Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH QUẢNG NGÃI LÃNH đạo PHÁT TRIỂN cụm, KHU CÔNG NGHIỆP từ năm 2005 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 107 trang )

“Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển khu, cụm công nghiệp từ năm
2005 đến năm 2015”
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Để phát triển nền kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội cũng
nhưng đảm bảo QP,AN của một quốc gia, đòi hỏi cần phải phát huy mọi yếu
tố nội lực cũng như tận dụng các nguồn ngoại lực. Trong đó, vấn đề đầu tư
phát triển công nghiệp được xem là một nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự
ổn định phát triển bền vững của đất nước.
Lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới cũng như từng quốc gia đã
chứng minh cho chúng ta thấy được vị trí, vai trò to lớn của công nghiệp đối
với sự phát triển của xã hội, công nghiệp đã tạo ra nguồn của cải vật chất vô
cùng to lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có những điều kiện thuận lợi về
nguồn tài nguyên cũng như yếu tố con người để phát triển công nghiêp. Tuy
nhiên, do hậu quả của chiến tranh đã tàn phá nặng nề nền kinh tế nói chung và
công nghiệp nước ta nói riêng. Đồng thời, trong quá trình xây dựng đất nước
chúng ta còn mắc phải một số hạn chế trong nhận thức, quản lý dẫn đến công
nghiệp nước ta kém phát triển. Nhận thức rõ vị trí của công nghiêp, từ khi đổi
mới đến nay Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển
công nghiệp cũng như có những chỉ đạo cụ thể xây dựng và phát triển công
nghiệp phù hợp với điều kiện, yêu cầu cho từng địa phương.
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung
Bộ, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn
khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của nước ta.
Những năm qua, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển KT - XH, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều chủ trương, giải pháp và
hành động cụ thể để phát triển công nghiệp. Trong đó tập trung đầu tư phát triển

2




mạnh các K,CCN đã phát huy được thế mạnh của từng địa phương trong tỉnh.
Chính những chủ trương đúng đắn trong lãnh đạo phát triển K,CCN đã trở thành
động lực to lớn cho sự phát triển KT - XH của tỉnh Quảng Ngãi. Góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân, đưa tỉnh Quảng Ngãi thoát khỏi tỉnh nghèo, kém phát
triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc phát triển
K,CCN của tỉnh Quảng Ngãi còn bộc lộ một số hạn chế yếu kém, chưa ngang
tầm với yêu cầu, tiềm năng và thế mạnh của tỉnh. Vì vậy nghiên cứu quá trình
Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển K,CCN, đánh giá kết quả, rút ra
những kinh nghiệm, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để tiếp tục phát
triển K,CCN không chỉ là một yêu cầu cơ bản mà còn là vấn đề cấp bách đặt
ra đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về phát K,CCN trong
phạm vi cả nước cũng như nghiên cứu phát triển K,CCN ở từng địa phương và ở tỉnh
Quảng Ngãi đã được công bố.
* Nhóm các công trình nghiên cứu những vấn đề chung về phát triển
khu, cụm công nghiệp trong phạm vi cả nước
Viện Kinh tế học (1994), Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất và đặc khu kỉnh tế; Đề tài khoa học cấp Nhà nước của
Bộ Xây dựng, ký hiệu KX 11-13 (1996), Cơ sở hình thành các khu công

nghiệp tập trung ở Việt Nam; Trần Trọng Hanh (1998), Quy hoạch quản
lý vù phát triển các khu công nghiệp ờ Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội;
Ngô Thế Bắc (2000), “Khu chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay”,

Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (5), tr.30-32; Đề tài cấp Bộ của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (2002), Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp,


khu chế xuất ở Việt Nam; Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), “Phát triển khu
3


công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”,

Kỷ yếu hội thảo; Nguyễn Chơn Chung, Trương Giang Long (2004), Phát
triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trương Thị Minh Sâm (2004),
Các giải pháp nhằm nâng cao vui trò vù hiệu lực quản lý nhà nước vể
bảo vệ mỏi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội; Vũ Anh Tuấn (2004), “Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất,
những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Phát triển kinh tế, 2; Nguyễn Ngọc Dũng
(2005) “Một số vấn đề xã hội trong việc xây dựng và phát triển các khu công
nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 383, tr.33 - 35; Nguyễn
Hữu Dũng (2008), “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động việc làm
ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, 149, tr.19-22; Nguyễn Văn Hùng (2009),
Một số vấn đề về đổi mới công tác quy hoạch và phát triển khu công nghiệp
gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta”, Tạp chí Khu công nghiệp, 135, tr.37 39; Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững

nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển
các khu công nghiệp, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội; Võ Thanh Thu
(2010), “Những giải pháp cho sự phát triển bền vững các khu công

nghiệp Việt Nam”. Tạp chí Phát triển kinh tế, (77), tr.10-13; Vũ
Quốc Huy (2011), “Quản lý nhà nước về môi trường khu công
nghiệp, thực trạng và nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới”

Tạp chí Khu công nghiệp, 162, tr.4-6.

Trong các công trình khoa học này hầu hết các tác giả đều đề cập đến vị
trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của K,CCN trong phát triển KT - XH.
Đồng thời khẳng định phát triển K,CCN là một trong những nhân tố then chốt

4


đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Từ thực trạng khảo sát ở các địa
phương, các tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển bền
vững nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển K,CCN và đưa ra một số
giải pháp phát triển bền vững nông thôn trong quá trình phát triển các K,CCN.
Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra một số kiến nghị và giải pháp có tính đặc thù
nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở
các KCN, CCN, khu chế xuất, để đảm bảo phát triển bền vững về KT - XH
cho vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt, trong
các công trình nghiên cứu trên, có công trình đã đi sâu phân tích, đánh giá,
tổng kết công tác quản lý và phát triển K,CCN trong những năm qua. Cùng
với đó là sự chỉ đạo quy hoạch tổng thể và một số quy hoạch chi tiết các
K,CCN ở nước ta giúp cho các nhà hoạch định kinh tế có cái nhìn tổng thể về
các K,CCN trên phạm vi cả nước.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển khu, cụm công nghiệp
ở các địa phương
Nguyễn Đức Phượng (2000), Phát triển các khu công nghiệp tập trung
trên địa bàn Đồng Nai và tác động của nó đến khu vực phòng thủ tỉnh, Luận

văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự; Võ Văn Một (2004),
Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (1991- 2004), Nxb Tổng hợp, Đồng Nai; Phạm

Văn Thanh (2005), Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp tập trung

tại tỉnh Đồng Nai đến năm 2010, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Phạm Đắc Đương (2006), Tác động của khu
công nghiệp tập trung đối với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà
Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quân sự;

Nguyễn Quốc Nghi (2009), “Nhu cầu nhà ở của công nhân tại các khu
công nghiệp trên địa bàn thành phố Cần Thơ, thực trạng và giải pháp",

5


Tạp chí Phát triển kinh tế, 192, tr.47-50; Nguyễn Ngọc Điệp (2009),
“Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Thái Bình

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ”, Tạp chí Kinh tế và dự báo
(11), tr.35-37; ; Trần Văn Liều (2009), “Các khu công nghiệp tỉnh Bình
Dương vững bước trên con đường phát triển”, Tạp chí Kinh tế và dự báo,
17, tr.37-39; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010, Luận văn
thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Văn Trịnh (2012), Phát triển khu,

cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế

chính trị, Học viện Chính trị.
Những công trình trên, các tác giả đã trình bày tổng quan về sự phát
triển các K,CCN tập trung, đánh giá thực trạng phát triến K,CCN tập trung ở


một số địa phương. Đồng thời, luận giải khá sâu sắc về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc phát triển các K,CCN tập trung ở một số địa phương, trong
đó chỉ ra những tác động của quá trình đó đến sự phát triển KT - XH, QP,AN

trên địa bàn địa phương trên cả phương diện thành tựu và hạn chế, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu
cực của phát triển các K,CCN. Từ đó rút ra nhừng bài học kinh nghiệm và đề
ra các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào phát triển các K,CCN ở
các địa phương trong những năm tiếp theo.
* Nhóm những công trình nghiên cứu về phát triển khu, cụm công
nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi
Phạm Thị Hồng (2011), Vai trò của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đối với
quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp Dung Quất 1996-2006,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

6


văn; Phạm Hồng Hạnh (2011), Phát triển công nghiệp nông thôn ở tỉnh
Quảng Ngãi đến năm 2020, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế Phát triển, Đại học Đà
Nẵng; Trần Thị Mỹ Ái (2011), Phát triển công nghiệp Quảng Ngãi, Luận văn
Thạc sỹ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng; Trương Quang Dung (2011), Thu hút vốn
đầu tư phát triển công nghiệp tại tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế,
Đại học Đà Nẵng; Nguyễn Duy Diễn (2012), Một số giải pháp thu hút đầu tư
vào khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Đại
học Đà Nẵng; Đàm Yến Nhi (2015), Chính sách phát triển các khu công
nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu K,CCN của tỉnh Quảng Ngãi trình bày về
vai trò của Đảng bộ tỉnh trong quá trình lãnh đạo phát triển khu công nghiệp,

cũng như đánh giá thực trạng, đề ra giải pháp thu hút đầu tư cho phát triển công
nghiệp nói chung và các KCN của tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về K,CCN ở tỉnh Quảng Ngãi chưa nhiều, chỉ đi sâu vào nghiên cứu
tập trung các KCN. Đồng thời, chưa tập trung làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh đối với phát triển K,CCN từ khi tách tỉnh đến nay. Những công
trình này là những tài liệu có giá trị để tác giả tiếp cận, chắt lọc thông tin và số
liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu về Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo
phát triển K,CCN từ năm 2005 đến năm 2015.
Từ các nhóm công trình nghiên cứu trên cho thấy, nhiều tác giả đã quan

tâm nghiên cứu về K,CCN nói chung, phát triển K,CCN ở tỉnh Quảng Ngãi
nói riêng. Các công trình khoa học đã có những cách tiếp cận khác nhau để
lý giải cho tính tất yếu phát triển K,CCN; khẳng định vai trò của K,CCN
trong chiến lược phát triển kinh tế , đẩy mạnh CNH,HĐH ở nước ta và đề
xuất nhiều giải pháp có tính khả thi theo góc độ tiếp cận của từng ngành

khoa học, nhằm phát triển K,CCN tương xứng với tiềm năng, lợi thế của

7


từng địa phương. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều thống

nhất nhận định về đặc điểm, lợi thế của mỗi địa phương trong xây dựng, phát
triển các K,CCN. Đánh giá về thực trạng, vai trò, hiệu quả, tác động và ảnh
hưởng mạnh mẽ của K,CCN đối với sự phát triển KT - XH. Những công trình
đó là tài liệu có giá trị quan trọng làm cơ sở để tác giả tham khảo, kế thừa, phát
triển trong triển khai nghiên cứu luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình
nghiên cứu nào đi sâu vào quá trình lãnh đạo phát triển K,CCN của Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2005 đến năm 2015. Vì vậy đề tài là công trình nghiên

cứu độc lập của tác giả không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã
được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi phát triển
K,CCN từ năm 2005 đến năm 2015. Nhận xét thành tựu, hạn chế và rút ra những
kinh nghiệm để vận dụng lãnh đạo phát triển K,CCN ở địa phương trong những
năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến quá trình Đảng
bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển K,CCN ở địa phương.
- Trình bày chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi trong
quá trình lãnh đạo phát triển K,CCN ở địa phương từ năm 2005 đến năm 2015.
- Nhận xét thành tựu, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân và đúc rút ra những
kinh nghiệm từ quá trình của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lãnh đạo phát triển K,CCN
trong những năm 2005 - 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi phát triển K,CCN (2005 - 2015).
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung
8


Nghiên cứu về chủ trương của Đảng bộ và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi về phát triển K,CCN (2005 - 2015)
Về thời gian
Đề tài giới hạn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến
năm 2015 là thời kỳ bắt đầu nhiệm kỳ khóa XVII (2005 - 2010) và kết thúc
nhiệm kỳ XVIII (2011 - 2015) của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi.

Về không gian
Đề tài tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ Quảng Ngãi đối
với các K,CCN trên địa bàn của tỉnh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp luận sử học mác xít
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là chủ yếu.
Ngoài ra đề tài còn áp dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê, khảo sát thực địa, chuyên gia để làm rõ từng vấn đề cụ thể của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài bước đầu cung cấp một cách hệ thống quá trình lãnh đạo phát
triển KCCN của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2005 đến năm 2015. Đánh
giá thành tựu, hạn chế, nêu ra những kinh nghiệm và giải pháp, góp phần xây
dựng cơ sở cho công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về phát triển K,CCN
trong giai đoạn tiếp theo.
Đề tài là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu phát triển K,CCN cho
các địa phương và công tác tuyên truyền, giáo dục trong tỉnh Quảng Ngãi.

9


Đồng thời làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy môn lịch sử
Đảng nói chung và lịch sử Đảng bộ địa phương nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NGÃI
PHÁT TRIỂN KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP (2005 - 2015)

1.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi phát triển khu, cụm công nghiệp (2005 - 2010)
1.1.1. Những nhân tố tác động đến quá trình phát triển khu, cụm
công nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi (2005 - 2010)
* Khái niệm, vị trí, vai trò của K,CCN đối với phát triển KT - XH của
tỉnh Quảng Ngãi
Theo Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03
năm 2008 quy định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế thì khái niệm về
KCN được hiểu như sau:
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng
chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN,
gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ.
CCN là sự tập trung về vị trí địa lý của các ngành công nghiệp nhằm tận
dụng các cơ hội qua liên kết địa lý. Các công ty trong CCN sẽ chia sẻ các yêu
cầu và các mối quan hệ bên trong với nhà cung cấp và khách hàng. Các mối
quan hệ bên trong công ty yêu cầu các dịch vụ bổ sung từ các nhà tư vấn, đào
tạo và huấn luyện, các tổ chức tài chính, các công ty chủ chốt. CCN sẽ tạo ra
lực lượng lao động, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ chất lượng cao, kết nối quan
hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, các
quỹ hỗ trợ và các bên hữu quan.

Trong chủ trương chung của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước, việc phát triển các KCCN giữ vai trò quan trọng trong phát triển KT XH. Do đó, các địa phương trong cả nước luôn tập trung đầu tư phát triển

11


K,CCN phù hợp với điều kiện sẵn có, phát huy thế mạnh của mình. Không nằm
ngoài xu thế phát triển đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi chủ trương tập trung phát
triển K,CCN nhằm mục đích phát triển sản xuất công nghiệp, kêu gọi vốn đầu
tư nước ngoài, tiếp thu KH,CN. Học tập kinh nghiệm và hình thành thói quen,
phương pháp quản lý sản xuất tiên tiến, sử dụng nguyên, nhiên vật liệu và lực
lượng lao động tại chỗ, tạo việc làm mới và hỗ trợ giải quyết các vấn đề KT XH của những vùng lạc hậu góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân trong tỉnh. Việc phát triển K,CCN còn là cầu
nối hội nhập, hợp tác giữa các tỉnh trong nước và quốc tế.
Phát triển K,CCN góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp thô sơ lạc
hậu trở thành một tỉnh công nghiệp tương đối hiện đại và hiện đại, năng suất
lao động tăng cao. Cùng với đó, thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của
tỉnh theo hướng đồng bộ, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.
Đầu tư phát triển K,CCN có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình
CNHHĐH của tỉnh. Là một tỉnh thuần nông, cơ sở HTKT kém phát triển, yếu
tố con người chưa được phát huy toàn diện. Do đó để phát triển kinh tế đòi
hỏi cần phải nghiên cứu xây dựng các K,CCN hợp lý nhằm thu hút đầu tư về
vốn, KH,CN, nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được mục tiêu của
sự nghiệp CNH,HĐH của tỉnh trong những năm tiếp theo.
* Điều kiện tự nhiên và xã hội tác động đến phát triển K,CCN của
tỉnh Quảng Ngãi
Điều kiện tự nhiên
Là tỉnh nằm ở duyên hải Nam Trung bộ, Quảng Ngãi trải dài từ
14°32′ đến 15°25′ vĩ Bắc, từ 108°06′ đến 109°04′ kinh Đông, tựa vào dãy

núi Trường Sơn hướng ra biển Đông với chiều dài bờ biển 130 km, phía
bắc giáp tỉnh Quảng Nam với chiều dài đường địa giới 98 km, phía nam
giáp tỉnh Bình Định với chiều dài đường địa giới 83 km, phía tây giáp
tỉnh Kon Tum với chiều dài đường địa giới 79 Km, phía đông giáp biển Đông.

12


Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà
Nội 883 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 838 km về phía
Nam. Có đường quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất chạy qua tỉnh; Quốc
lộ 24 nối Quảng Ngãi với Kon Tum và Hạ Lào, đây là tuyến đường quan
trọng trong quan hệ kinh tế văn hóa giữ Duyên hải và Tây Nguyên.
Địa hình Quảng Ngãi có đặc điểm chung là núi lấn sát biển, địa hình
có tính chuyển tiếp từ đồng bằng ven biển ở phía Đông đến địa hình miền
núi ở phía Tây. Miền núi chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên toàn tỉnh,
đồng bằng nhỏ hẹp chiếm 1/4 diện tích tự nhiên. Cấu tạo địa hình của tỉnh
gồm đá magma xâm nhập, phun trào. Trên bình diện tự nhiên địa hình
Quảng Ngãi phân theo 2 hướng chính: hướng kinh tuyến và hướng vĩ tuyến.
Quảng Ngãi nằm trong vùng khí hậu miền Trung Trung bộ có 2 mùa
chính là mùa đông và mùa hè. Vào mùa đông, thời tiết ít lạnh, nhiệt động
trung bình 19ºc, vào mùa hè nhiệt cao khá đồng đều nhiệt động trung bình
không vượt quá 28ºc. Lượng mưa trung bình năm 2.195 mm, mùa mưa bắt
đầu từ tháng 8, kết thúc vào tháng 1 năm sau. Là vùng có độ ẩm không
khí cao trung bình 85%, giờ nắng từ 1.800-2000h/năm.
Theo kết quả tổng kiểm kê đất đai năm 2004, Quảng Ngãi có tổng diện
tích 513.688,14 ha [4. tr,36]. Trong đó, đất nông nghiệp có 101.535,39 ha
(chiếm 19,76% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh); đất lâm nghiệp 150.456,72
ha (chiếm 29,28%); đất chuyên dùng 21.720,45 ha (4,22%); đất ở đô thị
970,11 ha (0,18%); đất ở nông thôn 5.879,45 ha (1,14%) còn lại là đất chưa

sử dụng có 233.126,10 ha (chiếm 45,38%).
Tiềm năng đất chưa sử dụng còn nhiều. Đây là địa bàn để phân bổ các
cơ sở công nghiệp, phát triển sản xuất nông - lâm - nghiệp. Dự kiến có thể
khai thác thêm trong quỹ đất chưa sử dụng này khoảng 80 nghìn ha, trong đó
trên đất bằng khoảng 6,5 nghìn ha, trên đất đồi núi khoảng 73 nghìn ha, trên
vùng mặt nước khoảng 0,5 nghìn ha.

13


Rừng Quảng Ngãi là kho tài nguyên phong phú về lâm sản với nhiều
loại gỗ quý hiếm như: lim, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Rừng Quảng
Ngãi trong những năm gần đây được bảo tồn và trồng mới các loại cây công
nghiệp lấy gỗ như keo, bạch đàn, thông là nguồn nguyên liệu cho ngành công
nghiệp sản xuất giấy, các làng nghề của tỉnh
Khoáng sản ở Quảng Ngãi rất phong phú về chủng loại với trữ
lượng tương đối lớn như: sắt, đồng, nhôm, arsen, wolfram, molybden,
vàng; kim loại hiếm; phi kim loại vật liệu xây dựng, nước khoáng nóng.
Tài nguyên khoáng sản là nguồn nguyên liệu trực tiếp cho các hoạt động
khai thác, chế biến của các ngành công nghiệp ở tỉnh, phục vụ nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
Biển Quảng Ngãi có thềm lục địa tương đối hẹp, vùng biển ven bờ nằm
bên vùng nước sâu của trũng biển Đông. Biển Quảng Ngãi có ngư trường
rộng lớn. Nguồn thủy sản biển bao gồm các cá tầng nổi, cá tầng đáy và các
loại giáp xác, thân mềm như: cua, ghẹ, tôm hùm, mực ống, mực nang....các
loại thủy sản biển là thế mạnh của vùng biển Quảng Ngãi với trữ lượng trung
bình khoảng 68.000 tấn, sản lượng cho phép khai thác trung bình hàng năm
khoảng 27.000 tấn. Nguồn lợi thủy sản biển của tỉnh còn có các loài thực vật
biển như: rau cau chỉ vàng, rong sụn tập trung chủ yếu ven bờ đảo Lý Sơn,
hàng năm khai thác ước tính hàng chục tấn.

Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 130 km bị chia cắt bởi cửa sông,
đầm phá ven biển, có nhiều đoạn giáp với vùng biển nước sâu nên thích hợp
xây dựng các cảng biển phục vụ phát triển giao thông đường biển, kinh tế
biển.
Tỉnh Quảng Ngãi có 6 cửa biển gồm: cửa Sa Cần, Sa Kỳ, Cổ Lũy, Cửa
Lở, Mỹ Á, Sa Huỳnh. Những cửa biển này đa số kín gió, nước sâu nên thuận
lợi cho phát triển các cảng biển. Trong đó, có cửa biển Sa Cần nằm trong địa

14


phận của Khu kinh tế Dung Quất và cửa Sa Huỳnh là cảng dịch vụ nghề cá
nên được tỉnh đầu tư nâng cấp mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Các điều kiện KT - XH
Từ khi tách tỉnh (7/1989), Quảng Ngãi có 14 đơn vị hành chính bao
gồm 1 thành phố và 13 huyện, cụ thể: 1 thành phố là thành phố Quảng Ngãi; 6
huyện miền núi bao gồm: Ba Tơ, Trà Bồng, Minh Long, Sơn Hà, Tây Trà,
Sơn Tây; 6 huyện đồng bằng bao gồm: Nghĩa Hành, Tư nghĩa, Bình Sơn, Sơn
Tịnh, Mộ Đức, Đức Phổ và 1 huyện đảo Lý Sơn.
Trong xây dựng và phát triển kinh tế trước năm 2005. Quá trình thực hiện
các chỉ tiêu KT - XH tính từ năm 1991 đến năm 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh từng bước được nâng lên. Sản lượng lương thực tăng ổn định. Công
nghiệp luôn được chú trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, hướng phát triển lên
niền núi để tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ đồng thời giảm
dần khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng. Tiêu biểu trong giai đoạn từ năm
2000 - 2005 GDP của tỉnh tăng bình quân 10,3%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng nhanh,
nông nghiệp, lâm nghiệp giảm đúng định hướng.
Cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư. Nhiều công trình, dự án lớn, các
tuyến đường liên xã liên huyện, giao thông nông thôn và hệ thống thủy lợi đã

được đầu tư thực hiện hoàn thành và đưa vào sử. Riêng hệ thống giao thông
đường bộ từ chỗ chỉ có hệ thống các tuyến đường chính của tỉnh được nâng
cấp sửa chữa, đến năm 2005 100% tuyến đường từ trung tâm các huyện đến
các xã đã được nhựa hóa, bê tông hóa.
Cùng với đường quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua tỉnh
Quảng Ngãi có chiều dài hơn 90 km chạy dọc theo chiều dài của tỉnh với 11
ga, trong đó ga chính là ga Quảng Ngãi, tuyến đường sắt chạy qua hầu hết các
huyện ven biển góp phần vận chuyển số lượng lớn hành khách và hàng hóa.

15


Về đường thủy, tỉnh Quảng Ngãi có điều kiện thuận lợi để phát triển cả
về đường thủy nội địa và đường biển. Với hệ thống sông phong phú, đường
bờ biển dài và các vịnh nước sâu rất thuận tiện cho tàu biển có trọng tải lớn.
Tỉnh đã đầu tư hoàn thiện như cảng biển nước sâu Dung Quất với lợi thế kín
gió, cách tuyến hàng hải quốc tế 90km, tuyến nội hải 30km và độ sâu từ 10 19m, Cảng Dung Quất đã được thiết kế với hệ thống cảng đa chức năng.
Ngoài ra còn có các cảng biển khác như cảng Sa Kỳ, Sa Cần, Mỹ Á, Bình
Châu.... Hệ thống đường thủy của tỉnh là yếu tố quan trọng trong vận chuyển
hàng hóa của tỉnh đến các địa phương khác trong cả nước và quốc tế.
Song song với đầu tư phát triển kinh tế. Tỉnh Quảng Ngãi luôn chú
trọng đến công tác xã hội, phát triển nguồn nhân lực, chăm lo đời sống sức
khỏe, văn hóa tinh thần cho nhân dân.
Dân số tỉnh Quảng Ngãi năm 2009 là 1.216.773 người [7, tr.27]. Toàn
tỉnh có khoảng 324.000 hộ gia đình, bình quân 3.75 nhân khẩu/hộ. Trong cơ
cấu dân số phân theo giới tính, nữ chiếm 50,7%, nam chiếm 49,3%; phân theo
độ tuổi, từ 0 - 59 tuổi chiếm khoảng 88,51%, chỉ tiêu này cho thấy đây là cơ
cấu dân số trẻ, riêng dân số dưới 15 tuổi chiếm 25,55%, đây là lực lượng lao
động dự trữ dồi dào đáp ứng nhu cầu lao động cho phát triển KT - XH của
tỉnh nói chung và các K,CCN nói riêng.

Từ năm 1999 đến năm 2010, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh được
nâng lên đáng kể. Nếu như năm 2005, có trên 26% lao động trong các ngành
kinh tế quốc dân qua đào tạo, thì đến năm 2009, tỷ lệ lao động qua đào tạo
chiếm trên 35%. Chất lượng giáo dục từ bậc mầm non đến phổ thông trên địa
bàn tỉnh trong những năm qua được nâng lên đáng kể. Tổng số học sinh các
bậc học đến trường bình quân đạt 98,4%, trong đó tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi
đến trường đạt 97,3%. Tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao
đẳng tương đối cao, đạt tỷ lệ bình quân khoảng 23% trên năm. Trong những
năm qua, việc làm trên địa bàn tỉnh tăng cao, bình quân mỗi năm giải quyết việc
làm trên 35.000 lao động. Trong đó, lao động chuyển dần từ nông nghiệp chuyển
sang công nghiệp và dịch vụ; đến nay, tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ chiếm
16


51%, Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị ngày càng
được nâng lên. Trong số lực lượng công chức viên chức toàn tỉnh có trên 50% có
trình độ đại học, sau đại học và 5,9% có trình độ cao cấp lý luận chính trị.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực văn hóa - xã hội luôn được quan tâm, y tế
được cải thiện, công tác QP,AN luôn được đảm bảo, giữ vững ổn định chính
trị xã hội. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Công tác dân tộc, tôn
giao luôn được quan tâm đúng mức.
Điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho
Quảng Ngãi mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng, đặc biệt là
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Tây Nguyên và cả nước; kích thích và
lôi kéo các ngành kinh tế và các địa phương trong tỉnh Quảng Ngãi phát
triển. Đồng thời, cũng đặt cho tỉnh cần thiết phát triển nhanh nền kinh tế nhất
là các ngành mũi nhọn theo thế mạnh đặc thù và các ngành kinh tế khác.
* Thực trạng phát triển K,CCN của tỉnh Quảng Ngãi trước năm 2005
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh Quảng Ngãi trong việc xây dựng và phát triển KCCN trên địa bàn

của tỉnh. Nhìn chung, trước năm 2005 thực trạng xây dựng phát triển KCCN
đạt được những thành tựu cơ bản sau:
Công tác lãnh đạo, cơ chế chính sách luôn tạo điều kiện để phát triển K,CCN
Nhận thức rõ vị trí vai trò của phát triển công nghiệp nói chung và
K,CCN nói riêng Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi luôn chú trọng, quan tâm công tác
lãnh đạo phát triển K,CCN trên địa bàn tỉnh. Là một tỉnh nghèo, nền kinh tế
của tỉnh sau đổi mới chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, khai thác thủy hải
sản, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục những hạn chế
trên, các cấp ủy Đảng đã có những nhận thức mới trong phát triển kinh tế, xác
định phát triển công nghiệp luôn là mũi nhọn, với các K,CCN là “đầu tàu”
kéo các ngành kinh tế khác của tỉnh đi lên. Với nhận thức đúng đắn đó, Đảng
bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo phát triển K,CCN thông qua các văn kiện Nghị

17


quyết Đại hội, Nghị quyết chuyên đề. Đồng thời, trong quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng phát triển K,CCN, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đã
có những, chính sách đúng đắn, thúc đẩy phát triển sản xuất.
Đầu tư, cải tiến đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng các K,CCN
Trước năm 2005, tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều doanh nghiệp chú trọng
đầu tư mua sắm thiết bị nhằm đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu, sản
phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Tuy còn nhiều khó
khăn nhưng nhiều doanh nghiệp trong các K,CCN đã mạnh dạn đầu tư cải tiến
công nghệ bước đầu đạt được kết quả khả quan. Nếu như trong giai đoạn từ năm
1995 đến năm 2000 các ngành công nghiệp của tỉnh chủ yếu là sản xuất theo
phương thức truyền thống, máy móc lạc hậu thì đến những năm 2001 - 2005
năng lực tiếp thu ứng dụng KH,CN của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
đã có sự phát triển tích cực, xuất hiện một số doanh nghiệp có năng lực tiếp
nhận, làm chủ công nghệ nhập ngoại. Cùng với việc đầu tư đổi mới thiết bị công

nghệ sản xuất, các doanh nghiệp công nghiệp đã chú trọng áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng quốc tế. Năm 2005, toàn tỉnh có 19 doanh nghiệp được cấp
chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000.
Các K,CCN có bước phát triển
Với chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
trong phát triển K,CCN trước năm 2005, cùng với sự đầu tư của Trung ương,
số lượng K,CCN trong tỉnh đã tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2005 Quảng
Ngãi đã có 3 KCN gồm: KCN Tịnh Phong, KCN Quảng Phú và KCN Dung
Quất. Trên cơ sở KCN Dung Quất được phát triển theo hướng hình thành một
khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, ngày 11 tháng 3 năm 2005 Thủ
tướng Chính phủ đã có quyết định số 50/2005/QĐ-TTg thành lập và ban hành
quy chế hoạt động của Khu Kinh tế Dung Quất.
Đối với CCN, tỉnh Quảng Ngãi đã quy hoạch và đầu tư 8 CCN trên địa
bàn các huyện, thành phố. Với mục tiêu khai thác hiệu quả các nguồn lực về
tài nguyên, lao động, vốn tài sản, kỹ thuật của từng địa bàn, tạo thuận lợi để

18


thu hút đầu tư trong và ngoài tỉnh, kể cả nguồn vốn của người dân sở tại. Bắt
đầu từ năm 2003, Quảng Ngãi đầu tư phát triển các CCN tại các địa phương
trong tỉnh, phân bố theo từng huyện, thành phố.
Sự phát triển của các K,CCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút số lượng lớn
vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến cuối năm 2005 KCN Dung Quất
đã thu hút 70 dự án được cấp phép và chấp thuận đầu tư, với tổng số vốn đăng
ký trên 2 tỉ USD (chưa kể vốn đầu tư của dự án Nhà máy Lọc dầu Dung
Quất). KCN Tịnh Phong và KCN Quảng Phú đã có 71 dự án đầu tư còn hiệu lực,
với tổng vốn đăng ký 1.438 tỷ đồng (riêng từ năm 2003 đến 2005 cấp phép cho 41
dự án). Đã có 51 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm

Để đáp ứng nguồn nhân lực tại chỗ cũng như thu hút nguồn nhân lực có
chất lượng cao cho các K,CCN của tỉnh. Đối với đào tạo nguồn nhân lực trực
tiếp cho sản xuất công nghiệp nói chung và K,CCN trong tỉnh nói riêng, tỉnh
“đã sắp xếp, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường, trung tâm dạy nghề,
hình thành Trường dạy nghề Dung Quất, nhờ đó loại hình, ngành và cơ cấu
nghề đào tạo được mở rộng, phù hợp với yêu cầu phát triển” [13, tr.32]. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề năm 2001 là 13,5% , năm 2005 tăng lên 18,7%.
Đối với thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao trong và ngoài tỉnh, Đảng
bộ và chính quyền các cấp đã có nhiều chính sách tiến bộ về tạo môi trường
làm việc, chính sách tiền lương. Đặc biệt, các K,CCN đã thu hút số lượng lớn
nhân lực tham gia vào quá trình sản xuất.
Đối với công tác đảm bảo QP,AN, việc phát triển các K,CCN của tỉnh
luôn được gắn kết chặt chẽ với QP,AN từ khâu quy hoạch đến triển khai xây
dựng, xem đó là hai nhiệm vụ song song không tách rời nhau. Thực tế cho
thấy các K,CCN là nơi thu hút nhiều lao động trong và ngoài tỉnh, làm nảy
sinh những vấn đề về xã hội. Do đó, tỉnh luôn quan tâm làm tốt công tác đảm
bảo an ninh trật tự, ổn định tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn. Đồng thời

19


trong nghiên cứu, khảo sát xây dựng kế hoạch, triển khai xây dựng các
K,CCN không làm ảnh hưởng đến thế trận phòng thủ mà còn góp phần tăng
cường sức mạnh phòng thủ của địa phương.
Trong gia đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 bên cạnh những kết quả đã
làm được, trong công tác lãnh đạo phát triển K,CCN trên địa bàn của tỉnh còn
có những mặt hạn chế.
Các KCN phát triển còn chậm, đến năm 2005 chỉ có 2 KCN là
KCN Quảng Phú và KCN Tịnh Phong đi vào hoạt động, còn các KCN
khác đang triển khai xây dựng, đồng thời các KCN còn thiếu bền vững,

chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Giá trị sản xuất còn chưa cao.
Các CCN chậm phát triển.
Những yếu tố quan trọng ảnh hướng đến kết quả thu hút đầu tư như
HTKT, tiện ích công nghiệp, thủ tục hành chính, trách nhiệm hỗ trợ và giúp đỡ
doanh nghiệp của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, nội dung, phương thức
của công tác xúc tiến đầu tư... chuyển biến chậm, nhiều mặt còn yếu kém.
Số lượng dự án đăng ký đầu tư vào các K,CCN tăng khá, nhưng phần lớn
triển khai xây dựng và đi vào sản xuất chậm, có dự án đầu tư kém hiệu quả. Đa
số các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, thiết bị, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh
tranh thấp. Chưa có nhiều doanh nghiệp sản xuất được những sản phẩm có khả
năng chi phối thị trường nội tỉnh và xâm nhập sâu vào các thị trường ngoài tỉnh;
khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp là rất thấp.
HTKT cho phát triển K,CCN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Việc
đầu tư phát triển hạ tầng các KCCN đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước,
chưa huy động từ các nguồn vốn khác. Nhìn chung, sự phát triển HTKT của
các K,CCN trên địa bàn tỉnh chưa đạt mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư ở các KCN còn
nhiều bất cập. Đời sống nhân dân các khu tái định cư nhìn chung chưa ổn
định, còn nhiều khó khăn.

20


Nguyên nhân hạn chế
Cũng như các tỉnh khác trong khu vực Trung trung bộ, Quảng Ngãi là
địa phương chịu nhiều thiên tai, bão lũ. Quảng Ngãi xây dựng, phát triển kinh
tế trong điều kiện khắc phục hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề. Là tỉnh có
điểm xuất phát thấp kinh tế kém phát triển, cơ sở HTKT còn lạc hậu, tiềm
năng thế mạnh chưa được khai thác và phát huy tốt.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp uỷ đảng đối với việc triển

khai, tổ chức thực hiện chủ trương của chính quyền các cấp chưa thường
xuyên, kịp thời. Nguồn vốn đầu tư của ngân sách tỉnh có hạn, nhưng các cấp,
các ngành chưa thực hiện được các biện pháp huy động mọi nguồn lực trong
toàn xã hội. Việc xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách khuyến khích
đầu tư còn chậm, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Đội ngũ cán bộ quản lý
và khoa học của tỉnh trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn yếu
về trình độ, năng lực, thiếu và chưa đồng bộ nên việc tham mưu và tổ chức
thực hiện chủ trương của tỉnh còn bất cập, thiếu chủ động.
* Chủ trương phát triển K,CCN của Đảng
Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của phát triển công nghiệp đối với nền
kinh tế đất nước, trên cơ sở những thành tựu đã đạt được tư duy về con đường
CNH,HĐH nói chung và công nghiệp nói riêng luôn được Đảng nghiên cứu bổ
sung và hoàn thiện. Để phát triển công nghiệp, Đảng có những chủ trương, chỉ
đạo sát đúng với yêu cầu, nhiệm vụ của từng địa phương trong cả nước. Tạo ra
nền tảng cho sự phát triển, tác động đến sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế theo
hướng công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao trong nền kinh tế.
Từ kết quả đạt được của kế hoạch 5 năm (2001 - 2005), sự phát triển
K,CCN trong cả nước có những tiến bộ vượt bật, đóng góp to lớn vào sự phát
triển của nền công nghiệp nước nhà. Trước những yêu cầu mới của tình hình KT XH, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã thông qua kế hoạch 5
năm (2006 - 2010) nhằm “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển

21


kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” [18, tr.186]. Đại hội đã có những chủ
trương và chính sách mới nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của các K,CCN.
Đại hội xác định: “Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công
nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc sản
xuất với đảm bảo nhà ở và các điều kiện sinh hoạt cho người lao động” [18,

tr.198]. Để hoàn thành được nhiệm vụ đó, Đại hội đặt ra yêu cầu khuyến khích
phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần
mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất
khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các KCN, khu chế xuất.
Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát
triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu,
sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu
tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Khẩn trương thu hút vốn trong nước và ngoài nước để đầu tư thực hiện
một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu, luyện kim,
cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách
hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút những chuyên gia giỏi, cao cấp của
nước ngoài và trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước để xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng nhất là sân bay
quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng
lưới cung cấp điện, HTKT ở các đô thị lớn. Phát triển năng lượng đi đôi với
công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Tập trung nguồn lực cho phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi
thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động như: Chế
biến nông - lâm - thuỷ sản, may mặc, giày dép, đồ gỗ gia dụng, cơ khí đóng

22


tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, cơ - điện tử, thiết bị
xây dựng, máy nông nghiệp, công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông
tin, sản xuất phần mềm.
Chủ trương và chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp nói chung

và K,CCN nói riêng đã thể hiện nhận thức của Đảng ta về vị trí vai trò của
K,CCN trong sự phát triển chung của nền kinh tế, ổn định chính trị xã hội. Với
chủ trương đúng đắn, các địa phương trong cả nước đã quán triệt và triển khai
thực hiện, đẩy mạnh nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng các K,CCN, các K,CCN
đã thực sự phát huy được thế mạnh, thu hút nguồn nhân lực, giải quyết lao
động tại chỗ, đóng góp tích cực vào sự phát triển của từng vùng, địa phương.
Những chủ trương của Đảng về phát triển K,CCN là cơ sở để Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để
phát triển K,CCN của tỉnh trong những năm 2005 - 2010.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi phát triển khu, cụm
công nghiệp (2005 - 2010)
Từ chủ trương của Đảng cùng với những thành tựu đã đạt được trong phát
triển công nghiệp trước năm 2005, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã chú trọng phát
triển K,CCN từ năm 2005 - 2010.
Quán triệt đường lối CNH,HĐH mà trực tiếp là chủ trương, chính
sách về phát triển công nghiệp được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng. Chủ trương phát triển K,CCN của Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2005 đến năm 2010 được thể hiện trong các văn
kiện, nghị quyết cụ thể như: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005 - 2010; Tỉnh uỷ khoá XVII đã ban hành
Nghị quyết số 02-NQ/TU “Về tăng cường sự lãnh đạo Đảng, phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn mới”.
* Mục tiêu

23


Mục tiêu tổng quát
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đặt ra mục tiêu tổng
quát về phát triển KCCN: Cùng với phát triển các thành phố, thị xã và Khu

kinh tế Dung Quất “các khu công nghiệp thực sự trở thành các trung tâm kinh
tế - văn hóa, có đóng góp quyết định vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, giải quyết lao động, tạo động lực thúc đẩy các
ngành, vùng kinh tế khác phát triển nhanh, bền vững” [13, tr.74]. Đồng thời
tập trung đầu tư phát triển CCN cùng với phát triển dịch vụ và thương mại
nhằm chuyển biến mạnh cơ cấu kinh tế nông thôn.
Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát về phát triển KCCN trên địa bàn của tỉnh
trong 5 năm (2005 - 2010). Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã xác định những mục
tiêu cụ thể cần đạt được như sau:
Các KCN chú trọng phát triển các ngành công nghiệp đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng trong nước và hướng mạnh vào xuất khẩu như: công nghiệp hóa
chất, cơ khí luyện kim và đóng tàu biển; khai thác mỏ và vật liệu xây dựng;
chế biến đường và sản phẩm sau đường; chế biển thủ hải sản, súc sản; sản
xuất hàng tiêu dùng; phát triển một số ngành công nghiệp phụ trợ.
Các CCN ở các địa phương, tập trung phát triển các ngành nghề sử dụng
tài nguyên, nguyên liệu và lao động tại chỗ như: sản xuất vật liệu xây dựng, da
giày, may mặc, chế biến nông, lâm, thủy sản; phục hồi và phát triển các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ truyền thống.
Coi trọng đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và
sản phẩm công nghiệp, tạo được nhiều mặt hàng chủ lực có sức cạnh tranh
cao đối với thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu.
* Nhiệm vụ giải pháp
Từ mục tiêu cụ thể, Đảng bộ tỉnh đã xác định những nhiệm vụ giải
pháp nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu đã xác định.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo
của các cấp uỷ đảng đối với nhiệm vụ phát triển K,CCN

24



“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ
đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận
thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp” [50, tr.11] về K,CCN của tỉnh trong giai đoạn mới; thấy được thời cơ,
điều kiện thuận lợi và xây dựng được niềm tin trong nhân dân.
Phát huy tính chủ động sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ
đảng, chính quyền. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, trước hết là tháo gỡ các vấn đề
về vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện
cơ chế quản lý, đẩy mạnh xúc tiến thu hút đầu tư.
Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chương
trình, kế hoạch về phát triển K,CCN đã được xác định.
Về tổ chức quản lý, cải cách hành chính.
Triển khai thực hiện về cải cách hành chính, làm chuyển biến căn bản
nhận thức về thực hiện chức năng quản lý, phục vụ doanh nghiệp của các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước và từng cán bộ, công chức.
Tổ chức thực hiện tốt các cơ chế quản lý và chính sách ưu đãi các KCN của
tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các cơ chế chính sách của tỉnh đã
ban hành, nhằm tạo bước chuyển biến đột phá về cải thiện môi trường đầu tư.
Tiếp tục “thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ
hành chính như: đăng ký kinh doanh, cấp phép đầu tư, các thủ tục cho vay,
cấp đất, giao đất, cho thuê đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng theo hướng
gọn nhẹ, đồng bộ, công khai, tạo thuận lợi nhất cho sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp” [50, tr.11].
Củng cố kiện toàn các cơ quan chuyên môn và đội ngũ cán bộ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về KCCN ở tỉnh, huyện, thành phố bảo đảm
việc nâng cao năng lực hoạch định cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện.
Về chính sách đầu tư:


25


Bằng nhiều hình thức, huy động và tập trung vốn cho phát triển công
nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn vay, vốn ODA, FDI, vốn từ
quỹ đất, vốn của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác.
Hằng năm phải có kế hoạch cân đối vốn từ ngân sách tỉnh để đầu tư
phát triển HTKT của K,CCN
Lựa chọn, ưu tiên đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng các CCN có điều
kiện phát triển nhanh để thu hút đầu tư, sớm đưa các doanh nghiệp đi vào sản
xuất kinh doanh, tạo ra giá trị sản xuất, đem lại nguồn thu cho ngân sách;
tránh tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả kinh tế thấp. Thực hiện cơ chế phối
hợp đầu tư theo hướng tỉnh hỗ trợ 40 - 50% vốn đầu tư hạ tầng các CCN của
huyện, thành phố; phần còn lại huyện và thành phố chủ động.
Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư
Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, coi đây là nhiệm vụ của các cấp,
các ngành, của cả hệ thống chính trị, của từng cán bộ đảng viên và nhân dân.
Kiện toàn tổ chức xúc tiến đầu tư của tỉnh theo hướng một đầu mối quản lý,
có quy chế, chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể. Xúc tiến đầu tư phải bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất, toàn diện trong việc cung cấp thông tin, kêu
gọi đầu tư bằng nhiều hình thức nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển K,CCN
Thực hiện tốt chủ trương phát triển nguồn nhân lực. “Có chính sách
và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, thu hút để xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi,
chuyên nghiệp và năng động đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trên lĩnh
vực công nghiệp. Đào tạo đội ngũ quản lý doanh nghiệp trẻ, đáp ứng yêu
cầu của các nhà đầu tư” [50, tr.13]. Đặc biệt chú trọng đào tạo công nhân
kỹ thuật, đào tạo các ngành nghề thủ công mỹ nghệ cho lao động nông
nhàn, gắn với các dự án, góp phần giải quyết việc làm. Phấn đấu nâng tỷ lệ
lao động qua đào tạo đến năm 2010 đạt 28 - 30%.

Triển khai ứng dụng KH,CN và bảo vệ môi trường:

26


×