Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển của thời đại, của khoa học kỹ thuật và công nghệ, khi
Việt Nam đã gia nhập WTO thì nền kinh tế Việt Nam nói chung và Công nghiệp Việt
Nam nói riêng đang từng bước hoà nhập cùng sự phát triển của thế giới.
Tham gia tích cực thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là đến năm
2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước Công nghiệp, ngành Công nghiệp Hà Nội
đang góp một phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Hà Nội là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của đất nước. Từ năm
1997 đến nay, cơ cấu kinh tế của thành phố đang dịch chuyển theo hướng gia tăng tỷ
trọng công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp đã tăng đáng kể trong cơ cấu kinh tế trong vòng 15 năm qua. Sản xuất
công nghiệp đang ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của thành
phố.
Khu vực công nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá của Hà Nội. Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, chúng ta cần đánh giá được quá trình phát triển của
khu vực này thời gian qua.
Để nghiên cứu sâu hơn về thực trạng phát triển ngành công nghiệp Hà Nội
trong giai đoạn 1997-2007, đồng thời đưa ra một số kiến nghị giải pháp và dự đoán
cho các năm tiếp theo, em đã chọn đề tài: "Vận dụng một số phương pháp thống kê để
phân tích giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 1997-2007 và dự
đoán đến năm 2009".
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về công nghiệp và sản xuất công nghiệp.
Chương 2: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích giá trị sản xuất
Công nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 1997- 2007 và dự đoán đến năm 2009.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp Hà Nội trong giai đoạn từ 2008 - 2020.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Tuy đã hết sức cố gắng nhưng do thời gian và vốn kiến thức còn nhiều hạn chế,
chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được sự chỉ bảo của
các thầy, cô giáo để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn thạc
sỹ Chu Thị Bích Ngọc_ giảng viên khoa Thống kê, đại học Kinh tế Quốc dân và các cô
chú, anh chị trong phòng Thống kê Công nghiệp- Cục thống kê Hà Nội đã hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
CHƯƠNG 1
Khái quát chung về công nghiệp và sản xuất công nghiệp
1. Những vấn đề cơ bản về Công nghiệp
1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại Công nghiệp
1.1. Khái niệm về Công nghiệp
Công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn, ngành sản xuất cơ bản thuộc lĩnh vực
sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp, mỗi
ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Trên góc độ trình độ kỹ thuật và hình thức tổ
chức sản xuất, Công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái niệm khác nhau như:
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, Công nghiệp lớn và Công nghiệp vừa và nhỏ,
Công nghiệp quốc doanh và Công nghiệp ngoài quốc doanh.
Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, nó
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp là một tập hợp bao gồm
rất nhiều các ngành sản xuất khác nhau, với những đặc điểm sản xuất và công nghệ
được sử dụng cũng rất khác nhau.
1.2. Đặc điểm của Công nghiệp
- Công nghiệp là ngành được ứng dụng khoa học kỹ thuật công
nghệ cao vào sản xuất. Từ đây, nó có điều kiện phát triển sản phẩm, tăng tốc độ phát
triển khoa học- công nghệ; rồi lại áp dụng những thành tựu đó vào sản xuất. Nhờ vậy
lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác.
- Công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm làm chức năng
tư liệu lao động cho các ngành. Do đó công nghiệp có vai trò gần như quyết định trong
việc cung cấp các yếu tố đầu vào xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành kinh
tế quốc dân.
- Công nghiệp là ngành hầu như không chịu ảnh hưởng, tác động
bởi điều kiện tự nhiên. Do đó nó không phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên
- Năng suất lao động của ngành công nghiệp thường cao hơn các
ngành khác do có lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển, do được trang bị
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, do có trình độ quản lý, tổ chức sản xuất hoàn thiện
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
nên đã hình thành một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, có tính tổ chức và
kỷ luật cao.
- Hiệu quả sản xuất của ngành công nghiệp là cao do được ứng
dụng khoa học công nghệ hiện đại làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại, chi phí sản
xuất giảm, chất lượng sản phẩm không ngừng nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của xã hội.
1.3. Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Ngành công nghiệp có vai trò rất lớn và mang ý nghĩa quyết định đối với toàn
bộ quá trình phát triển kinh tế -xã hội của đất nước, thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu
sau:
• Công nghiệp là lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng gần như vào bậc
nhất của nhiều quốc gia. Sự phát triển của ngành công nghiệp là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá trình độ phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những chỉ tiêu
dùng để so sánh quốc tế.
• Phát triển công nghiệp là con đường tất yếu và duy nhất nâng cao không
ngừng tiềm lực kinh tế, đẩy nhanh tiến bộ xã hội. Sự phát triển của công nghiệp là một
yếu tố có tính chất quyết định để thực hiện quá trình CNH-HĐH toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Công nghiệp tăng trưởng cao góp phần tích cực và trực tiếp đối với tốc độ
tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế.
• Quá trình phát triển công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất của xã hội
phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật tăng nhanh, trình độ tổ chức sản xuất và trình độ
người lao động không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.
• Mục tiêu cuối cùng của sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thoả mãn
nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất,
công nghiệp là ngành không chỉ khai thác tài nguyên mà còn chế biến các nguyên liệu
được khai thác và sản xuất từ các tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản
phẩm trung gian để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng
của con nguời.
• Công nghiệp là một trong những ngành tạo ra thu nhập quốc dân, có ý
nghĩa kinh tế- xã hội như: tạo ra việc làm cho nguời lao động, xóa bỏ sự cách biệt lớn
giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi...
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
• Nếu nhìn ở một khía cạnh khác thì phát triển công nghiệp còn đảm bảo
tăng cường tiềm lực quốc phòng. Quốc phòng muốn vững chắc thì một phần phải có
nền công nghiệp phát triển cao để trang bị những phương tiện, khí tài tinh nhuệ hiện
đại cho quân đội.
• Công nghiệp phát triển sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu
tư trong và ngoài nước, mở rộng các quan hệ kinh tế- thương mại với nước ngoài.
1.4. Phân loại công nghiệp
Người ta dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân loại công nghiệp. Tuỳ theo
mục đích nghiên cứu về phát triển công nghiệp mà lựa chọn phương pháp phân loại
cho phù hợp. Phân loại công nghiệp thường phân theo các lĩnh vực, theo các loại hình
sở hữu và phân ngành có đặc trưng chuyên môn hoá khác nhau.
1.4.1. Dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm, người ta chia thành 2 ngành
lớn là sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Theo cách phân loại này
ngành công nghiệp chia thành hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công
nghiệp nhẹ.
Sự phân loại này thường sử dụng trong mô hình kinh tế khép kín trước đây, khi
mà nhiều nước thường căn cứ vào cách chia này để vận dụng quy luật tái sản xuất mở
rộng, xây dựng mô hình ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.. Ngày nay trong điều
kiện toàn cầu hoá và hội nhập thì người ta ít dựa vào sự phân loại này hơn.
1.4.2. Dựa vào quy mô của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chia ngành công
nghiệp thành 3 khu vực là: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh
nghiệp nhỏ. Cách phân loại này đặc biệt có ý nghĩa trong đánh giá hiệu quả
và hoạch định chính sách phát triển cho các doanh nghiệp.
1.4.3. Dựa vào tính chất biến đổi đối tượng lao động và công dụng của sản phẩm
( phân theo ngành cấp 1 trong hệ thống phân ngành kinh tế Việt Nam )
Theo cách chia này, ngành công nghiệp chia thành 3 nhóm ngành là: công nghiệp
khai thác mỏ; công nghiệp chế biến và ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt và
nước.
a. Ngành công nghiệp khai thác mỏ
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Ngành công nghiệp khai thác được hiểu là các hoạt động khai thác khoáng sản
có trong tự nhiên như: than, dầu... tạo thành nguyên liệu thô làm đầu vào cho các giai
đoạn chế biến tiếp theo.
Ngành này gồm: khai thác khoáng tự nhiên ở dạng cứng ( than và quặng ), chất
lỏng ( dầu thô ) hoặc khí ( khí gas tự nhiên ). Khai thác có thể được thực hiện theo
nhiều phương pháp khác nhau như dưới lòng đất hoặc trên bề mặt, khai thác dưới đáy
biển…Ngành này cũng gồm các hoạt động phụ trợ như chuẩn bị các nguyên liệu thô
cho kinh doanh, ví dụ như: nghiền, cắt, rửa sạch, phân loại, nung quặng, hoá lỏng gas
và các nhiên liệu rắn. Các hoạt động này thường được thực hiện bởi các đơn vị khai
thác mỏ và/ hoặc các đơn vị khác gần đó.
Ngành này không bao gồm các hoạt động:
• Sử dụng các quặng được khai thác mà không có sự chuyển
đổi nào thêm cho mục đích xác định
• Nghiền, ép hoặc các xử lý khác đối với đất, đá và chất
khác không liên qua đến khai thác mỏ, quặng
• Thu thập, làm sạch và phân phối nước
• Chuẩn bị mặt bằng cho khai thác mỏ
• Điều tra địa vật lý, địa chấn như công tác điều tra, thăm dò
khoáng sản…
b. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Công nghiệp chế biến, chế tạo là các hoạt động làm biến đổi về mặt vật lý, hoá
học của vật liệu, chất liệu hoặc làm biến đổi các thành phần cấu thành của nó để tạo ra
các sản phẩm mới theo yêu cầu của con người
Vật liệu, chất liệu hoặc các thành phần biến đổi là nguyên liệu thô từ các sản
phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ hoặc quặng cũng như các hoạt
động khác của sản phẩm chế biến. Những thay đổi, đổi mới hoặc khôi phục lại hàng
hoá thường được xem xét là hoạt động chế biến.
Đầu ra của quá trình sản xuất có thể được coi là hoàn thiện dưới dạng là sản
phẩm cho tiêu dùng cuối cùng hoặc là bán thành phẩm và trở thành đầu vào của hoạt
động chế biến tiếp theo.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Ngành này còn gồm các hoạt động:
o Các hoạt động lắp ráp sản phẩm mà sau khi lắp ráp làm thay đổi
hình thái ban đầu của sản phẩm
o Các hoạt động gia công như sơn, tộ, mạ. nhuộm màu...
Các hoạt động đó có thể được tiến hành bằng máy móc, bằng tay, chế biến trong
nhà máy hoặc tại nhà ở của người lao động, người thợ.
Ngành này không gồm các hoạt động:
- Lắp ráp đường ray, xây cầu, thang máy, các thiết bị máy móc
vào vận hành dây truyền sản xuất
- sửa chữa ô tô, xe máy và các xe có động cơ khác
- Hoạt động lắp ráp trong các đơn vị bán buôn, bán lẻ.
c. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hoà không khí.
Ngành này là sự kết hợp của 3 ngành: điện, khí đốt và nước nhằm cung cấp
điện, khí đốt và nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Ngành này gồm:
- Hoạt động phân phối năng lượng điện, khí tự nhiên, hơi nước và
nước nóng thông qua một hệ thống ống dẫn, đường dây ổn định lâu dài ( mạng lưới ).
Chiều dài của mạng lưới này không quan trọng; ở đây cũng bao gồm cả việc cung cấp
điện, khí đốt, hơi nước, nước nóng và các loại tương tự trong khu công nghiệp và khu
nhà ở cao tầng.
- Hoạt động cung cấp điện và gas, bao gồm thu thập, giám sát và
phân phối điện, gas. Nó cũng bao gồm cung cấp hơi nước và điều hoà không khí.
Ngành này không bao gồm:
- Các hoạt động tưới tiêu trong nông nghiệp và hoạt động xử lý nước
thải
- Vận chuyển gas qua đường dây ( chủ yếu là đường dài ).
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
1.4.4. Dựa vào sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã
hội mà công nghiệp được chia ra thành: công nghiệp nhà nước, công nghiệp ngoài nhà
nước và công nghiệp có vốn đầu tư ngoài.
- Công nghiệp nhà nước bao gồm kinh tế nhà nước trung ương và
kinh tế nhà nước địa phương.Chẳng hạn như các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách
nhiệm hữư hạn nhà nước, công ty cổ phần nhà nước… mà hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp.
- Khu vực công nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm:
Các doanh nghiệp công nghiệp 100% vốn nước ngoài;
Liên doanh giữa nước ngoài với doanh nghiệp công nghiệp nhà nước;
Liên doanh giữa nước ngoài với các đơn vị khác ở trong nước.
- Công nghiệp ngoài nhà nước gồm các doanh nghiệp công
nghiệp không thuộc sở hữu của nhà nước nhưng cũng không liên doanh với nước
ngoài.
2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của sản xuất công nghiệp
2.1. Khái niệm sản xuất công nghiệp
Sản xuất là hoạt động có mục đích của con người ( có thể làm thay được ) để tạo
ra sản phẩm hữu ích, sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ; nhằm thoả mãn nhu cầu
nào đó của cá nhân hoặc xã hội.
Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất diễn ra trong công nghiệp nhằm tạo ra
các sản phẩm công nghiệp thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội hoặc cá nhân- tiêu
dùng cho sản xuất, cho đời sống, cho tích luỹ và xuất khẩu.
Nhưng không phải hoạt động sản xuất nào cũng coi là sản xuất công nghiệp. Mà
phạm vi của sản xuất công nghiệp là các hoạt động phù hợp với pháp luật và loại trừ
các hoạt động dịch vụ tự sản tự tiêu. Việc xác định phạm vi sản xuất công nghiệp như
vậy cũng chính là xác định nhất quán phạm vi tính giá trị sản xuất công nghiệp.
2.2.Đặc điểm của sản xuất công nghiệp
Thứ nhất, sản xuất công nghiệp có khả năng chuyên môn hoá sâu và hiệp tác
hoá rộng
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Chuyên môn hoá trong sản xuất là mỗi cơ sở sản xuất chỉ tập trung và sản xuất
một loại sản phẩm hoặc một số bộ phận của một loại sản phẩm nhất định. Hiệp tác hoá
trong sản xuất là sự gắn kết mật thiết của nhiều cơ sở sản xuất để sản xuất ra một loại
sản phẩm từ nhiều nguồn nguyên liệu, nhiên liệu khác nhau; đây là hình thức tổ chức
sản xuất mang tính xã hội hoá cao.
Trong sản xuất công nghiệp, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất có mối
quan hệ rất mật thiết với nhau. Để đẩy mạnh chuyên môn hoá và hiệp tác hoá cần phân
bố các xí nghiệp công nghiệp thành các cụm công nghiệp, khu công nghiệp.
Thứ hai, sản xuất công nghiệp có khả năng liên hợp rộng
Liên hợp hoá là quá trình liên kết rất nhiều cơ sở sản xuất của nhiều ngành công
nghiệp khác nhau nhằm sản xuất ra nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Liên hợp hoá trong sản xuất công nghiệp được thể hiện ở sự thành lập các xí
nghiệp liên hợp. Đặc điểm này đòi hỏi trong tổ chức sản xuất công nghiệp cần phân bố
các cơ sở sản xuất công nghiệp có mối quan hệ gắn bó với nhau về mặt công nghệ,
hình thành các tổ hợp sản xuất thống nhất trên mỗi vùng lãnh thổ để tạo ra điều kiện
thuận lợi cho việc tổ chức và quản lý sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của từng doanh nghiệp.
Thứ ba, sản xuất công nghiệp có tính tập trung cao độ
Tính tập trung cao của sản xuất công nghiệp được thể hiện là trên một phạm vi
không gian không phải là lớn nhưng có sự tập trung cao độ về tư liệu sản xuất, tập
trung về dân cư và lao động, tập trung về các sản phẩm được sản xuất ra.
Sự tập trung trong sản xuất công nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa nhanh những công nghệ tiên tiến vào sản
xuất; đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Sự tập trung hoá trong sản xuất công
nghiệp còn tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành liên hợp hoá, hiệp tác hoá và đẩy
nhanh chuyên môn hoá trong sản xuất. Việc tập trung về dân cư và lao động một mặt
tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng lao động, mặt khác còn tạo điều kiện nâng cao đời
sống cho nhân dân..
với đặc điểm này, trong tổ chức sản xuất công nghiệp cần chú ý tới việc khai
thác những lợi thế do tính tập trung tạo ra; đặc biệt là chú ý tới việc phát triển các khu
công nghiệp, trung tâm công nghiệp hay vùng công nghiệp.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Thứ tư sản xuất công nghiệp ít chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên
Do các hoạt động sản xuất công nghiệp thường được tiến hành trong nhà,
xưởng. Hơn nữa, các đối tượng chủ yếu của sản xuất công nghiệp lại là các vật thể vô
sinh hoặc đã bị vô sinh hoá trước khi đưa vào sản xuất. Do đó, những ảnh hưởng bởi
các điều kiện tự nhiên ít gây ra những ảnh hưởng đáng kể tới các hoạt động sản xuất
công nghiệp.
2.3. Vai trò của sản xuất công nghiệp
Sự phát triển của sản xuất công nghiệp là cơ sở quan trọng để nâng cao năng
suất lao động xã hội, tác động sâu sắc đến tất cả các ngành KTQD. Bởi vì công nghiệp
đảm bảo cung cấp các loại máy móc thiết bị, cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, năng
lượng và nhiều loại vật tư khác cho toàn bộ các ngành của nền kinh tế; đẩy mạnh cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nhanh chóng đưa các công nghệ tiên
tiến vào sản xuất.
Sự phát triển của sản xuất công nghiệp còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
việc đẩy mạnh sự phân công lại lao động xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất một cách
hợp lý, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất lớn. Sản xuất công nghiệp
đảm bảo tăng cường tiềm lực cho nền kinh tế, nâng cao phúc lợi và nâng cao đời sống vật
chất của nhân dân. Phát triển và phân bố sản xuất công nghiệp một cách hợp lý có khả năng
tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà
đầu tư nước ngoài. Do đó sự phát triển và phân bố hợp lý sản xuất công nghiệp có ý nghĩa
quyết định đối với sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
2. Chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp ( GO
CN
)
1. Khái niệm GO
CN
Giá trị sản xuất công nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp tạo ra dưới dạng sản phẩm vật chất
và dịch vụ trong một thời gian nhất định.
Giá trị sản xuất công nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật chất và dịch vụ
hữu ích do lao động công nghiệp của doanh nghiệp làm ra trong một thời kỳ nhất
định( thường là một năm). Và nó là bộ phận chủ yếu của chỉ tiêu GO chung của toàn
doanh nghiệp công nghiệp.
Như vậy GO
CN
là chỉ tiêu số lượng, tuyệt đối, thời kỳ.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
2. Ý nghĩa của chỉ tiêu GO trong hoạt động sản xuất công nghiệp
- GO
CN
phản ánh quy mô về kết quả sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp
- Là cơ sở để tính VA, NVA của doanh nghiệp.
- Là căn cứ tính các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- GO
CN
còn dùng để tính GDP, GNI của nền kinh tế quốc dân.
3. Nguyên tắc tính GO
CN
Để xác định chính xác chỉ tiêu GO
CN
phải tuân theo các quy định sau:
- Chỉ tiêu GO
CN
được tính theo giá sử dụng cuối cùng ( giá thị trường).
- Thời điểm xác định chỉ tiêu là thời điểm sản xuất( chế tạo)
Tức là kết quả của hoạt động sản xuất tạo ra GO
CN
của thời kỳ nào thì phải tính cho
thời kỳ đó.
- Tính toàn bộ giá trị sản phẩm. Theo nguyên tắc này, cần tính vào
GO
CN
cả giá trị nguyên vật liệu của khách hàng.
- Tính toàn bộ kết quả sản xuất. Theo nguyên tắc này cần tính vào
GO
CN
không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang.
Chỉ tính kết quả trực tiếp, cuối cùng của hoạt động sản xuất công nghiệp trong
đơn vị hạch toán độc lập.Nghĩa là chỉ được tính kết quả do chính doanh nghiệp tạo ra
và tính một lần; không tính trùng trong phạm vi của doanh nghiệp và không tính những
sản phẩm mua vào rồi bán ra không qua chế biến gì thêm tại doanh nghiệp.
4. Nội dung của chỉ tiêu GO
CN
Giá trị sản xuất công nghiệp bao gồm: giá trị của nguyên vật liệu, năng lượng, phụ tùng
thay thế, chi phí dịch vụ sản xuất, khấu hao tài sản cố định, chi phí lao động, thuế sản xuất
và giá trị thặng dư tạo ra trong cấu thành giá trị sản phẩm công nghiệp.
Theo số liệu sản xuất GO
CN
gồm các yếu tố:
- Giá trị thành phẩm( sản phẩm chính, phụ và nửa thành phẩm)
sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nhiệp;
- Giá trị chế biến thành phẩm làm bằng nguyên vật liệu của
khách hàng. Bởi khi nhận gia công, doanh nghiệp không biết thông tin về giá cả vật tư
mà khách hàng mang đến nên không cần phải tách giá trị vật tư.
- Giá trị sản phẩm của hoạt động sản xuất phụ( khi các sản phẩm
này không thể tách riêng về ngành phù hợp);
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
- Giá trị phế phẩm, phế liệu thu hồi đã tiêu thụ
- Chênh lệch gía trị của những sản phẩm trung gian ( tức là nửa
thành phẩm và sản phẩm dở dang), công cụ dụng cụ, mô hình tự chế giữa cuối kỳ và
đầu kỳ
- Giá trị dịch vụ công nghiệp đã hoàn thành cho bên ngoài; như
sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, gia công ngắn hay hoàn chỉnh sản phẩm.
- Giá trị cho thuê máy móc, thiết bị và nhà xưởng trong dây
truyền sản xuất của doanh nghiệp
Lưu ý: Ở góc độ này GO
CN
thường tính theo giá so sánh và giá hiện
hành.
Theo số liệu tiêu thụ, GO
CN
bao gồm các khoản như sau:
- Doanh thu tiêu thụ thành phẩm ( chính, phụ và nửa thành phẩm) do
lao động của doanh nghiệp làm ra
- Doanh thu tiêu thụ thành phẩm( chính, phụ và nửa thành phẩm) làm
bằng nguyên, vật liệu của doanh nghiệp nhưng thuê gia công bên ngoài
- Doanh thu từ hợp đồng chế biến sản phẩm cho khách hàng
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của hoạt động sản xuất phụ ( khi không
thể hạch toán riêng về ngành phù hợp)
- Thu nhập từ hàng hóa mua vào, bán ra không qua chế biến
- Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm
- Chênh lệch giá trị sản phẩm trung gian và công cụ, dụng cụ, mô hình
tự chế giữa cuối kỳ và đầu kỳ
- Chênh lệch giá trị thành phẩm tồn kho giữa cuối và đầu kỳ
- Chênh lệch giá trị hàng hoá đã gửi bán chưa thu được tiền giữa cuối
và đầu kỳ
- Doanh thu cho thuê nhà xưởng, máy móc, thiết bị trong dây truyền
sản xuất của doanh nghiệp.
Lưu ý: Ở giác độ tiêu thụ GO
CN
chỉ tính theo theo giá hiện hành.
Một số khái niệm liên quan:
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
o Sản phẩm chính: Là những mặt hàng chủ yếu đáp ứng mục đích
chính của quy trình sản xuất.
o Sản phẩm phụ: Là những mặt hàng làm ra theo mục đích phụ của
quy trình sản xuất
o Phế phẩm, phế liệu: Phế phẩm là sản phẩm hỏng, không đạt yêu
cầu kỹ thuật, không thể sửa chữa được, bị loại ra sau khi kiểm tra chất lượng. Phế liệu
là những phần thừa, mẩu vụn, cặn bã sau quá trình sản xuất. Và những phế phẩm, phế
liệu đã thu hồi chỉ sau khi bán cho cơ sở khác mới được coi là sản phẩm công nghiệp,
là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
o Thành phẩm: Là những sản phẩm đã trải qua tất cả các khâu của
quy trình sản xuất của doanh nghiệp, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quy định. Sau khi kiểm
tra chất lượng những sản phẩm này được nhập kho hay giao trực tiếp cho khách hàng
(trừ một số trường hợp ngoại lệ không phải kiểm tra chất lượng hoặc không phải nhập
kho như sản xuất điện, nước đá...) Thành phẩm ở đây được hiểu không phải chỉ là
những sản phẩm tốt mà còn bao gồm cả những sản phẩm hỏng nhưng đã được sửa
chữa và nửa thành phẩm bán ra ngoài phạm vi của doanh nghiệp.
o Nửa thành phẩm ( còn gọi là bán thành phẩm): Là những sản
phẩm được hoàn thành sau một hay một số khâu nào đó của quy trình sản xuất trước
khâu cuối cùng nhưng đã đạt yêu cầu kỹ thuật đến khâu đó và còn phải tiếp tục chế
biến ở khâu sau.
o Sản phẩm dở dang ( còn gọi là tại phế phẩm): Là những vật
phẩm đang được chế biến ở bất kỳ bước gia công nào, kể cả ở công đoạn lắp ráp và
chưa qua khâu kiểm tra kỹ thuật.
5. Phương pháp tính GO
CN
Theo phương pháp doanh nghiệp: GO
CN
tính theo phương pháp này lấy doanh
nghiệp( xí nghiệp) làm đơn vị tính. Thực chất của phương pháp này là cộng tổng giá
trị sản xuất của tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong
nền kinh tế quốc dân. Nó phản ánh kết quả sản xuất cuối cùng của doanh nghiệp công
nghiệp đó, không bao gồm giá trị của sản phẩm chu chuyển trong nội bộ của doanh
nghiệp ( giữa các phân xưởng).
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Theo phương pháp phân phối ( cấu thành giá trị) thì:
GO
CN
= C+V+M= C
1
+C
2
+V+M
Trong đó:
C
1
: Khấu hao tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh công nghiệp
C
2
: Chi phí trung gian (IC): bao gồm toàn bộ chi phí vật chất khác ( không kể khấu
hao TSCĐ) và chi phí dịch vụ cho sản phẩm công nghiệp của doanh nghiệp. Chi phí
trung gian là chi phí sử dụng đối tượng lao động cho sản phẩm trung gian để làm ra
sản phẩm cuối cùng trong một thời kỳ và do đó là một bộ phận cấu thành quan trọng
của tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, được tính theo phương pháp SNA
V: Là thù lao lao động: Thu nhập lần đầu của người lao động hay quỹ phân phối
lần đầu của người lao động
M: thặng dư sản xuất ( số dư kinh doanh thô): Là tổng thu nhập lần đầu tạo ra
trong doanh nghiệp công nghiệp.
CHƯƠNG 2
Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích giá trị sản
xuất Công nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 1997- 2007 và dự
đoán đến năm 2009
2.1. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp Hà Nội giai đoạn 1997-2007
2.1.1. Vai trò, điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Hà Nội
Hà Nội nằm trên châu thổ sông Hồng là trung tâm của miền Bắc Việt Nam, là nơi
hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên, kinh tế-xã hội, văn hoá, thương mại giao
dịch quốc tế và du lịch. Với hệ thống mạng lưới giao thông đồng bộ bao gồm đường
bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không; Hà Nội là nơi thuận lợi để phát triển
các ngành công nghiệp.
Hà Nội có diện tích 927 km
2
trong đó nội thành 187 km
2
và ngoại thành 740km
2
.
Theo thống kê năm 2007, dân số toàn thành phố Hà Nội là 2,7 triệu người trong đó nội
thành 1,3 triệu người, ngoại thành 2,4 triệu người. Hà Nội bao gồm 9 quận nội thành là
Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàng
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Mai, Thanh Xuân. Và 5 quận, huyện ngoại thành là Sóc Sơn, Gia Lâm, Từ Liêm,
Thanh Trì, Đông Anh.
Bộ mặt kinh tế-xã hội của Hà Nội đã có những thay đổi rõ nét, thế và lực hiện nay tốt
hơn nhiều so với 10 năm trước. Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội được củng cố, giữ vững. Cơ sở hạ tầng đã có bước nhảy vọt về chất.Đời sống cả vật
chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt.
Hà Nội là một thành phố tập trung nguồn nhân lực, trí tuệ dồi dào chiếm trên 62%
số cán bộ khoa học và quản lý có trình độ trên đại học, giáo sư, tiến sĩ, thạc sỹ của cả
nước hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Người dân Hà Nội có trình độ dân trí và
tay nghề khá cao, có khả năng tiếp nhận nhanh chóng các công nghệ hiện đại cũng như
trình độ quản lý tiên tiến.
Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm kinh
tế- chính trị- văn hoá của cả nước, nơi làm việc của các cơ quan đầu não của Việt Nam
như: Trung ương Đảng, chính phủ, các bộ chuyên ngành... Hà Nội là nơi có vị thế
thuận lợi, có chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa linh hoạt, là trung tâm giao dịch kinh
tế và trung tâm giao lưu quốc tế quan trọng của cả nước. Do đó Hà Nội giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia. Hà Nội luôn là trọng điểm
trong quy hoạch phát triển của đất nước với nhiệm vụ then chốt hiện nay là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Việc nắm rõ các điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của Hà Nội là rất cần thiết. Nó
có ý nghĩa thực tiễn trong công tác quản lý và hoạch định chính sách phát triển của
vùng, của các ngành, của quốc gia. Nó còn giúp ta phân tích được những nguyên nhân,
đưa ra được những kết luận về sự phát triển của một vấn đề nào đó trong thời gian đã
qua. Trong phạm vi của chuyên đề này chỉ chú trọng khai thác mảng công nghiệp bởi
những lý do sau:
Công nghiệp là một ngành có vai trò rất quan trọng trong nền
KTQD. Với Việt Nam hiện nay ngành công nghiệp là ngành chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong GDP. Đặc biệt trong quá trình CNH- HĐH của nước ta hiện nay thì công nghiệp
đang được chú trọng, ưu tiên phát triển hàng đầu.
Hà Nội là một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, là thành
phố chiếm tỷ trọng công nghiệp lớn trong cơ cấu công nghiệp của quốc gia. Tốc độ
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
tăng trưởng của ngành công nghiệp Hà Nội trong nhiều năm liền luôn ở mức cao, là
nơi dẫn đầu trong thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
2 .1.2. Thực trạng ngành công nghiệp Hà Nội trong thời gian qua
Phần này nhằm mục đích đem lại một cái nhìn tổng thể kết quả của ngành công
nghiệp Hà Nội trong những năm qua.
2.1.2.1.Giá trị sản xuất và tăng trưởng
• Cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng
Hà Nội là một trong số các tỉnh, thành phố có tốc độ tăng trưởng GDP cao so với
chung bình chung của cả nước.Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Hà Nội thường cao hơn
mức chung bình chung của cả nước từ 1,3 đến 1,5 lần ( Hoàng Văn Nghiên, 2003)
11
.
.Trong giai đoạn 1997-2007 tốc độ tăng trưởng trung bình năm của thành phố luôn đạt
hai con số. Năm 2007 GDP thực tế của thành phố gấp khoảng 5 lần so với GDP năm
1990. Có được kết quả tăng truởng như vậy có phần đóng góp rất lớn của khu vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ phát triển nhanh nhất trong ba khu
vực kinh tế và đang chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong GDP. Tỷ trọng giá trị
của khu vực này liên tục tăng qua các năm và đến năm 2007, công nghiệp và xây dựng
chiếm hơn 40% GDP của thành phố.Cơ cấu kinh tế của thành phố đang dịch chuyển
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng của nông nghiệp,
dịch vụ.
Chỉ tính riêng công nghiệp, trong giai đoạn 1997-2000 tốc độ tăng trưởng đã khá
cao với mức 15,36%/ năm. Nhưng năm sau đó, giai đoạn 2001-2002 tốc độ này còn
cao hơn khi đạt 16,85%/ năm. Tỷ lệ tăng trưởng chung cho cả thời kỳ 1997-2002 của
ngành công nghiệp Hà Nội là 16,35%; trong đó công nghiệp chế biến có tốc độ tăng
trưởng cao nhất, tiếp đến là công nghiệp điện, nước, gas, khí đốt và công nghiệp khai
thác có mức tăng trưởng thấp nhất (báo cáo tổng hợp đánh giá thực hiện quy hoạch
công nghiệp 2001-2010).
Nằm trong xu hướng phát triển chung của cả nước và thế giới, giai đoạn 1998-
1999 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á mà tốc độ tăng trưởng các
ngành, khu vực của Hà Nội đều suy giảm. Công nghiệp và xây dựng là hai khu vực bị
1
Bài viết trong diễn đàn"Việt Nam: sãn sàng tham gia tổ chức thương mại thế giới" tại Hà Nội ngày 3-4 tháng
6 năm 2003.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
ảnh hưởng ít nhất, còn nặng nề nhất là nông nghiệp. Từ năm 2000, tăng trưởng của các
khu vực đã dần phục hồi lại. Công nghiệp là ngành phục hồi nhanh với tỷ lệ tăng
trưởng mạnh mẽ nhất. Đến năm 2004, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 641 tỷ đồng
trong khi công nghiệp đạt 12332 tỷ đồng và dịch vụ dẫn đầu với 17552 tỷ đồng. Năm
2007 giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội đã lên tới 51725 tỷ đồng.
• Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế
Sự ra đời và có hiệu lực của luật doanh nghiệp năm 2000 đã tạo ra một môi
trường thuận lợi cho việc thành lập nhiều công ty mới. Năm 2001, toàn thành phố có
1443 doanh nghiệp công nghiệp thì đến năm 2004 con số này đã là 2787.Theo cục
thống kê Hà Nội 2005, sự phát triển của các doanh nghiệp đã góp phần phát huy tiềm
năng vốn, giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động, tăng sản phẩm xã hội cũng
như làm tăng nguồn thu cho ngân sách.
Trong sự phát triển của số lượng doanh nghiệp thì đáng chú ý nhất là sự vượt bậc
của doanh nghiệp ngoài nhà nước. Số doanh nghiệp tăng từ 1089 năm 2001 lên 2399
năm 2004. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có sự phát triển nhanh chóng,
với tổng số 163 doanh nghiệp năm 2004 đã tăng 43 doanh nghiệp so với năm 2001.
Đặc biệt tỷ trọng các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm dần qua các năm.
Thực tế này không chỉ phản ánh kết quả của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở Hà
Nội mà còn cho thấy các chính sách cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh đối với
khu vực ngoài nhà nước được bình đẳng hơn.
Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế có sự thay đổi khá rõ trong giai đoạn
1997-2007. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng rất
nhanh trong khi tỷ trọng của công nghiệp nhà nước lại giảm rất mạnh. Tỷ trọng giá trị
sản xuất của công nghiệp nhà nước giảm 70% năm 1997 xuống còn 43% năm 2006.
Trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 19% năm 1997 đến 36% năm
2006. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tăng lên nhưng chậm hơn, tỷ trọng tăng từ
11% năm 1997 lên 21% năm 2006.
Kết qủa thu thập được cho thấy mặc dù chiếm tỷ lệ cao về số lượng nhưng khu
vực công nghiệp nhà nước có tỷ trọng trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất công nghiệp
toàn thành phố không cao, chỉ chiếm khoảng 1/5 tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm
2004. Khu vực công nghiệp nhà nước mặc dù bị giảm đáng kể về tỷ trọng trong những
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
năm qua nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong công nghiệp của thành phố. Còn
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tốc độ tăng trưởng nhanh đã cho thấy khả năng
thu hút vốn đầu tư của Hà Nội.
Doanh nghiệp của thủ đô có mặt ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp chủ yếu, trừ
một số ngành công nghiệp khai thác. Cả ba khu vực đều có xu hướng tập trung ở một
số ngành chính như chế biến thực phẩm, may mặc, xuất bản in ấn, sản xuất sản phẩm
từ kim loại và phi lim loại. Một số ngành có số doanh nghiệp tăng nhanh như ngành in
ấn có số doanh nghiệp năm 2004 tăng 2,8 lần so với năm 2001 hay ngành sản xuất sản
phẩm tù kim loại tăng 2,5 lần.
Các doanh nghiệp công nghiệp phân bố manh mún, chồng chéo giữa các ngành,
các đơn vị quản lý, giữa Trung ương và địa phương quản lý. Công nghiệp do địa
phương quản lý nhỏ, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước và các doanh
nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã, hộ cá thể 6 tháng năm 2001
chỉ chiếm 25,1% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn.
Sản xuất công nghiệp nhìn chung giữ được nhịp độ tăng trưởng cao song tính
ổn định trong sản xuất chưa cao. Khu vực các doanh nghiệp công nghiệp do Trung
ương quản lý do được đầu tư ban đầu tương đối đồng bộ, sản phẩm của các doanh
nghiệp tiêu thụ được trên thị trường do vậy sản xuất mang tính ổn định nhất, Các
doanh nghiệp công nghiệp địa phương và công nghiệp ngoài nhà nước hiện tại vẫn
đang có sự tăng trưởng khá nhưng tính ổn định không cao, sản phẩm của các doanh
nghiệp của khu vực này chủ yếu tiêu thụ cho thị trường nông thôn phía bắc và các
tỉnh miền trung là nơi có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, lâu dài nếu không
được đầu tư đổi mới công nghệ và thay đổi cơ cấu sản phẩm thích hợp sẽ khó cạnh
tranh được với sản phẩm của các địa phương khác và sản phẩm ngoại nhập. Khu vực
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tính ổn định trong sản xuất kinh doanh
rất thấp, ngoại trừ một số doanh nghiệp vốn đầu tư lớn và có được cơ cấu sản phẩm
thích hợp và thị trường tiêu thụ ổn định sản xuất phát triển, những doanh nghiệp đầu
tư vừa và nhỏ sản xuất rất bấp bênh, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh rất thấp.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
• Quy mô doanh nghiệp công nghiệp
Số lao động bình quân một doanh nghiệp hiện nay là 105 người; trong đó quy mô
trung bình của doanh nghiệp ngoài nhà nước là 38 lao động. Thực tế này có thể do các
doanh nghiệp mới thành lập phần nhiều chuyển từ hình thức hộ gia đình sang. Quy mô
lao động lớn thường tập trung ở các ngành có đặc thù về dây truyền sản xuất như may
mặc, sản xuất sản phẩm kim loại.
Theo quy định hiện hành của Chính phủ tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa
và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô dưới 300 lao động và vốn dưới 10 tỷ đồng
thì đại bộ phận các doanh nghiệp Hà nội được xếp vào loại doanh nghiệp quy mô
vừa và nhỏ, doanh nghiệp có quy mô lớn không nhiều, trong 9569 doanh nghiệp thì
có 9125 doanh nghiệp có dưới 300 lao động, chiếm 95,4 % và 8084 doanh nghiệp
có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 84%. Doanh nghiệp quy mô trên nhỏ thường
đi kèm kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, chỉ có 6% doanh nghiệp có quy mô vốn trên
500 tỷ đồng và 2,7% doanh nghiệp có quy mô trên 500 lao động, trong đó sự cách
biệt về quy mô cũng như trang bị kỹ thuật công nghệ rất khác nhau. kinh tế nhà nước có
quy mô lớn nhất về lao động, bình quân 471 người trên một doanh nghiệp, gấp 21 lần
doanh nghiệp ngoài nhà nước, và gấp 4,4 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngược lại xét theo quy mô vốn thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô
lớn nhất bình quân 129,7 tỷ đồng/ doanh nghiệp gấp 26 lần so các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, gấp 1,1 lần doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Trang bị tài
sản cố định trên một lao động tương ứng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 631 triệu
đồng/ lao động, gấp 8,2 lần thành phần kinh tế nhà nước và gấp 12,6 lần thành phần kinh
tế ngoài nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế,
mặc dù khu vực kinh tế nhà nước chỉ chiếm 9% về số lượng doanh nghiệp nhưng
chiếm tới 65% về lao động, 57,2% về vốn thực tế sử dụng, 51,1% giá trị tài sản cố
định, 64,6% doanh thu thuần, 78,6% tổng thuế và các khoản phải nộp ngân sách.
2 .1.2.2.Nguồn lực lao động
• Cơ cấu phân bổ lao động trong các ngành kinh tế
Trong những năm 90 tốc độ tăng số lượng lao động trung bình của toàn thành
phố là 2,7%/năm. Khu vực dịch vụ là khu vực tạo ra thêm số việc làm hàng năm lớn
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
nhất với mức tăng trưởng trung bình 4,8%/năm. Tiếp đến là khu vực công nghiệp,
xây dựng với 1,7%/năm. Và đứng thứ ba là khu vực nông nghiệp với 1,4%/ năm. Từ
năm 2000 trở lại đây, khu vực công nghiệp, xây dựng tạo thêm được 180000 việc
làm mới và khu vực dịch vụ ít hơn với 115000 lao động mới. Giai đoạn này đang có
sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Lao
động trong khu vực nông nghiệp liên tục giảm với tốc độ trung bình 3,7%/năm. Công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ lại có mức tăng tương ứng là 7,3%/năm và 6,1%/ năm.
Theo viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp thì ngành công nghiệp
đang đóng một vai trò tích cực trong việc tạo thêm việc làm và thu nhập cho người
lao động. Cơ cấu lao động công nghiệp theo các ngành có sự chuyển dịch lớn trong
thời gian qua. Tỷ trọng các ngành được xem là mũi nhọn của thành phố như cơ khí,
hoá chất, in ấn, chế biến thực phẩm, dệt may, da giầy tăng lên đáng kể. Trong đó thu
hút thêm nhiều lao động nhất là ngành chế biến thực phẩm, dệt may, da giầy và cơ
kim khí.
• Hiện trạng lao động của Hà Nội
Nguồn nhân lực của Hà Nội hiện nay được đánh giá là có trình độ văn hoá cao
so với cả nước. Trong năm 1998 chỉ số năm học cao nhất đã qua bình quân cho một
lao động là 9,9 năm; số lao động được đào tào từ sơ cấp trở lên chiếm 32,2%, cao
hơn mức chung bình chung cả nước là 13,3%. Tuy nhiên trình độ này vẫn chưa đáp
ứng được đòi hỏi, yêu cầu của thực tế.
Công nghiệp được coi là ngành có vai trò quyết định, chiến lược đến phát triển
phân công lao động xã hội. Theo báo cáo tổng hợp đánh giá thực hiện quy hoạch
công nghiệp 2001-2010 của viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp thì
lao động tiểu thủ công nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, khoảng 15-16% toàn bộ lao
động đang làm việc và trong thời kỳ 1997-2002 mức tăng trung bình là 3,58%/năm.
Mặc dù số lượng còn rất khiêm tốn nhưng lao động tăng thêm trong công nghiệp lại
có vai trò hết sức quan trọng trong lực lượng lao động chung. Bởi đây là những lao
động có tay nghề, có trình độ kỹ thuật và khả năng làm việc trong một môi trường
chuyên nghiệp, công nghệ tương đối hiện đại.
Kết quả điều tra trên 115000 công nhân kỹ thuật cho thấy ngành may chiếm tỷ
trọng lớn nhất, hơn 20%; tiếp đó là kỹ thuật xây dựng gần 15%; kỹ thuật điện 11%,
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
cơ khí 10% và một phần nằm trong các ngành dệt, nhuộm, sản xuất sản phẩm kim
loại.
Để đáp ứng cho nhu cầu của CNH-HĐH, đồng thời duy trì một mức tăng
trưởng kinh tế cao thì Hà Nội còn thiếu rất nhiều công nhân kỹ thuật, đặc biệt là thợ
kỹ thuật bậc cao. Đội ngũ kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật trong ngành công nghiệp
chỉ có khoảng 20% là được đào tạo chính quy trong các trường; còn phần nhiều là
đào tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn tại các trung tâm dạy nghề hoặc được truyền lại bí
quyết nghề từ thế hệ trước. Trong đội ngũ lao động đã được đào tạo ở các trường
chính quy, được trang bị hệ thống kiến thức cơ bản thì tay nghề vẫn còn non yếu,
chưa tiếp cận nhanh nhạy với các công nghệ kỹ thuật, thiết bị hiện đại. Đa số lao
động trong công nghiệp chỉ có khả năng làm một vài thao tác trong dây truyền sản
xuất, thiếu kiến thức lý luận cơ bản, thiếu khả năng chuyên sâu nên khi công nghệ
sản xuất hay dây truyền thay đổi họ không thể nắm bắt ngay mà phải học lại từ đầu.
Số cán bộ kỹ thuật tốt nghiệp đại học tương đối nhiều so với lao động lành nghề (gấp
5 lần lao động lành nghề) nhưng lại chưa phát huy được hiệu quả, gây ra tình trạng
"thừa thầy thiếu thợ" tương đối nghiêm trọng.
• Năng suất lao động
Trong thời gian qua, năng suất lao động ở các ngành kinh tế liên tục tăng đã
đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng chung của thành phố. Thời kỳ 1997-2002,
ngành công nghiệp có mức tăng trưởng chung bình tương đối cao là 9,85%/ năm.
Năm 2002 năng suất lao động trung bình trong công nghiệp tính theo VA là gần 30
triệu đồng/ năm, đã tăng gần gấp đôi so với năm 1995( theo số liệu của viện nghiên
cứu chiến lược chính sách công nghiệp, 2003).
Năng suất lao động trong công nghiệp luôn đạt mức cao nhất trong ba ngành,
khi mà năng suất lao động trung bình của dịch vụ chỉ bằng 1/3 công nghiệp ở năm
1999 và năng suất lao động trong nông nghiệp chỉ khoảng 1/6 năng suất lao động
trong công nghiệp. Tuy nhiên mức năng suất trung bình của thành phố vẫn bị coi là
thấp. Mà nguyên nhân chính là do thiếu một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ
kỹ thuật cao.
• Nguồn lực vốn
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Mặc dù nguồn vốn đầu tư vào công nghiệp vẫn liên tục tăng trong thời gian qua
nhưng hiệu quả thu hút đầu tư cho công nghiệp lại thấp hơn so với dịch vụ. Theo
viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, 2003 thì tỷ trọng vốn đầu tư cho
công nghiệp trong tổng vốn đầu tư xã hội của thành phố giảm xuống. Năm 1995 nó
chiếm 33,8% và đến năm 2000 còn khoảng 30% trong tổng cơ cấu vốn đầu tư xã hội
thành phố. Xu hướng dịch chuyển này sẽ gây ra khó khăn trong việc xây dựng cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng các ngành khác. Nó có
thể làm chậm nhịp độ tăng trưởng của công nghiệp, làm chậm quá trình CNH.
Tỷ trọng đầu tư vào công nghiệp xét theo các thành phần kinh tế đều giảm. Với
công nghiệp nhà nước, tỷ trọng này giảm từ 21% năm 1995 xuống chỉ còn 16% năm
2000. Với khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng đầu tư bình
quân là 10,8%/năm. Trong khi tốc độ tăng đầu tư nước ngoài chung vào thành phố là
12,8%. Điều này cho thấy, vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp còn khá thấp. Khu
vực công nghiệp ngoài nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổng vốn đầu tư
xã hội ( chiếm tới trên 80%) nhưng cũng chỉ đầu tư 1/3 vào công nghiệp.
Xét trên tổng thể nền kinh tế, rõ ràng công nghiệp không phải là khu vực thành
công về thu hút vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. Thực trạng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do
chính sách thu hút vốn đầu tư vào công nghiệp chưa hấp dẫn, chưa tạo được các điều
kiện ổn định cho nhà đầu tư.
Từ trước đến nay, nguồn vốn đầu tư từ nhà nước luôn có một vai trò hết sức
quan trọng. Tuy nhiên vai trò đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tín dụng đang dần
dần nâng cao vị trí. Nguồn vốn tín dụng cho công nghiệp đang tăng lên, từ 10% năm
1997 lên đến 23% năm 2000 và 44% năm 2001. Đầu tư từ khu vực công nghiệp
ngoài nhà nước liên tục tăng, trong khi công nghiệp nhà nước lại giảm nhanh. Mặc
dù vậy nguồn vốn do doanh nghiệp nhà nước tự huy động vẫn có một vai trò quan
trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào công nghiệp.
2.1.2.3. Nguyên nhân chủ yếu của những kết quả đạt được và yếu kém
trong công nghiệp Hà Nội thời gian qua
a. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Qua những số liệu đã được đưa ra ở các phần trên, ta nhận thấy trong giai đoạn
1997-2007 tốc độ phát triển của ngành công nghiệp Hà Nội luôn tăng và ở mức cao.
Có được kết quả như vậy là do lợi thế về vị trí, trung tâm kinh tế -chính trị- văn hoá
của cả nước với 2,7 triệu người. Đây là nơi tập trung hầu hết các khu công nghiệp, các
ngành nghề; đặc biệt với một lực lượng lao động hơn hẳn các vùng khác trong cả nước
về trình độ và chuyên môn kỹ thuật. Hà Nội là địa phương có mạng lưới thông tin liên
lạc, cơ sở hạ tầng…tương đối phát triển so với các tỉnh, thành phố khác.Vì vậy kinh tế
Hà Nội nói chung và công nghiệp Hà Nội nói riêng đã có những bước phát triển đáng
kể.
Mặt khác thì uỷ ban nhân dân thành phố đã vận dụng sáng tạo những chính sách
phát triển công nghiệp nhanh, mạnh, thực hiện đi tắt đón đầu có trọng điểm nên hiệu
quả khá cao.
b. Nguyên nhân của những yếu kém trong công nghiệp Hà Nội thời
gian qua
Nguyên nhân của những mặt hạn chế trong sản xuất công nghiệp trên địa bàn
có nhiều song nổi lên những vấn đề lớn đáng quan tâm như sau:
- Một là, thị trường tiêu thụ ngày càng khó khăn, thị trường trong nước vốn đã
thấp lại tăng chậm trong khi 80% số lượng hàng hoá ngành công nghiệp Hà Nội sản
xuất ra chỉ tiêu thụ nội địa, thị trường nước ngoài hiện nay đang gặp khó khăn do
phải cạnh tranh về giá cả và chất lượng với một số nước trong khu vực. Một số mặt
hàng xuất khẩu là thế mạnh của công nghiệp Hà Nội như hàng may mặc, da giầy,
hàng điện tử và hàng nông sản ... gặp khó khăn trong tiêu thụ do mất thị trường kể cả
một số thị trường xuất khẩu truyền thống hoặc do bị ép giá. Đặc biệt khi Việt Nam đó
ra nhập WTO thỡ việc cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại ngay trờn thị trường
trong nước hay trờn thị trường quốc tế lại càng đặt ra cho cụng nghiệp cả nước núi
chung và cụng nghiệp Hà Nội núi riờng những thỏch thức.
- Hai là, sản xuất giữa các thành phần kinh tế, các khu vực cụng nghiệp chưa có mối
liên kết hợp tác hỗ trợ nhau cùng phát triển mà ngược lại xuất hiện xu hướng hạn chế lẫn
nhau giữa các doanh nghiệp. Nhiều mặt hàng quan trọng chiếm tỷ trọng lớn được phát
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
triển mạnh ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhưng lại làm suy giảm cho các doanh
nghiệp trong nước như các sản phẩm láp ráp điện tử, ô tô, xe máy...
- Ba là, sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, nhất là khu vực hộ cá
thể là khu vực sản xuất nhỏ, chưa được đầu tư thiết bị và công nghệ, kỹ thuật sản
xuất thủ công lạc hậu, năng suất lao động thấp, sản xuất hết sức bấp bênh và không
ổn định. Vì vậy trước yêu cầu về chất lượng cao, giá thành hạ và yêu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và thị trường nước ngoài thì khu vực
này chưa đủ điều kiện và khả năng để phát triển bền vững, lâu dài.
2 .2.Phân tích giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn 1997-2007 và
dự đoán cho hai năm 2008, 2009
2.2.1. Một số phương pháp thống kê sử dụng để phân tích và dự đoán giá trị
sản xuất công nghiệp
2.2.1.1.Phương pháp đồ thị thống kê
a. Khái niệm, tác dụng, ý nghĩa của đồ thị thống kê
- Khái niệm: Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc các đường nét hình
học để miêu tả có tính chất quy ước các tài liệu thống kê.
Đặc điểm: Đồ thị thống kê sử dụng kết hợp các con số và hình vẽ, đường nét và màu
sắc để trình bày các đặc trưng và phân tích đặc điểm về số lượng của hiện tượng.
Mặt khác, các đồ thị thống kê không trình bày cụ thể, tỷ mỉ, chi tiết các đặc trưng số
lượng của hiện tượng, mà chỉ nêu lên một cách khái quát các đặc điểm chủ yếu về bản
chất, xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Do vậy nó rất dễ hiểu, có sự hấp dẫn
và sinh động.
- Tác dụng: Dùng đồ thị thống kê có thể hình tượng hóa sự phát triển
của hiện tượng qua thời gian, kết cấu và biến động kết cấu, trình độ phổ biến, quan hệ
so sánh, mối liên hệ giữa các hiện tượng.
- Ý nghĩa: Do những tác dụng thực tế của nó mà các đồ thị thống kê
được sử dụng rộng rãi trong mọi công tác nghiên cứu kinh tế.
Nó được coi là một phương tiện tuyên truyền, một công cụ dùng để biểu dương
kết quả hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa thống kê
Đối với việc phân tích giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn 1997-
2007 ( kết quả hoạt động kinh tế theo thời gian) trong chuyên đề này thì việc sử dụng
đồ thị thống kê là rất cần thiết. Nó có tác dụng to lớn trong việc đưa ra một cái nhìn
tổng quát về kết quả của ngành thời gian qua.
b. Các loại đồ thị thống kê thường sử dụng
Trong thống kê dùng rất nhiều các loại đồ thị khác nhau. Người ta dựa vào các
tiêu thức để chia ra thành các loại. Mỗi kiểu đồ thị có một ý nghĩa và tác dụng nhất
định.Vì vậy không phải tất cả các loại đồ thị đều phù hợp cho việc phân tích GO
CN
. Ở
đây ta có thể chia thành các dạng đồ thị như sau:
Căn cứ vào hình thức biểu hiện: có
• Đồ thị đường
• Biểu đồ hình cột
• Biểu đồ hình tròn hay hình bánh
• Biểu đồ tượng hình
• Bản đồ thống kê
Căn cứ vào nội dung phản ánh: có các loại đồ thị sau
• Đồ thị phát triển: Đồ thị này dùng để biểu hiện tình hình phát triển của
một hiện tượng hay so sánh giữa các hiện tượng với nhau. Dạng đồ thị này có thể là
biểu đồ hình cột, biểu đồ hình tròn hay đồ thị tuyến tính.
• Đồ thị kết cấu: Là loại đồ thị dùng để biểu hiện kết cấu và biến động kết
cấu của hiện tượng. Dạng này thường dùng các loại biểu đồ hình cột và hình tròn
• Đồ thị liên hệ: Là loại đồ thị dùng để biểu hiện mối liên hệ giữa hai tiêu
thức ( mối liên hệ nguyên nhân- kết quả ) và người ta thường dùng đồ thị đường.
c. Những yêu cầu đối với việc xây dựng đồ thị thống kê
Để xây dựng một đồ thị thống kê thật chính xác, dễ xem, dễ hiểu và đẹp thì
không phải là một điều dễ dàng. Muốn đảm bảo được những yêu cầu này, chúng ta
phải chú ý đến những yếu tố chính của đồ thị, như:
• Quy mô của đồ thị: ở đây muốn đề cập đến to hay nhỏ, lớn hay bé, ta phải
căn cứ vào mục đích sử dụng. Trong các đoán cáo phân tích không nên vẽ các đồ thị
quá lớn.
Nguyễn Thị Thắng Thống kê 46A
25