trấn mà
chủ yếu và trước tiên là ở xã, bởi lẽ: nông thôn, làng xã Việt Nam là nơi sinh
sống của giai cấp nông dân - lực lượng đông đảo nhất trong cơ cấu dân cư ở
nước ta (nông dân có khoảng 62,7 triệu, chiếm gần 70% dân số và hơn 50%
lực lượng sản xuất xã hội) [29]. Chính quyền cấp xã là bộ phận lớn nhất trong
hệ thống chính quyền hành chính nhà nước. Nước ta hiện nay có đơn vi xã
phường, trong đó có 9001 xã, 615 thị trấn và 1545 phường [65]. Nhiều
phường mới chuyển lên từ xã trong quá trình đô thị hóa nhưng vẫn chưa tách
ra khỏi nông nghiệp hoàn toàn. Như vậy, xã và thị trấn thuộc khu vực nông
thôn và cư dân sống bằng nghề nông chiếm tỷ lệ rất cao. Nói cách khác, cho
đến nay ở Việt Nam xã vẫn là hinh ảnh đầy đủ và tiêu biểu nhất của mọi diện
mạo ở cơ sở.
hợp
hóa - xã hội. Dân chủ cơ sở ở nông thôn thực chất là làm cho văn hóa thấm
vào kinh tế và chính trị, làm cho chính trị ngày càng dân chủ, khoa học, văn
hóa, trở thành những giá trị chuẩn mực thấm sâu vào đời sống xã hội, trở
thành nhu cầu, lối sống của mọi tầng lớp dân cư. Dân chủ ở cơ sở diễn ra trên
tất cả mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa một cách trực
tiếp và sinh động, liên tục đối với mọi người, mọi lứa tuổi. Nó được thực hiện
thông qua các hệ thong chính trị ở cơ sở, bằng trình độ nhận thức đúng đắn và
khả năng hành động thực tiễn của mọi người.
1.1.3. Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là
Thị tứ; Thứ hai, là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống.
20
Neu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn
mới phải bao hàm CO’ cấu và chức năng mới.
Xây dựng nông thôn mới không phải là việc biến làng xã thành các Thị
tứ hay cố định nông dân tại nông thôn. Đô thị hoá và phi nông hoá nông dân
chính là nguồn động lực quan trọng để xây dựng nông thôn mới. Xây dựng
nông thôn mới phải đặt trong bối cảnh đô thị hoá. Trong khi đó, chuyển dịch
lao động nông thôn chính là nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng
nông thôn mới với chủ thể là các tổ chức nông dân. Các tổ chức họp tác xã
nông dân kiểu mới đóng một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp này.
Khái niệm mô hình nông thôn mới mang đặc tnmg của mỗi vùng nông
thôn khác nhau. Nhìn chung, mô hình nông thôn mới là mô hình cấp xã, thôn
được phát triển toàn diện theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân
chủ hoá và văn minh hoá.
Sự hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới
là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những bài học khoa
học - kỹ thuật hiện đại, song vẫn giữ được nét đặc trưng, tính cách Việt Nam
trong cuộc sống văn hoá, tinh thần.
Mô
cầu phát triển; Có sự đối mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường;
Đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội;
Tiến bộ hơn so với mô hình cũ; Chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ
biến và vận dụng trên cả nước.
Xây dựng nông thôn mới là việc đổi mới tư duy, nâng cao năng lực của
người dân, tạo động lực giúp họ chủ động phát triển kinh tế, xã hội, góp phần
thực hiện chính sách vi nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thay đổi co sở vật
chất và diện mạo đời sống, văn hoá, qua đó thu hẹp khoảng cách sống giữa
21
nông thôn và thành thị. Đây là quá trình lâu dài và liên tục, là một trong
những nội dung trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong đường lối,
chủ truong phát triển đất nước và của các địa phương trong giai đoạn trước
mắt cũng như lâu dài.
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại; Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất họp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; Môi trường sinh thái được bảo vệ;
Nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nông
thôn; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nông và đội ngũ trí
thức, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc, đảm bảo thực hiện
thành công Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước theo dinh hướng xã hội
chủ nghĩa.
Hiểu một cách chung nhất của mục đích xây dựng mô hình nông thôn
mới là hướng đến một nông thôn năng động, có nền sản xuất nông nghiệp
hiện đại, có kết cấu hạ tầng gần giống đô thị.
Vi vậy có thể quan niệm: “Mô hình nông thôn mói là tổng thể những đặc
điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu to chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu
cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây
dựng mói so vói mô hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt” [58].
1.1.4. Nội dung, những yeu cầu xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Xây dựng nông thôn mới không phải chỉ nhằm xây dựng con đường,
kênh mương, trường học, hội trường... mà cái chính là qua cách làm này sẽ
tạo cho người nông dân hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa và thúc đẩy họ tự tin,
tự quyết, đưa ra sáng kiến, tham gia tích cực để tạo ra một nông thôn mới
năng động hơn. Phải xác định rằng, đây không phải là đề án đầu tư của Nhà
22
nước mà là việc người dân cần làm, để cuộc sống tốt hơn, Nhà nước chỉ hồ
trợ một phần.
Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng thôn về tiềm năng, lợi thế, năng
lực của cán bộ, khả năng đóng góp của nhân dân... hướng dẫn để người dân
bàn bạc đề xuất các nhu cầu và nội dung hoạt động của đề án. Xét trên khia
cạnh tổng thể, những nội dung sau đây cần được xem xét trong xây dựng mô
hình nông thôn mới.
- Đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng
+ Nâng cao năng lực cộng đồng trong việc quy hoạch, thiết kế, triển khai
thực hiện, quản lý, điều hành các chương trình, dự án trên địa bàn thôn.
+ Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ co sở và đội ngũ cán bộ các cấp về
phát triển nông thôn bền vững.
+ Nâng cao trình độ dân trí của người dân.
+ Phát triển mô hình câu lạc bộ khuyến nông thôn để giúp nhau ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ để giảm lao
động nông nghiệp.
- Tăng cường và nâng cao mức sống cho người dân
+ Quy hoạch lại các khu dân cu nông thôn, với phương châm: Giữ gìn
tính truyền thống, bản sắc của thôn, đồng thời đảm bảo tính văn minh, hiện
đại, đảm bảo môi trường bền vững.
+ Cải thiện điều kiện sinh hoạt của khu dân cu: Uu tiên những nhu cầu
cấp thiết nhất của cộng đồng dân cu để triển khai thực hiện xây dựng: Đường
làng, nhà văn hoá, hệ thống tiêu thoát nước...
+ Cải thiện nhà ở cho các hộ nông dân: Tăng cường thực hiện xoá nhà
tạm, nhà tranh tre nứa, hồ trợ người dân cải thiện nhà ở, nhà vệ sinh, chuồng
trại chăn nuôi, hầm biogas cho khu chăn nuôi...
23
- Hồ trợ người dân phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ nâng cao thu
nhập.
• Căn cứ vào các điều kiện cu thể của mồi thôn để xác định một cơ cấu
1
•
•
•
•
kinh tế họp lý, có hiệu quả, trong đó:
+ Sản xuất nông nghiệp: Lựa chọn tập trung phát triển cây trồng, vật
nuôi là lợi thế, có khối lượng hàng hoá lớn và có thị trường, đồng thời da
dạng hoá sản xuất nông nghiệp trên co sở phát huy khả năng về đất đai, nguồn
nước và nhân lực tại địa phương.
+ Cung ứng các dịch vụ sản xuất và đời sống như: Cung ứng vật tu, hàng
hoá, nước sạch cho sinh hoạt, nước cho sản xuất, điện, tu vấn kỹ thuật chuyển
giao tiến bộ khoa học, tín dụng...
+ Hồ trợ trang bi kiến thức và kỹ năng bố trí sản xuất, thay đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi họp lý.
+ Củng cố, tăng cường quan hệ sản xuất, tu vấn hồ trợ việc hình thành và
hoạt động của các tổ chức: Tổ họp tác, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư... tạo mối liên kết bốn nhà trong sản xuất, chế biến, và tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng nông thôn gắn với phát triển ngành nghề nông thôn tạo việc
làm phi nông nghiệp.
+ Đối với những thôn chưa có nghề phi nông nghiệp: De phát triển được
ngành nghề nông thôn cần tiến hành "cấy nghề" cho những địa phương còn
"trắng" nghề.
+ Đối với những thôn đã có nghề: Củng cố tăng cường kỹ năng tay nghề
cho lao động, hồ trợ công nghệ mới, quảng bá và mở rộng nghề, hỗ trợ xử lý
môi trường, hỗ trợ tư vấn thị trường để phát triển bền vững.
- Hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ sản xuất
24
+ Tư vấn hỗ trợ quy hoạch giao thông, thuy lợi nội đồng, chuyển đổi
mộng đất, khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại với
nhiều loại hình thích họp.
+ Hỗ trợ xây dựng mặt bằng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng
nghề, chế biến sau thu hoạch, giao thông, thuy lợi nội đồng.
trường
môi trường
nguồn cấp nước, thoát nước đến quản lý thu gom rác thải ở nông thôn cũng đã
trở nên đáng báo động. Đã đến lúc cơ quan địa phương cần có những biện
pháp quản lý môi trường địa phương mình như: Xây dựng hệ thống xử lý rác
thải, tuyên tmyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân, xây
dựng hệ thống quản lý môi trường ở khu vực mình một cách chặt chẽ.
- Phát triển cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá, phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc ở nông thôn
+ Thông qua các hoạt động ở nhà văn hoá làng, những giá trị mang đậm
nét quê đã được lưu tmyền qua các thế hệ, tạo nên nhung phong trào đặc sắc
mang hồn quê Việt Nam riêng biệt, mộc mạc - chân chất - thắm đượm tình
quê hương.
+ Xã hội hoá các hoạt động văn hoá ở nông thôn, trước hết xuất phát từ
xây dựng làng văn hoá, nhà văn hoá làng và các hoạt động trong nhà văn hoá
làng. Phong trào này phải được phát triển trên diện rộng và chiều sâu.
Căn cứ vào từng điều kiện cụ thể mà vai trò của từng nội dung đối với
mỗi địa phương là khác nhau, tuy nhiên những nội dung trên cần được song
song thực hiện, tạo điều kiện cho sự phát triển đồng bộ, toàn diện trong một
mô hình nông thôn mới.
* Những đặc thù của dân chủ trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam