Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

phân tích giá trị sản xuất theo chỉ tiêu sử dụng máy móc thiết bị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.59 KB, 17 trang )

PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ SẢN XUẤT CỦA DOANH NGHIỆP THEO CÁC
CHỈ TIÊU SỬ DỤNG MÁY MÓC THIẾT BỊ.
I.
_

Mục đích ý nghĩa:
1.1.
Mục đích:
Trong doanh nghiệp ngoài nhân lực, máy móc thiết bị là yếu tố quyết định đến việc
doanh nghiệp có hoàn thành hay không hoàn thành chỉ tiêu giá trị sản xuất. Mục
đích của việc phân tích này là đánh giá tình hình thực hiện giá trị sản xuất theo các
chỉ tiêu sử dụng máy móc thiết bị, xác định nhu cầu về máy móc thiết bị trong tời
gian tới và đề xuất các kiến nghị về công tác bảo quản mua sắm nâng cấp máy móc

_

thiết bị.
Qua phân tích để xem xét việc sử dụng các yếu tố về máy móc thiết bị ảnh hưởng tới

_

giá trị sản xuất của doanh nghiệp như thế nào.
Qua phân tích đánh giá tình hình biến động về số lượng máy móc thiết bị, tình hình
bố trí máy móc thiết bị, nguyên nhân của sự biến động đó, từ đó có biện pháp sử

_

dụng hợp lí các máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp.
Qua phân tích, đánh giá tình hình quản lí, sử dụng thời gian khai thác của máy móc
thiết bị, tình hình năng suất giờ của một máy móc thiết bị trong doanh nghiệp. Trên
cơ sở dó các nhà quản lí sẽ có biện pháp khai thác hiệu quả, nâng cao năng suất sử





dụng của máy móc thiết bị tại doanh nghiệp của mình.
1.2.
Ý nghĩa:
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển
thì các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để đạt được kết quả cao nhất thì doanh
nghiệp cần phải xác định được phương hướng,mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử
dụng các điều kiện có sẵn về nguồn nhân lực, máy móc thiết bị. Muốn vậy các doanh
nghiệp cần nắm vững các nhân tố, các nguyên nhân làm ảnh hưởng tới giá trị sản
xuất đó là các máy móc thiết bị, đây là một phần quan trọng trong doanh nghiệp. Nó
phản ánh cơ sở vật chất kĩ thuật,năng lực hiện có cũng như tiến bộ kĩ thuật đã đạt


được, năng lực này thường xuyên có sự thay đổi nếu chỉ biết tăng cường cơ sở vật


chất kĩ thuật mà không biết quản li, sử dụng tốt sẽ gây lãng phí rất lớn.
Vì vậy ta phải tiến hành phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị, thong qua
việc phân tích thấy rõ được những ưu, nhược điểm trong việc đầu tư vốn xây dựng



cơ bản để gia tăng giá trị sản xuất.
Đồng thời việc nghiên cứu còn giúp cho người quản lí thấy rõ những lãng phí hay
những tiềm năng chưa khai thác hết của máy móc, thiết bị từ đó có những biện pháp
khắc phục, khai thác tốt hơn, triệt để hơn. Đồng thời có cơ sở quyết định cho việc
đầu tư phù hợp với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.



II.

Viết phương trình kinh tế:
Gọi Gsx là giá trị sản xuất (103 đồng)
− là số máy móc bình quân trong kỳ (chiếc)
− là số ngày làm việc bình quân (ngày/chiếc)
− là số giờ làm việc bình quân (giờ/ngày)
− h là năng suất giờ bình quân (103đồng/giờ)

→ Phương trình kinh tế: Gsx= ...h
III.

Xác định đối tượng phân tích:

Gọi Gsx0 là giá trị sản xuất kì gốc:Gsx0= 0.0.0.h0 = 96.876.668(103đ)
Gọi Gsx1 là giá trị sản xuất kì nghiên cứu:
Gsx1= 1.1.1.h1= 81.916.938(103đ)

→ Đối tượng phân tích: ∆Gsx= Gsx1- Gsx0= -14.959.730(103đ)
IV.

Lập bảng phân tích:


BẢNG PHÂN TÍCH CHỈ TIÊU DOANH THU THEO CHỈ TIÊU SỬ DỤNG MÁY MÓC THIẾT BỊ

Đơn vị

Kỳ gốc


1

Số máy móc
bình quân có
trong kỳ

Chiếc

127

125

98,43

-2

-1.525.212

-1,57

2

Số ngày làm
việc bình quân

Ngày/
chiếc

218


226

103,67

8

3.499.540

3,61

3

Số giờ làm việc
bình quân

Giờ/
Ngày

6,4

6,3

98,44

-0,1

-1.544.540

-1,59


4

Năng suất giờ
bình quân

h

103Đ/
Giờ

546,74

460,27

84,18

-86,47

-15.389.113

-15,89

Gsx

103Đ

96.876.668

81.916.938


84,56

-14.959.730

Chỉ tiêu

Tổng giá trị sản xuất

Sinh viên: Đào Ngọc Anh
Mã sinh viên: 57918
Lớp: KTN55-ĐH1

So sánh
(%)

Chênh lệch
(103Đ)

Mức độ ảnh hưởng→Gsx

Kỳ nghiên
cứu

STT


hiệu

GVHD: Nguyễn Kim Loan


Tuyệt đối
(103Đ)

Tương đối
(%)


V.

Tiến hành phân tích:
4.1. Đánh

giá chung:

Qua bảng số liệu phân tích trên, ta thấy chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất của doanh
nghiệp đã giảm, cụ thể: ở kỳ gốc tổng giá trị sản xuất là 96.876.668(10 3 Đ); đến kỳ
nghiên cứu tổng giá trị sản xuất là 81.916.938(10 3 Đ). Như vậy, trong kỳ nghiên cứu,
tổng giá trị sản xuất của công ty giảm 14.959.730 tương ứng đạt 84,56% so với kỳ gốc.
Sự biến động giá trị sản xuất như trên do 4 nhân tố: số máy móc bình quân, số
ngày làm việc bình quân, số giờ làm việc bình quân, năng suất giờ bình quân. Trong
đó: chỉ tiêu số máy móc bình quân, số giờ làm việc bình quân, năng suất giờ bình quân
làm giảm giá trị sản xuất, chỉ tiêu số ngày làm việc bình quân làm tăng giá trị sản xuất.
Chỉ tiêu làm giảm giá trị sản xuất nhiều nhất là năng suất giờ bình quân. Do năng
suất giờ bình quân kỳ nghiên cứu giảm 86,47 (10 3 đ/giờ) so với năng suất giờ bình quân
kỳ gốc. Chỉ tiêu này làm giá trị sản xuất giảm 15.389.113 (10 3 đ), tương ứng giảm
15,89% so với giá trị sản xuất kì gốc.
Chỉ tiêu số máy móc bình quân làm giảm giá trị sản xuất do số máy móc bình
quân kì nghiên cứu giảm 2(chiếc) so với số máy móc bình quân kì gốc, làm giá trị sản
xuất giảm 1.525.212 (103 đ), tương ứng giảm 1,57% so với giá trị sản xuất kì gốc.

Chỉ tiêu số giờ làm việc bình quân làm giảm giá trị sản xuất do số giờ làm việc
bình quân kì nghiên cứu giảm 0,1 (giờ/ngày) so với số giờ làm việc bình quân kì gốc.
Chỉ tiêu này làm giá trị sản xuất giảm 1.544.540 (10 3 đ), tương ứng giảm 1,59% so với
giá trị sản xuất kì gốc.


Chỉ tiêu duy nhất làm tăng giá trị sản xuất là số ngày làm việc bình quân. Do số
ngày làm việc bình quân kì nghiên cứu tăng 8(ngày/chiếc) so với kì gốc, làm giá trị sản
xuất tăng 3.499.540(103 đ), tương ứng tăng 3,61% so với giá trị sản xuất kì gốc.
4.2. Phân tích chi tiết:
4.2.1.
Chỉ tiêu số máy

móc bình quân trong kì:



Biến động kinh tế:



Số máy móc bình quân của doanh nghiệp tại kỳ gốc là 127 chiếc. Sang kỳ nghiên
cứu giảm còn 125 chiếc, đạt 98,43% tương ứng giảm 2 chiếc so với kỳ gốc. Do
vậy điều này làm giảm giá trị sản xuất của doanh nghiệp một lượng tuyệt đối là
1.525.212 (103 đ), tức là làm giảm 1,57% tổng giá trị sản xuất.



+


Nguyên nhân:

Sự biến động trên, có thể do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân 1: Do máy móc thiết bị quá cũ nát, lạc hậu, không thể vận hành
được nhưng doanh nghiệp vẫn chưa có đủ điều kiện về kinh tế để mua máy móc
mới thay thế khiến cho số máy móc bình quân trong kỳ giảm.

⇒Đây là nguyên nhân chủ quan tiêu cực.
+

Nguyên nhân 2: Do doanh nghiệp kí kết hợp đồng sản xuất những sản phẩm mới
đòi hỏi công nghệ hiện đại, tiên tiến nên những máy móc thiết bị lạc hậu không
được sử dụng do không phù hợp nên số máy móc bình quân trong kì giảm.

⇒Đây là nguyên nhân chủ quan tiêu cực.
+

Nguyên nhân 3: Do thời tiết ở kì nghiên cứu mưa nhiều dẫn đến ẩm ướt, làm cho
máy móc thiết bị nhanh bị ô xi hóa làm giảm tuổi thọ, hư hỏng nhanh hơn so với
tính toán của nhà quản lí nên khi hỏng hóc không kịp sửa chữa, thay thế làm cho
số máy móc bình quân trong kì giảm.


⇒Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.
+

Nguyên nhân 4: Ở kì nghiên cứu, doanh nghiệp đã kí kết hợp đồng đặt mua máy
móc thiết bị hiện đại từ nước ngoài, nhưng do công tác vận chuyển gặp rủi ro
ngoài ý muốn, nên việc bàn giao máy móc thiết bị chậm hơn so với dự kiến,


khiến cho số lượng máy móc bình quân trong kì giảm.
⇒Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.


Kết luận:

Trong 4 nguyên nhân phân tích trên:





Nguyên nhân 1 là nguyên nhân chính chủ quan tiêu cực.
Nguyên nhân 4 là nguyên nhân chính khách quan tiêu cực.

Biện pháp cho nguyên nhân chính chủ quan (NN1):
• Chủ doanh nghiệp nên tính toán cẩn thận mức trích khấu hao của máy
móc thiết bị để sử dụng một cách hợp lý. Qua đó, biết được máy móc
nào đã khấu hao hết giá trị sử dụng, máy móc nào còn giá trị sử dụng để


có hướng giải quyết hợp lý.
Các nhà quản lí cần theo dõi sát sao từng loại máy móc thiết bị, ứng với
tình hình kinh tế của công ty để có thể sửa chữa, thay thế kịp thời và
vạch ra hướng đi tốt nhất cho doanh nghiệp không làm ảnh hưởng đến

4.2.2.




quá trình sản xuất.
Chỉ tiêu số ngày làm việc bình quân:
Biến động kinh tế:

Số ngày làm việc bình quân tại kì gốc là 218 (ngày/chiếc). Sang kì nghiên cứu là:
226 (ngày/chiếc), tăng 8 (ngày/chiếc) tương ứng 103,67% so với kì gốc. Do vậy
điều này làm tăng giá trị sản xuất của doanh nghiệp lên một lượng tuyệt đối là
3.499.540 (103Đ), tức là làm tăng 3,61% tổng giá trị sản xuất.




Nguyên nhân:

Sự biến động tích cực trên, có thể do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân 1: Nhận thấy máy móc thiết bị là nguồn lực quan trọng, là nhân tố sản


+

xuất cốt lõi giúp cho doanh nghiệp hoàn thành được chỉ tiêu sản xuất đề ra, nên ở
kì gốc doanh nghiệp đã tập trung hơn vào việc nâng cấp, tu sửa, bảo dưỡng máy móc
thiết bị, làm ảnh hưởng nhiều đến số ngày làm việc của máy móc, khiến cho giá trị
sản xuất bị giảm xuống đáng kể. Do vậy rút kinh nghiệm kì trước, trong kì nghiên
cứu doanh nghiệp vẫn quan tâm đến việc bảo hành máy móc nhưng đã cố gắng đẩy
nhanh và đề ra những giải pháp tối ưu sao cho vừa đảm bảo máy móc hoạt động với

+

tình trạng tốt nhất, vừa đảm bảo số ngày làm việc của máy móc.

⇒Đây là nguyên nhân chủ quan tích cực.
Nguyên nhân 2: Ở kì gốc, nguyên vật liệu cung cấp cho quá trình sản xuất khan
hiếm do được nhập từ nước ngoài, làm cho việc vận hành máy móc bị gián đoạn,
máy móc thiết bị phải tạm ngừng hoạt động để chờ nguyên vật liệu. Đến kì nghiên
cứu, doanh nghiệp kí kết hợp đồng thu mua nguyên vật liệu ở trong nước, với chất
lượng tương đương nên đã rút ngắn được thời gian vận chuyển, cung cấp nguyên vật
liệu đầy đủ cho máy móc hoạt động tốt nhất, nên số ngày làm việc bình quân tăng

+

lên.
⇒Đây là nguyên nhân chủ quan tích cực.
Nguyên nhân 3: Trong kì gốc do hệ thống điện lưới còn kém, tình trạng cắt điện
luân phiên để tu bổ, nâng cấp đường điện đã khiến cho doanh nghiệp phải đóng cửa
tạm ngừng sản xuấttrong một vài ngày. Nhưng sang đến kì nghiên cứu, hệ thống
điện lưới đã ổn định, đảm bảo cung cấp đầy đủ điện cho quá trình sản xuất, máy móc

+

hoạt động không bị gián đoạn nên số ngày làm việc bình quân cũng tăng lên.
⇒Đây là nguyên nhân khách quan tích cực.
Nguyên nhân 4: Trong kì gốc rơi vào một số ngày nghỉ lễ của Nhà nước nên doanh
nghiệp cũng được nghỉ theo quy định của pháp luật. Nhưng ở kì nghiên cứu số ngày


nghỉ lễ, nghỉ cuối tuần ít hơn nên số ngày làm việc bình quân cũng nhiều hơn so với
kì gốc.
⇒Đây là nguyên nhân khách quan tích cực.




Kết luận:

Trong 4 nguyên nhân phân tích trên:





Nguyên nhân 1 là nguyên nhân chính chủ quan tích cực.
Nguyên nhân 3 là nguyên nhân chính khách quan tích cực.

Biện pháp cho nguyên nhân chính chủ quan (NN1) :
Máy móc thiết bị là nguồn sống của doanh nghiệp, máy móc có hoạt động tốt, có

bền thì sản phẩm sản xuất ra mới hoàn hảo, đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng và
nhu cầu của thị trường nên việc thường xuyên kiểm tra, tu sửa, nâng cấp là rất tốt. Tuy
nhiên các nhà quản lí cần tính toán thật cẩn thận, có kế hoạch, chuẩn bị kĩ càng cho
công tác giám định, thẩm định chất lượng máy móc, nên tận dụng những ngày nghỉ lễ,
nghỉ cuối tuần để sửa chữa, bảo hành và cố gắng đẩy nhanh hơn nữa quá trình này. Có
như vậy mới không làm ảnh hưởng tới số ngày làm việc của máy móc, nâng cao được
chất lượng sản phẩm.

4.2.3.

Chỉ tiêu số giờ làm việc bình quân:





Biến động kinh tế:



Số giờ làm việc bình quân tại kì gốc là 6,4(giờ/ngày). Sang kì nghiên cứu là:
6,3(giờ/ngày), giảm 0,1 (giờ/ngày) tương ứng 98,44% so với kì gốc. Do vậy
điều này làm giảm giá trị sản xuất của doanh nghiệp xuống một lượng tuyệt
đối là 1.544.540 (103Đ), tức là làm giảm 1,59% tổng giá trị sản xuất.



Nguyên nhân:

Sự biến động trên có thể do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân 1: Do nguồn vốn còn hạn hẹp nên doanh nghiệp chưa lắp đặt các thiết


+

bị làm mát cho máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của mình mà đặc thù, tính
chất riêng của máy móc rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết nhất là nhiệt độ
cao. Ở kì nghiên cứu, thời tiết đã chuyển sang mùa hè nóng bức mà không có thiết bị
làm mát nên máy móc phải ngừng hoạt động vì quá nóng làm giảm số giờ làm việc
bình quân.

+

Đây là nguyên nhân chủ quan tiêu cực.

Nguyên nhân 2: Ở kì nghiên cứu, doanh nghiệp chủ động giảm số giờ làm việc của

máy móc thiết bị trong ngày xuống nhằm giảm lượng khí thải của máy móc, thiết bị
gây ra làm ô nhiễm môi trường. Mặc dù việc này góp phần bảo vệ môi trường, thực
hiện cam kết của doanh nghiệp trong việc góp phần bảo vệ môi trường song lại có

+

những tác động ảnh hưởng không tốt đến giá trị sản xuất của doanh nghiệp.
⇒ Đây là nguyên nhân chủ quan tiêu cực.
Nguyên nhân 3: Do đặc thù của một số loại máy móc, thiết bị của doanh nghiệp cần
phải đặt ở ngoài trời để tiện cho quá trình sản xuất một số công đoạn, nên khi thời
tiết xấu như mưa, gió, bão...thì không thể sử dụng được do vậy đã làm giảm thời
gian vận hành của máy móc.
⇒ Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.


+

Nguyên nhân 4: Do đội ngũ nhân viên chưa lành nghề, trình độ thấp, không sử dụng
thành thạo máy móc thiết bị nên khi gặp sự cố đã tốn rất nhiều thời gian để khắc
phục làm cho số giờ làm việc bình quân của máy móc giảm.
⇒ Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.






Kết luận:

Trong 4 nguyên nhân phân tích trên:

Nguyên nhân 2 là nguyên nhân chính chủ quan tiêu cực.
Nguyên nhân 3 là nguyên nhân chính khách quan tiêu cực.


Biện pháp cho nguyên nhân chính chủ quan (NN2):

Có thể nói mục đích hướng đến việc bảo vệ môi trường sinh thái của doanh
nghiệp là rất tốt, cần tiếp tục duy trì và phát huy ý thức đó hơn nữa. Tuy nhiên doanh
nghiệp nên suy xét kĩ lưỡng , lập kế hoạch dài hạn để tìm cho mình một hướng đi lâu
dài, ổn định hơn. Bởi không phải lúc nào nhu cầu từ thị trường, từ phía khách hàng
cũng cho phép doanh nghiệp giảm số giờ làm việc chỉ để bảo vệ môi trường, như vậy
vừa gây lãng phí thời gian vừa không đáp ứng nguồn cung hàng hóa. Do vậy thay vì
giảm số giờ làm việc, doanh nghiệp có thể đầu tư để để ngoài đáp ứng việc nâng cấp, bổ
sung những trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc sản xuất thì cũng cần bổ sung hệ
thống xử lí chất thải, khí thải trước khi đưa ra môi trường. Có như vậy doanh nghiệp
mới có thể vừa đảm bảo số giờ làm việc để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vừa có thể
bảo vệ môi trường xanh-sạch-đẹp một cách lâu dài và bền vững nhất.


4.2.4.



Chỉ tiêu năng suất giờ bình quân:

Biến động kinh tế:

Năng suất giờ bình quân tại kì gốc là 546,74(10 3 Đ /giờ). Sang kì nghiên cứu là:
460,27(103 Đ /giờ), giảm 86,47(103 Đ/giờ) so với kì gốc. Điều này làm giảm giá trị
sản xuất của doanh nghiệp một lượng tuyệt đối là 15.389.113 (10 3Đ), tức là làm

giảm 15,89% tổng giá trị sản xuất. Đây là nhân tố giảm nhiều nhất, do đó cũng ảnh
hưởng nhiều nhất đến giá trị sản xuất.




Nguyên nhân:

Sự biến động tiêu cực trên có thể do những nguyên nhân sau:
+ Nguyên nhân 1: Do doanh nghiệp vẫn còn sử dụng một số máy móc thiết bị lạc
hậu ở một số bộ phận trong dây chuyền sản xuất không ăn khớp với các thiết bị
mới hiện đại hơn nên trong quá trình vận hành và sử dụng rất hay gặp trục trặc và
lỗi kĩ thuật làm giảm năng suất giờ bình quân.
⇒ Đây nguyên nhân chủ quan tiêu cực.
+

Nguyên nhân 2: Doanh nghiệp tuyển thêm nhân viên nhưng tay nghề vẫn còn
non nớt, chưa có kinh nghiệm nên vận hành máy móc thiết bị không đạt được
hiệu quả, hơn nữa còn gây ra hỏng hóc phải kiểm tra và khắc phục nên gây ảnh

+

hưởng không tốt tới năng suất giờ bình quân.
⇒ Đây là nguyên nhân chủ quan tiêu cực.
Nguyên nhân 3: Do thời tiết nóng lạnh thất thường nên một số công nhân bị cảm
và ốm đột xuất làm cho các nhà quản lí không kịp bố trí người thay thế dẫn đến
thiếu nhân lực vận hành máy móc làm ảnh hưởng đến năng suất giờ bình quân.
⇒ Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.



+

Nguyên nhân 4: Do trong kì nghiên cứu, một số máy móc phục vụ cho dây
chuyền sản xuất chính gặp trục trặc dù đã đem đi sửa chữa và bảo hành nhưng
không đạt được năng suất như trước nên làm giảm năng suất giờ bình quân.
⇒ Đây là nguyên nhân khách quan tiêu cực.


Kết luận:

Trong 4 nguyên nhân phân tích trên:



Nguyên nhân 2 là nguyên nhân chính chủ quan tiêu cực
Nguyên nhân 4 là nguyên chính khách quan tiêu cực
_


Biện pháp cho nguyên nhân chính chủ quan (NN2):
Doanh nghiệp cần tuyển dụng những công nhân có kinh nghiệm và tay



nghề để rút ngắn thời gian đào tạo.
Đối với công nhân mới, cần tổ chức các khóa đào tạo với đội ngũ đào tạo



có kinh nghiệm lâu năm để nâng cao tay nghề cho công nhân mới.

Tổ chức các cuộc thi tay nghề giỏi để công nhân học hỏi, giao lưu lẫn
nhau.


Kết luận:

VI.



Giá trị sản xuất của doanh nghiệp theo sử dụng máy móc thiết bị có sự thay

đổi rõ rệt qua hai kì, cụ thể: tại kì gốc giá trị sản xuất là 96.876.668(10 3 đ), tại kì
nghiên cứu là 81.916.938(103 đ), tương đương giảm 14.959.730(103 đ), đạt
84,56% so với kì gốc.
Sự thay đổi giá trị sản xuất của doanh nghiệp như trên là do 4 nhân tố: số máy
móc bình quân trong kỳ, số ngày làm việc bình quân, số giờ làm việc bình quân, năng
suất giờ bình quân, cụ thể là:


Số máy móc bình quân trong kỳ của doanh nghiệp tại kì gốc là 127 (chiếc), tại kỳ
nghiên cứu là 125 (chiếc), đạt 98,43% so với kỳ gốc, tương đương giảm 2(chiếc),
làm giá trị sản xuất giảm 1.525.212 (10 3 đ), tương ứng giảm 1,57% so với giá trị



sản xuất kì gốc.
Số ngày làm việc bình quân tại kì gốc là 218 (ngày/chiếc), tại kì nghiên cứu là
226( ngày/chiếc), đạt 103,67% so với kì gốc, tương đương tăng 8(ngày/chiếc),
làm giá trị sản xuất tăng 3.499.540(10 3 đ), tương ứng tăng 3,61% so với giá trị




sản xuất kì gốc.
Số giờ làm việc bình quân tại kì gốc là 6,4(giờ/ngày), tại kì nghiên cứu là:
6,3(giờ/ngày), đạt 98,43% so với kì gốc, tương đương giảm 0,1 (giờ/ngày), làm
giá trị sản xuất giảm 1.544.540 (103 đ), mức độ ảnh hưởng tương đối đến giá trị



sản xuất là 1,59%.
Năng suất giờ bình quân tại kì gốc là 546,74(10 3 đ /giờ), tại kì nghiên cứu là:
460,27(103 đ /giờ), đạt 84,18% so với kì gốc, tương đương làm giảm 86,47 (10 3
đ/giờ). Đây là nhân tố giảm nhiều nhất, do đó cũng ảnh hưởng nhiều nhất đến giá
trị sản xuất. Làm giá trị sản xuất giảm 15.389.113 (10 3 đ), mức độ ảnh hưởng
tương đối đến giá trị sản xuất là 15,89%.
Có sự biến động như vậy là do một số nguyên nhân chính bao gồm cả nguyên

nhân tích cực và tiêu cực sau:



1.

Nguyên nhân chính chủ quan tích cực:
Nhận thấy máy móc thiết bị là nguồn lực quan trọng, là nhân tố sản xuất cốt
lõi giúp cho doanh nghiệp hoàn thành được chỉ tiêu sản xuất đề ra nên ở kì
gốc doanh nghiệp đã tập trung hơn vào việc nâng cấp, tu sửa, bảo dưỡng máy
móc thiết bị làm ảnh hưởng nhiều đến số ngày làm việc của máy móc khiến
cho giá trị sản xuất bị giảm xuống đáng kể. Do vậy rút kinh nghiệm kì trước,

trong kì nghiên cứu doanh nghiệp vẫn quan tâm đến việc bảo hành máy móc
nhưng đã cố gắng đẩy nhanh và đề ra những giải pháp tối ưu sao cho vừa đảm
bảo máy móc hoạt động với tình trạng tốt nhất, vừa đảm bảo số ngày làm việc


2.

của máy móc.
Nguyên nhân chính chủ quan tiêu cực:
Do máy móc thiết bị quá cũ nát, lạc hậu, không thể vận hành được nhưng
doanh nghiệp vẫn chưa có đủ điều kiện về kinh tế để mua máy móc mới thay

3.

thế khiến cho số máy móc bình quân trong kỳ giảm.
Ở kì nghiên cứu, doanh nghiệp chủ động giảm số giờ làm việc của máy móc
thiết bị trong ngày xuống nhằm giảm lượng khí thải của máy móc, thiết bị gây
ra làm ô nhiễm môi trường. Mặc dù việc này góp phần bảo vệ môi trường,
thực hiện cam kết của doanh nghiệp trong việc góp phần bảo vệ môi trường
song lại có những tác động ảnh hưởng không tốt đến giá trị sản xuất của

4.

doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tuyển thêm nhân viên nhưng tay nghề vẫn còn non nớt, chưa có
kinh nghiệm nên vận hành máy móc thiết bị không đạt được hiệu quả, hơn
nữa còn gây ra hỏng hóc phải kiểm tra và khắc phục nên gây ảnh hưởng


1.


không tốt tới năng suất giờ bình quân.
Nguyên nhân chính khách quan tích cực:
Trong kì gốc do hệ thống điện lưới còn kém, tình trạng cắt điện luân phiên để
tu bổ, nâng cấp đường điện đã khiến cho doanh nghiệp phải đóng cửa tạm
ngừng sản xuất một vài ngày. Nhưng sang đến kì nghiên cứu hệ thống điện
lưới đã ổn định, đảm bảo cung cấp đầy đủ điện cho quá trình sản xuất, máy


móc hoạt động không bị gián đoạn nên số ngày làm việc bình quân cũng tăng

2.

lên.
Nguyên nhân chính khách quan tiêu cực:
Ở kì nghiên cứu doanh nghiệp đã kí kết hợp đồng đặt mua máy móc thiết bị
hiện đại từ nước ngoài nhưng do công tác vận chuyển gặp rủi ro ngoài ý muốn
nên việc bàn giao máy móc thiết bị chậm hơn so với dự kiến khiến cho số

3.

lượng máy móc bình quân trong kì giảm.
Do đặc thù của một số loại máy móc thiết bị của doanh nghiệp cần phải đặt ở
ngoài trời để tiện cho quá trình sản xuất một số công đoạn nên khi thời tiết
xấu như mưa, gió, bão...thì không thể sử dụng được do vậy đã làm giảm thời

4.

gian vận hành của máy móc.
Do trong kì nghiên cứu, một số máy móc phục vụ cho dây chuyền sản xuất

chính gặp trục trặc dù đã đem đi sửa chữa và bảo hành nhưng không đạt được
năng suất như trước nên làm giảm năng suất giờ bình quân.

Kiến nghị:

VII.

Để hoạt động xuất khẩu của công ty có hiệu quả hơn, công ty cần
phải thực hiện một số biện pháp sau:
Biện pháp thúc đẩy nguyên nhân chính chủ quan tích cực:
Máy móc thiết bị là nguồn sống của doanh nghiệp, máy móc có hoạt động tốt, có

1.

bền thì sản phẩm sản xuất ra mới hoàn hảo, đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng
và nhu cầu của thị trường nên việc thường xuyên kiểm tra, tu sửa, nâng cấp là rất
tốt. Tuy nhiên các nhà quản lí cần tính toán thật cẩn thận, có kế hoạch, chuẩn bị
kĩ càng cho công tác giám định, thẩm định chất lượng máy móc, nên tận dụng
những ngày nghỉ lễ, nghỉ cuối tuần để sửa chữa, bảo hành và cố gắng đẩy nhanh
hơn nữa quá trình này. Có như vậy mới không làm ảnh hưởng tới số ngày làm
việc của máy móc, nâng cao được chất lượng sản phẩm.


Biện pháp khắc phục nguyên nhân chính chủ quan tiêu cực:
Chủ doanh nghiệp nên tính toán cẩn thận mức trích khấu hao của máy móc thiết


2.

bị để sử dụng một cách hợp lý. Qua đó, biết được máy móc nào đã khấu hao hết

giá trị sử dụng, máy móc nào còn giá trị sử dụng để có hướng giải quyết hợp lý.
Các nhà quản lí cần theo dõi sát sao từng loại máy móc thiết bị, ứng với tình hình
kinh tế của công ty để có thể sửa chữa, thay thế kịp thời và vạch ra hướng đi tốt
3.

nhất cho doanh nghiệp không làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
Có thể nói mục đích hướng đến việc bảo vệ môi trường sinh thái của doanh
nghiệp là rất tốt, cần tiếp tục duy trì và phát huy ý thức đó hơn nữa. Tuy nhiên
doanh nghiệp nên suy xét kĩ lưỡng , lập kế hoạch dài hạn để tìm cho mình một
hướng đi lâu dài, ổn định hơn. Bởi không phải lúc nào nhu cầu từ thị trường, từ
phía khách hàng cũng cho phép doanh nghiệp giảm số giờ làm việc chỉ để bảo vệ
môi trường, như vậy vừa gây lãng phí thời gian vừa không đáp ứng nguồn cung
hàng hóa. Do vậy thay vì giảm số giờ làm việc, doanh nghiệp có thể đầu tư để để
ngoài đáp ứng việc nâng cấp, bổ sung những trang thiết bị hiện đại phục vụ cho
việc sản xuất thì cũng cần bổ sung hệ thống xử lí chất thải, khí thải trước khi đưa
ra môi trường. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể vừa đảm bảo số giờ làm việc
để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, vừa có thể bảo vệ môi trường xanh-sạch-đẹp

4.

một cách lâu dài và bền vững nhất.
Doanh nghiệp cần tuyển dụng những công nhân có kinh nghiệm và tay nghề để
rút ngắn thời gian đào tạo.
Đối với công nhân mới, cần tổ chức các khóa đào tạo với đội ngũ đào tạo có kinh
nghiệm lâu năm để nâng cao tay nghề cho công nhân mới.
Tổ chức các cuộc thi tay nghề giỏi để công nhân học hỏi, giao lưu lẫn nhau.




×