Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SÁNG KIẾN vĩ đại của c mác về GIÁ TRỊ THẶNG dư ý NGHĨA của nó TRONG XEM xét ĐÁNH GIÁ bản CHẤT bóc lột của CHỦ NGHĨA tư bản HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.63 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN VĨ ĐẠI CỦA C.MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ
GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG VIỆC XEM XÉT, ĐÁNH GIÁ BẢN
CHẤT BÓC LỘT CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY
C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin đã để lại cho nhân loại kho tàng lý luận
khổng lồ trên hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thật khó có một ai
khẳng định rằng mình đã đọc được hết toàn bộ những tác phẩm của các ông.
Cũng khó có một tác giả nào dám tuyên bố rằng mình đã đưa ra một định nghĩa
về chủ nghĩa Mác-Lênin một cách hoàn chỉnh nhất, phản ánh được đầy đủ nhất
những tư tưởng chủ yếu của các ông.Kinh tế chính trị Mác-Lênin do C.Mác và
Ăngghen sáng lập, được Lênin phát triển trong điều kiện lịch sử mới nên
thường gọi là kinh tế chính trị Mác-Lênin. Đó là một trong ba bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và kinh tế
chính trị Mác-Lênin nói riêng xuất hiện trong hoàn cảnh:
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, CNTB đã giành địa vị thống trị, quan hệ sản xuất
TBCN được xác lập hoàn toàn ở nhiều nước Tây Âu. Điều đó đặt ra hàng loạt
vấn đề cần nhận thức, giải thích như quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài
người, các phương thức sản xuất thay thế nhau bắt nguồn từ sự thay đổi của lực
lượng sản xuất, các quy luật vận động trong xã hội TBCN, hậu quả của nền sản
xuất dựa trên kỹ thuật cơ khí đối với xu hướng phát triển của nền kinh tế
TBCN,..Trong xã hộ tư bản có hai giai cấp cơ bản vàcuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, mâu thuẫn xã hội trở
nên sâu sắc, quyết liệt. Giai cấp vô sản cần có lý luận khoa học soi đường.
Vào thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt dược những thành tựu khoa học xã hội to
lớn, đặc biệt là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học tư sản cổ diển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Đây chính là các nguồn gốc lý luận của chủ
nghĩa Mác..Kinh tế chính trị học do C.Mác vàPh.Ăng – ghen sáng lập là một
bước biến đổi cách mạng trong luĩnh vực khoa học kinh tế, dựa trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc các nhân tốt khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ
1



điển Anh. Tiêu biểu là những nhà kinh tế Adam Smith, David Ricardo,
W.Petty…
C.Mác (1818-1883) là nhà kinh tế học Đức, xuất thân từ gia đình trạng sư có
truyền thống học vấn. Năm 1836, C.Mác học khoa luật Trường đại học Berlin,
năm 1841 nhận học vị tiến sĩ triết học, năm 1842 bắt đầu nghiên cứu khoa học
và hoạt động xã hội.C.Mác có công lao to lớn trong việc phát triển khoa hoạc
kinh tế. Ông viết hàng loạt tác phẩm có giá trị mà thành tựu vĩ đại nhất là bộ
“Tư bản”. Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn viết chung nhiều tác phẩm quan
trọng khác.
Công lao của C.Mác trong lĩnh vực khoa học kinh tế là:Ông là người đầu tiên
phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá và nghiên cứu sự
phát triển của các hình thái giá trị. Đó là cơ sở, là chìa khoá để xây dựng và
hoản chỉnh lý luận về hàng hoá, giá trị và tiền tệ, giải thích một cách khoa hoặc,
triệt để nguồn gốc, bản chất của tiền tệ. Xây dựng lý luận về hàng hóa, sức lao
động, đây là cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, là thành tựu vĩ đại
của kinh tế học mác-xít. Trên cơ sở đó, ông phát triển toàn diện hệ thống phạm
trù, quy luật kinh tế của phương thức sản xuất TBCN và các mâu thuẫn nội tại
của nó. Thực hiên việc phân chia tư bản thành hai bộ phận là tư bản bất biển và
tư bản khả biến. Đó là cơ sở để giải thích nguồn gốc, sự hình thành giá trị thặng
dư.Ông đã hoàn chỉnh lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội (chia tổng sản phẩm
xã hội thành ba phần: tư bản bất biến, tư bản khả biến, giá trị thặng dư, chia nền
sản xuất xã hội thành hai khu vực: sản xuất TLSX và sản xuất vật phẩm tiêu
dùng, mối liên hệ và trao đổi giữa hai khu vực về giá trị và hiện vật), và nhiều
vấn đề khác. Nhờ đó, C.Mác đã đưa KTCT tới đỉnh cao khoa học.
Về phương pháp luận có điểm nổi bật là:C.Mác phát hiện phạm trù “quan hệ
sản xuất” và coi đó là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học.Áp dụng
phương pháp biện chứng duy vật mà biểu hiện cụ thể thể là sử dụng có hiệu quả
phương pháp trừu tượng hoá khoa học trong nghiên cứu kinh tế chính trị học.
2



Trong điều kiện lịch sử mới.Lênin đã soạn thảo học thuyết về CNTB độc
quyền, phát hiện bản chất kinh tế qua những đặc điểm cơ bản của nó, xác định
xu hướng lịch sử của CNTB. Trên cơ sở những luận điểm có tính nguyên tắc
của C.Mác và Ph.Ăngghen về kinh tế chính trị XHCN, Lênin thông qua hoạt
động thực tiễn cở điều kiện nước Nga đã xây dựng cơ sở kinh tế chính trị của
thời kỳ quá độ lên CNXH được biểu hiện tập trung ở chính sách kinh tế mới
(NEP)…
Có lẽ sẽ chẳng có vấn đề gì cần bàn nếu không có sự sụp đổ ghê gớm, thảm
hại như vừa qua của các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô, nếu không có sự
tấn công điên cuồng, hả hê cuả các lực lượng thù địch đối với chủ nghĩa MácLênin nói chung và kinh tế chính trị của Mác nói riêng, và nếu không có cả sự
nghi ngờ, hoang mang trong bộ phận rất lớn dân cư, những người đã từng ủng
hộ chủ nghĩa Mác-Lênin chung và kinh tế chính trị Mác nói riêng thậm chí cả
những người Mác xít. Có phải chủ nghĩa Mác – Lênin, và những giá trị kinh tế
của Mác đã hết thời, sụp đổ, đã bị chôn vùi vĩnh viễn? Có phải loài người đi vào
thế kỷ 21 với hành trang không có chủ nghĩa Mác- Lênin và những lý luận kinh
tế của Mác? Phải chăng từ trước đến nay chúng ta đã mù quáng tin theo một chủ
nghĩa, học thuyết sai lầm…? Hàng loạt vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải nghiên
cứu, và nhận thức cho đúng chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung và kinh tế chính trị
của Mác nói riêng không phải dễ.Ở đây, trong phạm vi khoa chuyên nghành và
môn học, bản thân không thể và không có khả năng giải đáp toàn bộ những vấn
đề đặt ra với chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và kinh tế chính trị của Mác nói
riêng mà chỉ đi sâu làm rõ một trong hai phát minh khoa học vĩ đại nhất của
Mác đó là học thuyết giá trị thặng dư và dưới ánh sáng của học thuyết giá trị
thặng dư để khẳng định bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản
ngày nay không hề thay đổi.

3



Học thuyết giá trị thặng dư là một phát hiện vĩ đại thứ hai của Mác – như
Ăng ghen đã đánh giá. Để có được phát hiện này, Mác đã phải bỏ ra 25 năm lao
động nghiêm túc và trung thực, mổ xẻ phân tích nền kinh tế TBCN và cho ra
đời Bộ Tư bản. “Bộ Tư bản” đã bóc trần những bí ẩn của một cực là sự làm
giàu và một tính chất vĩnh cửu, tính chất tiền định thần thánh về sự tồn tại của
CNTB thông qua học thuyết về giá trị thặng dư. Học thuyết này đã chỉ cho giai
cấp vô sản thấy rằng nó vừa phải tiến hành đấu tranh không ngừng để cải thiện
đời sống, vửa phải tập hợp lực lượng thành tổ chức vững mạnh, nhằm thực hiện
thủ tiêu cơ sở của sự bóc lột, nghĩa là giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nền sản
xuất TBCN giữa một bên là tính chất xã hội của nền sản xuất, trình độ xã hội
hoá cao của quá trình sản xuất và bên kia là sự chiếm hữu tư nhân TBCN các
sản phẩm lao động và tư liệu sản xuất mà biểu hiện quan trọng nhất của mâu
thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Học thuyết
về giá trị thặng dư như vậy đã vạch rõ qui luật riêng biệt của sự vận động các
phương thức sản xuất TBCN và của cả xã hội tư bản nói chung.Một số người
cho rằng Smith đã tìm ra giá trị thặng dư khi ông nghiên cứu lợi nhuận và địa
tô. Những người chủ nghĩa xã hội không tưởng cũng đã dùng danh từ giá trị
thặng dư. Thom-xơn đã nói: Chế độ bóc lột xuất hiện thì giá trị thặng dư cũng
đã xuất hiện. Do đó có một số nhà kinh tế học tầm thường (ví dụ như Mác – đô
– nam) nói rằng: Mác vay mượn lý luận giá trị thặng dư của Thom-xơn và của
Rô-béc-tút.Mặc dù Mác có thể thừa kế nhưng trước Mác không có ai có được
khái niệm giá trị thặng dư bao gồm tất cả các loại thu nhập không lao động.
Không một ai giải thích được nguồn gốc của giá trị thặng dư trong sản xuất
hànghoá dưới sự tác động của quy luật giá trị.
Từ giữa thế kỷ XVII đến nay, các nhà kinh tế chính trị học tư sản trong
chừng mực nhất định đã nghiên cứu vấn đề giá trị thặng dư được tạo ra như thế
nào. Nhưng “tất cả các nhà kinh tế chính trị học đều phạm phải cái sai lầm là đã
không xét giá trị thặng dư dưới dạng thuần tuý, với tư cách là giá trị thặng dư
4



mà xét dưới hình thái đặc thù là lợi nhuận và địa tô”. Chẳng hạn như W.Petty và
trường phái trọng nông Pháp đã coi địa tô là hình thái chung của giá trị thặng
dư. A. Smith tuy là người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các phạm trù
lợi nhuận, địa tô và lợi tức, nhưng ông không coi bản thân giá trị thặng dư là
một phạm trù chuyên môn có hình thái đặc thù khác với lợi nhuận và địa tô . Về
sau Ricardo lại nghiên cứu sâu thêm các hình thái đặc thù này; nhưng ông chỉ
chú ý nghiên cứu mối quan hệ về lượng, lợi tức và địa tô và vẫn không phát
hiện ra phạm trù chung- giá trị thặng dư. Trong lịch sử các học thuyết kinh tế,
rất nhiều các nhà kinh tế phạm phải các sai lầm này. Không kể đến một số
nguyên nhân như học thuyết giá trị lao động của họ bị hạn chế về tính giai cấp
và thiếu tính khoa học, thì một nguyên nhân quan trọng khác là sự vận dụng sai
lầm phương pháp luận của họ được biểu hiện trên hai mặt: Thứ nhất, họ không
thể vạch ra tính quy định bản chất từ các hiện tượng kinh tế, “họ chộp lấy một
cách thô bạo những tài liệu do kinh nghiệm đem lại và họ chỉ quan tâm đến thứ
tài liệu này mà thôi”. Thứ hai, họ chỉ xem xét một cách cô lập các hiện tượng cá
biệt trong vận hành kinh tế, không thể vạch ra quan hệ nội tại của các hiện
tượng này và sự chuyển hoá quan hệ của chúng. Họ không thông qua bất cứ
khâu trung gian chuyển tiếp nào, mà lẫn lộn trực tiếp giá trị thặng dư với các
hình thái cụ thể của nó tức là lợi nhuận, lợi tức và địa tô, do đó nảy sinh một
loạt các vấn đề: Trình bày không mạch lạc, các mâu thuẫn không được giải
quyết và những điều nhảm nhí khác. Và chỉ đến khi Mác phát hiện ra lý luận giá
trị thặng dư thì mọi vấn đề khoa học, bản chất mới được làm sáng tỏ.Theo đánh
giá của V.I Lênin thì “Lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản của chủ
nghĩa Mác”.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách

5



mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ
vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chông chủ nghĩa tư bản.
Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính
trị Mác - Lênin. Các Mác đã nghiên cứu và đưa ra một số công thức tính toán
xung quanh khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông.
Nó được sử dụng để khẳng định lao động thặng dư của công nhân bị các nhà tư
bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản.Học thuyết giá trị thặng dư là phát
minh quan trọng thứ hai sau biện luận duy vật lịch sử của Marx. Nội dung chính
của học thuyết phát biểu rằng sản xuất và chiếm hữu giá trị thặng dư là hình
thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản xuất và chiếm hữu sản phẩm thặng
dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con người đối với hoạt động của
mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình, đối với người
khác.Trong học thuyết này Marx đưa ra công thức T-H-T’ (tiền-hàng hóa-tiền)
để minh họa cho sự biến đổi của vốn (tư bản) dạng tiền sang dạng hàng hóa và
cuối cùng quay trở lại dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT
(nghĩa là T’=T+ ΔT). Bởi tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi
thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động (theo Thuyết giá trị về lao động),
mà chủ yếu là lao động của người làm thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá
trị do lao động kết tinh. Tuy nhiên, giá trị này không được chia đều cho những
người trực tiếp làm ra nó, mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản.Khác với công
thức H-T-H (hàng hóa-tiền-hàng hóa) phản ánh chức năng trung gian của tiền
trong trao đổi, công thức T-H-T’ phản ánh sự luân chuyển và tự phát triển của
tư bản. Tư bản dưới dạng tiền trở thành một chủ thể tự thân, đối lập với sức lao
động, bóc lột sức lao động để nuôi lớn mình lên. Marx chỉ ra rằng đó là quy luật
vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Theo công thức đã dẫn thì
tư bản có khả năng lớn lên vô giới hạn. Tuy nhiên Marx cũng chỉ ra giới hạn
nhất định của phát triển tư bản do chi phối của quy luật lợi nhuận trung bình.
Lợi nhuận trung bình xảy ra do sự cạnh tranh tư bản giữa các ngành kinh tế

6


khác nhau. Mặc khác, do khả năng chi trả trong thị trường cho nhu cầu tiêu
dùng là có hạn, nên điều đó cũng kìm hãm tốc độ vận động của tư bản.
Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản
vay lãi có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến
thành T-T’..Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị
hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ
ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để
thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa
vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho
người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.Có thể lấy một ví dụ như
sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một giờ làm ra được giá trị
sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra
ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100 đồng. Số tiền chênh lệch
đó chính là giá trị thặng dư sức lao động.
Để có được một lý luân vĩ đại về giá trị thặng dư ,C.Mác đã phát hiện ra tính
hai mặt của sản xuất hàng hoá.Việc tìm phát hiện ra hai thuộc tính của hàng hoá
không phải chỉ đến C.Mác mới phát hiện ra. Trước C.Mác đã có nhiều người
phát hiện ra như: A.Smith, Đ.Ricardo v.v…Nhưng lao động nào tạo ra giá trị
thặng dư của hàng hoá thì trước C.Mác chưa có ai giải đáp một cách đầy đủ và
khoa học.C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá. C.Mác viết: “Tôi là người đầu tiên đã chứng minh một cách
có phê phán tính chất hai mặt ấy của lao động chứa đựng trong hàng hoá”. Đây
là điểm mấu chốt để nhận thức vai trò khác nhau của những nhân tố tham gia
vào quá trình sản xuất và tạo ra giá trị.Nhờ phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá, C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng: trong
quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c ) vào trong
sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v+m) và toàn bộ giá trị

hàng hoá gồm (c+v+m). Điều này cả A.Smith và Đ.Ricardo không vượt lên
7


được. Trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động và phát minh ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá, C.Mác đã giải quyết một cách triệt để hệ thống các
phạm trù và quy luật kinh tế khác.C.Mác đã vạch rõ chất của giá trị hàng hoá là
do lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hoá, đó là mặt đồng nhất của mọi lao
động và là cơ sở của sự trao đổi. Lao động cụ thể là lao động tạo ra giá trị sử
dụng của hàng hoá. Các loại lao động cụ thể khác nhau sẽ tạo ra các giá trị sử
dụng khác nhau, nhờ đó chúng có thể đứng đối diện với nhau. Như vậy C.Mác
là người đầu tiên vạch ra nguồn gốc hai thuộc tính của hàng hoá.Nhờ phát hiện
ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác là người đầu tiên chỉ ra
vai trò khác nhau của các nhân tố: lao động, đối tượng lao động, công cụ lao
động trong quá trình tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Ba nhân tố này có vai trò
khác nhau. Máy móc, công cụ lao động là phương tiện để tăng sức sản xuất lao
động. Lao động cụ thể của công nhan chuyển nguyên vẹn giá trị của tư liệu sản
xuất đã hao phí sang sản phẩm mới; còn lao động trừu tượng thì tạo ra giá trị
mới ngang bằng giá trị sức lao động (v) cộng với giá trị thặng dư (m). Như vậy,
trong điều kiện sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, lao động sống, lao động
trừu tượng của người công nhân tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Điều này các nhà kinh tế học trước C.Mác không làm được, vì họ chưa biết đến
tính hai mặt của lao động hàng hoá. Để giải thích nguồn gốc giá trị thặng dư, họ
đã phải viện đến sự vi phạm quy luật giá trị. Do đó, họ chỉ chú ý đến các hình
thái riêng biệt của giá trị thặng dư, mà chưa tìm ra nguồn gốc, bản chất và mối
liên hệ của các phạm trù đó. Chỉ đến C.Mác, mọi bí mật về giá trị thặng dư đã
được vạch ra. Đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị, bằng phát hiện ra tính hai
mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác đã chỉ ra giá trị thặng dư là do lao
động trừu tượng không được trả công của người công nhân làm thuê tạo ra, bị
nhà tư bản chiếm đoạt. Trong thực tế, giá trị thặng dư được biểu hiện dưới các

hình thái cụ thể của nó như lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi
tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa.

8


Như vậy chỉ đến C.Mác, bằng phát minh ra tính chất hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá mới làm cho lý luận giá trị và giá trị thặng dư được giải quyết
một cách triệt để.Vì vậy, học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng của toàn bộ
học thuyết kinh tế của C.Mác và chính trên cơ sở lý luận rất khoa học C.Mác đã
xây dựng nên lý luận về lợi nhuận, về địa tô, về lợi tức ngân hàng, về lợi nhuận
thương nghiệp..Do đó, nếu bác bỏ được lý luận giá trị thặng dư sẽ đánh đổ được
toàn bộ học thuyết kinh tế của C.Mác, từ đó tước bỏ được vũ khí lý luận cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện mưu đồ dập tắt
phong trào cách mạng trên hành tinh của chúng ta.
Ngày nay, dưới ánh sáng của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, chúng ta
xem xét đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại trong điều kiện cách mạng khoa
học-công nghệ, xét về mặt lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản hiện đại khác
xa với thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.Vậy, học thuyết giá trị thặng
dư của C.Mác có còn là giá trị thặng dư nữa không? Đó là câu hỏi lớn cần phân
tích, giải đáp vì nó mang tính thời đại rộng lớn và sâu sắc. Nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung và bóc lột giá trị thặng dư của chủ
nghĩa tư bản nói riêng, C.Mác đã khẳng định: “Khi phân tích những hình thái
kinh té người ta không thể dung kính hiển vi hay những chất phản ứng hoá học
được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai cách đó. Cần nhớ rằng, trừu
tượng hoá khoa học của C.Mác không phải là thoát ly hiện thực mà là phương
pháp quan trọng nhất để phản ánh bản chất hiện thực. Vì như Ph.Ăngghen đã
nói: “Mác tóm tắt nội dung nằm trong các vật và các mối quan hệ thành một
biểu hiện tư tưởng khái quát, do đó sự trừu tượng của ông chỉ là sự phản ánh
dưới hình thức tư tưởng, các nội dung luôn luôn nằm trong các sự vật

đó”.Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong điều kiện hiện nay,
cần nhớ lời dặn sau đây của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận Mác như
là một cái gì đó xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng
lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
9


nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc
hậu đối với cuộc sống”
Kể từ những năm 50 của thế kỷ XX, dưới sự tác động của cách mạng khoa
học công nghệ, lực lượng sản xuất (LLSX) và phân công lao động xã hội trên
phạm vi thế giới đã có bước phát triển nhảy vọt. Điều đó đã thúc đẩy chủ nghĩa
tư bản (CNTB) có những điều chỉnh thích nghi cả về LLSX và quan hệ sản xuất
(QHSX) để tiếp tục tồn tại và phát triển. Trước thực trạng đó đã xuất hiện một
số khuynh hướng tư tưởng khác nhau trong xem xét, đánh giá thậm chí có quan
điểm đã cho rằng: CNTB ngày nay là một giai đoạn hoàn toàn mới về chất trong
sự vận động phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN);
CNTB không còn là chủ nghĩa đế quốc nữa, nó đang tiến dần đến chủ nghĩa xã
hội? Thực tế có đúng là CNTB ngày nay đã có sự thay đổi vè bản chất, nó
không còn là chế độ xã hội tồn tại dựa trên bóc lột lao động làm thuê bằng
phương thức bóc lột giá trị thặng dư?Phân tích nền sản xuất TBCN, C.Mác đã
đưa ra kết luận: Bóc lột giá trị thặng dư là qui luật tuyệt đối của CNTB. Kết
luận của C.Mác vẫn tuyệt đối đúng với CNTB ngày nay, dù cho nó đã có những
phát triển, biến đổi thích nghi nhiều so với thời của C.Mác.Khi phân tích về sự
bóc lột giá trị thặng dư, C.Mác đã phát hiện ra rằng, điều kiện có tính chất quyết
định để tiền trở thành tư bản là lao động phải trở thành hàng hoá. Khám phá
quan trọng này đã giúp C.Mác có được chìa khoá để lý giải mâu thuẫn của công
thức chung tư bản. Đồng thời, bằng việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hoá, C.Mác đã di đến khẳng định nguồn gốc duy nhất của
giá trị thặng dư là lao động của công nhân làm thuê. Trong quá trình lao động,

người công nhân đã tạo ra một giá trị mới khong những đủ bù đắp giá trị sức lao
động của mình mà còn tạo ra một giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Toàn bộ hoạt
động kinh doanh TBCN dù trong lĩnh vực hoạt động chiếm lĩnh nào cũng đều
hướng tới việc chiếm lĩnh giá trị thặng dư và từ đó, C.Mác cho rằng sản xuất giá
trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của CNTB. Ở đâu, khi nào còn sự tồn tại của
10


phương thức sản xuất TBCN thì ở đó còn sự tồn tại của phương thức bóc lột giá
trị thặng dư; và ngược lại ở đâu, khi nào còn sự tồn tại của kiểu bóc lột giá trị
thặng dư thì ở đó, khi ấy có sự biểu hiện của phương thức sản xuất TBCN.
CNTB ngày nay vẫn tuân theo quy luật tuyệt đối này. Mặc dù hiện nay
chúng đã có những biến đối thích nghi trên cả LLSX và QHSX, đã làm cho
quan hệ bóc lột TBCN trở nên phức tạp hơn, tinh vi hơn, song bản chất bóc lột
đó vẫn không hề thay đổi; tuy giữa các nhà tư bản vẫn luôn diễn ra cuộc đấu
tranh để cướp giật và tranh giành tài sản của nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng xét
đến cùng, toàn bộ xã hội tư bản vẫn lấy việc săn đuổi giá trị thặng dư do công
nhân, những người lao động làm thuê sáng tạo ra để tồn tại và phát triển. C.Mác
đã có một nhận xét tinh tế rằng, những nhà tư bản không thể làm giầu trên lưng
giai cấp của mình được.Chúng ta biết rằng, ở thời C.Mác. cơ sở vật chất và trình
độ phát triển của LLSX còn rất thấp, ngày nay cơ sở vật chất kỹ thuật và trình
độ kỹ thuật công nghệ đã phát triển lên một trình độ mới. Công cụ lao động, hệ
thống dây chuyền sản xuất đạt tới trình độ tự động hoá cao, sự hoạt động của hệ
thống máy móc đều được vận hành thông qua bộ phận xử lý thông tin, điều
khiển tự động. Trong các bộ phận cấu thành công cụ lao động thì bộ phận “vi
xử lý” và “phần mềm” ngày càng có vai trò quyết định tới hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Những thành tựu trong phát triển LLSX mà CNTB đạt được trong
hơn nửa thế kỷ qua, phản ánh năng lực sáng tạo của con người thạt là to lớn và
kỳ diệu. Nhưng trong khuôn khổ nền sản xuất TBCN, giai cấp tư sản luân triệt
để lợi dụng những thành tựu đó để thực hiện tái sản xuất mở rộng TBCN, điều

đó cũng đồng nghĩa với việc mở rộng qui mô và nâng cao trình độ bóc lột lao
động làm thuê. Tỷ suất giá trị thặng dư của CNTB ngày nay ngày càng nâng cao
(ở Nhật 700%, Tây Âu 450%-500%...)
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy CNTB có sự điều chỉnh
về cơ cấu ngành kinh tế theo hướng mở cửa, hiện đại, hiểu quả, khai thác triệt
để các yếu tố lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành
11


kinh tế đã làm cho cơ cấulao động và việc làm cũng có sự biến đổi mạnh mẽ
theo hướng: lao động trí óc, lao động có tay nghề cao, lao động trong các ngành
dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ lớn; lao động giản đơn, lao động trực tiếp trong
các ngành sản xuất vật chất ngày càng giảm cả tương đối và tuyệt đối. Cách
mạng khoa học – công nghệ hiện đại đề cao vai trò của con người trong nền sản
xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển cuả LLSX. Song chính sự thay đổi của LLSX
dưới tác động của cách mạng khoa học hiện đại lại đang tạo thêm các điều kiện
mới để nhà tưbản và toàn bộ giai cấp tư sản tăng cường bóc lột lao động làm
thuê bằng cả hai phương pháp: bóc lột giá trị thặng tương đối và bóc lột giá trị
thặng dư tuyệt đối. Điều đó càng khẳng định vai trò không thể thay thế của
người lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.LLSX phát
triển, buộc giai cấp tư sản và nhà nước của nó phải có những điều chỉnh thích
nghi về mặt QHSX để tiếp tục mở đường cho LLSX phát triển. Mục đích của sự
điều chỉnh thích nghi về QHSX là nhằm tiếp tục duy trì và củng cố chế độ
chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất; khai thác tối đa nguồn lực con
người phục vụ cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư
sản; đảm bảo cả lợi ích trước mắt lẫn lâu dài cho nhà tư bản. Việc điều chỉnh về
mặt QHSX trong CNTB ngày nay được thực hiện thông qua các biện pháp như:
đẩy mạnh cổ phần hoá tư bản bằng cách chuyển các công ty tư nhân thành các
công ty cổ phần; thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu; tăng cường vai trò
kinh tế của nhà nước; khai thác tối đa nguồn lực con người bằng việc mở rộng

hình thức tự quản; dung một phần lợi nhuận thu được phân phối lại cho người
lao động làm thuê dưới hình thức tăng lương, thưởng, trả lợi tức cổ phiếu, thăm
hỏi khi ốm đau.v.v.Sự điều chỉnh thích nghi về QHSX của CNTB hiện đại, một
mặt đã mở đường và tạo môi trường mới cho sự phát triển LLSX, mặt khác
củng cố cơ sở kinh tế - xã hội để kéo dài sự tồn tại và phát triển của CNTB.
Nhưng về bản chất, QHSX TBCN vẫn không hề thay đổi. CNTB ngày nay vẫ là
chế độ xã hội dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và
bóc lột lao động làm thuê; vẫn là sự bóc lột, thống trị của các tổ chức tư bản độc
12


quyền mà trung tâm là tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính đối với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Sự điều chỉnh của QHSX TBCN chỉ là những hình
thức mới của “chế độ tham dự” mà giai cấp tư sản sử dụng để tăng cường bóc
lột người lao động phục vụ lợi ích của bọn độc quyền và kéo dài sự tồn tại của
chúng.Mục đích trực tiếp của nền sản xuất TBCN ngày nay vẫn là giá trị thặng
dư. Đó cũng là động lực cảu nền sản xuất TBCN ngày nay. Và khát vọng chạy
theo giá trị thặng dư của giai cấp tư sản còn tăng lên. Sự giàu có của giai cấp tư
sản ngày nay,so với thời C.Mác đã tăng lên hàng ngàn, hàng vạn lần. Nhưng
điều đó đối với họ vẫn chưa thể thoả mãn. Khẩu hiệu làm giàu và làm giàu hơn
nữa vẫn là lẽ sống của nhà tư bản. Trình độ bóc lột của tư bản ngày này càng
tăng, sự phụ thuộc của lao động vào tư bản ngày càng nặng nề hơn.Qui mô bóc
lột của CNTB ngày nay cũng đã mở rộng ra rất nhiều, không chỉ trong nước mà
còn trên phạm vi thế giới nhờ những thời cơ của xu thế toàn cầu hoá kinh tế
mang lại. Đội ngũ những người lao động làm the cho giai cấp tư sản cũng phát
triển nhiều so với thời của C.Mác, ngoài công nhân trực tiếp sản xuất còn có
những người lao động thuộc các lĩnh vực quản lý, khoa học, công nghệ, dịch vụ,
tư vấn.v.v…Tất cả tập hợp trong đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản và tạo ra
ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho giai cấp này.
Những cách thức và phương tiện, phương pháp để đạt được mục đích của

nền sản xuất TBCN là giá trị thặng dư ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt dựa
vào sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện đại, sự phát triển của tế
thị trường, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Mỗi bước tiến bộ
và thành tựu đạt được của nhân loại trong các lĩnh vực naỳh đều được giai cấp
tư sản nhanh chóng và triệt để biến thành công cụ và tài sản của riêng họ để
thực hiện mục đích bóc lột giá trị thặng dư.
Với những phân tích trên đây chúng ta có thể khẳng định, ngày nay bộ mặt
của CNTB tuy đã có nhiều thay đổi, thậm chí thay đổi rất nhiều so với thời kỳ
C.Mác nghiên cứu, làm cho việc nhìn nhận đánh giá về nó trở nên khó khăn
13


hơn, phức tạp hơn. Song dưới ánh sáng của học thuyết giá trị thặng dư- một
trong hai phát minh khoa học vĩ đại nhất của C.Mác cho tư tưởng của nhân loại,
chúng ta hoàn toàn khẳng định rằng bản chất của CNTB ngày nay vẫn không hề
thay đổi.
Từ những sự luận giải về học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác như trên
cho thấy, đứng như Stephan Mácghin, giáo sư đại học Havớt (Mỹ) đã viết:
“Bằng sự phân tích có tính chất phê phán,C.Mác – một nhà nghiên cứu vĩ đại –
đã góp phần xác định chương trình nghị sự của thời đại. C.Mác vẫn đang tác
động tới tư duy hiện đại về lịch sử và kinh tế. Trong sự nghiệp đổi mới nền kinh
tế của đất nước hôm nay, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, học thuyết giá trị
thặng dư nói riêng, là cơ sở lý luận giúp chúng ta có tư duy đúng về cách giải
quyết các mối quan hệ kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân như: quan hệ về
giá trị và tỷ giá giữa hàng công nghiệp với hàng nông sản; quan hệ giữa xuất
khẩu và nhập khẩu. Đặc biệt là trong việc hoạch định mở rộng kinh tế đối ngoại
sao cho đưa nền kinh tế nước nhà nhanh chóng hội nhập vào kinh tế thế giới
nhưng tránh được ảnh hưởng và sự tác động của “giá cánh kéo” để đưa đất nước
thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển vào đầu thế kỷ XXI.


14



×