Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI tốt NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.93 KB, 48 trang )

Đề cương ôn thi tốt nghiệp môn cnxhkh
Câu 2: Làm rõ những đặc điểm cơ bản giai đoạn hiện nay của thời đại hiện nay. Rút ra
ý nghĩa (sách 135 – 137 ) câu vừa thi xong của phân đội
- Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đang diễn ra gay go, phức tạp.
- CNTB hiện đại đang có nhiều ưu thế và còn khả năng phát triển nhất định, nhưng
không thể khắc phục được những mâu thuẩn cơ bản vốn có, con đường diệt vong là không
thể tránh khỏi.
- CNXH tạm lâm vào thoái trào nhưng đang có sự phục hồi và tạo bước tiến mới.
- Cách mạng KHKT và công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao, kinh tế tri
thức ra đời, giữ vai trò ngày càng quan trọng.
- Cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu.
- Khu vực châu Á – TBD đang là khu vực phát triển năng động, khả năng phát triển
với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định
Ý nghĩa
1. Thời đại là cơ sở lý luận về đặc điểm tình hình chính trị xã hội để xây dựng chiến
lược cách mạng, sách lược cách mạng
2. Là nhân tố cấu thành của chiến lược kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài
3. Dựa trên cơ sở nội dung, tính chất, những mâu thuẫn và xu thế cơ bản của thời đại để
hoạch định chính sách xã hội cụ thể đối với các giai tầng trong xã hôi, vừa đảm bảo tính định
hướng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta
4. Trên cơ sở đó, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, định hướng cụ thể của nhà nước trong
quả trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Câu 6: Lý luận cách mạng không ngừng CN Mác – Lê nin và sự vận dụng ở Việt Nam.
a. Lý luận CM không ngừng Chủ Nghĩa Mác Lê Nin
* Tư tưởng về cách mạng không ngừng của C các - Ph . Awngghen.
- Cách mạng của GCCN phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
trong phạm vi một nước cũng như trên toàn thể giới.
- Mỗi g.đoạn có những yêu câu và nhiệm vụ cụ thể tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
1




- Các quốc gia còn tồn tại chế độ quân chủ phong trào công nhân chưa đủ mạnh, lúc đầu GCCN
với tư cách là lực lượng CT-XH độc lập phải chủ động tích cực tham gia vào cuộc cách mạng
dân chủ do GCTS lãnh đạo để đánh đổ chế độ quân chủ. Sau đó GCCN liên minh với các tầng
lớp NDLĐ, trước hết là nông dân chuyển sang đấu tranh chống lại GCTS và các thế lực đại diện
cho chúng.
- Trong lời kêu gọi của Uỷ ban TW gửi Đồng minh những người cộng sản 1850, C. Mác - Ph
ăng ghen: "Lợi ích của chúng ta là phải làm cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng,
cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước,
cho đến khi chúng ko những ở một nước mà ở tất cả mọi nước thống trị trên thế giới, các hội
liên hiệp những người vô sản do tiến bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh tranh giữa những
người vô sản ở các nước đỏ. và ít nhất là tập trung nhưng lực lượng san xuất quyết định vào tay
mình" Hay C Mác còn nói. Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng
* Sự phát triển của V.I.Lê Nin
Điều kiện lịch sử thế giới:
- CNTB chuyên thành CNĐQ
- GCTS trở thành giai cấp phản động bỏ rơi ngọn cờ dân chủ, tiến hành những cuộc chiến
tranh x.lược biến những nước lạc hậu thành thuộc địa của chúng.
- Trong phong trào công nhân đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội.
Nước nga:
- Nước Nga vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là nơi tập trung mâu thuẫn, là khâu yếu
nhất trong dây chuyền của CNĐQ
- Lênin: GCCN Nga phái nên lấy ngon cờ cách mạng DCTS hay còn gọi là cách mạng
DCTS kiêu mới tiến hành cách mạng một cách triệt để thực hiện chuyển biến lên CMXHCN.
Cách mạng DCTS kiểu mới là màn mở đầu để chuyển lên CMXHCN. CMDCTS kiêu mới và
CMXHCN là hai giai đoạn khác nhau nhưng cùng nằm trong mọt quá trình vận động không
ngừng, giữa chúng có sự gắn kết, không có bức tường nào ngăn cách cả. Thắng lợi của cách
mạng dân chủ nhân dân là tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
Điều kiện đẽ thực hiện sự chuyển biến từ CMDCTS kiêu mới lên CMXHCN:

- GCCN thông qua chính đảng của minh phải giữ v.trò l.đạo trong suốt quá trình cách mạng
- Phải củng cố tăng cường khối liên minh công công vững chắc
- Chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân, nông dân phải thực hiện nhiệm vụ
lịch sử của CCVS.
b. Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng ở Việt Nam
- Thực tiễn Việt Nam XIX - XX là sự áp bức. bóc lột của thực dân phong kiến đối với quân
chúng NDLĐ vô cùng dã man, tàn bạo;
- Phong trào đấu tranh theo xu hướng tư sản và phong kiến đều thất bại.
- Hồ Chí Minh "Cho có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức "
2


Tuyên truyền CNMLN, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam thoát khỏi sự khủng
hoảng về đường lối, kết hợp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp những người lao động.
- Tính tất yếu chuyển tự cách mạng dân tộc dân chú nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc và CNXH không tách rời nhau và khí GCCN thông qua đội tiên phong là ĐCS
giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng DTDCND là sự bắt đầu của cách
mạng XHCN. “Cách mạng Việt Nam trãi qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng xã hội chủ nghĩa là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm
bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
Câu 7: phân tích lý luận CCVS trong tác phẩm CMVS và tên phản bội cauky?
I. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
- 10/1917, cách mạng XHCN bùng nổ và thắng lợi ở nước Nga. Khi Lênin vìết tác phẩm này,
chính quyền Xô viết đứng vững được một năm, nhưng đang trong sự thử thách lớn.
- Do ảnh hưởng của cách mạng tháng 10, 1918 các Đảng cộng sản được thành lập ở Đức, Phần
Lan, Áo, Hung, Ba Lan, Hy Lạp, Hà Lan. Đây là thời kỳ diễn ra quá trình có ý nghĩa lịch sử to
lớn: quá trình đi tới thành lập một tổ chức quốc tế mới của GCCN quốc tế cộng sản - thay cho
quốc tế II đã phá sản. Nét nổi bật là song song với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần
chúng lao động ở các nước tư bản, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước

thuộc địa và phụ thuộc cũng lên cao.
- CNĐQ và các thế lực phản động càng ngày càng tăng cường đối phó bằng những thủ đoạn
nham hiểm nhất. Kẻ giúp ích đắc lực cho chúng là chủ nghĩa cơ hội. Một trong những phần tử
cơ hội nguy hiểm nhất và là một trong những lãnh tụ của quốc tế II, một trong những lãnh tụ
của Đảng xã hội dân chủ Đức, là Causky.
- Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, do không vững vàng về lập trường, do bị chi phối bởi
những trào lưu tư tưởng phi vô sản, Causky dần dần xa rời chủ nghĩa Mác đã chạy sang mặt
trận của kẻ thù, công khai chống lại chủ nghĩa Mác. Causky đã xuyên tạc học thuyết Mác Lênin về Nhà nước và đã công khai chống lại tư tưởng cách mạng vô sản và chuyên chính vô
sản, Causky đã viết cuốn “Bàn về chuyên chính vô sản”.
II. Nội dung của tác phẩm
1. Về vấn đề chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng
- Khi vấn đề chính quyền đã được đặt ra như một mục tiêu trước mắt, thì có nghĩa là đã đặt cho
giai cấp vô sản vấn đề lựa chọn giữa nền dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản. Lênin chỉ rõ:
3


“Vấn đề chuyên chính vô sản là vấn đề thái độ của nhà nước vô sản đối với nhà nước tư sản,
của chế độ dân chủ vô sản đối với chế độ dân chủ tư sản”.
- Chính vào lúc đó Causky đưa ra cái gọi là “dân chủ thuần tuý” nhằm tô son trát phấn cho nền
dân chủ tư sản, cho rằng nó là nền dân chủ cho mọi giai cấp, nó tồn tại vĩnh viễn và ngày càng
hoàn thiện.
- Phê phán luận điệu nguy hiểm trên đây của Causky, Lênin chỉ rõ “Dân chủ thuần tuý” là một
quan niệm phản khoa học, dân chủ bao giờ cũng là một hình thái nhà nước và khi nó đạt tới
mức thuần tuý thì nó sẽ tiêu vong. “Dân chủ thuần tuý” là quan niệm phi giai cấp vì nó không
chỉ rõ dân chủ cho giai cấp nào. Thực ra chỉ có dân chủ tư sản hay dân chủ vô sản không có dân
chủ nói chung. Dân chủ tư sản xét về mặt lịch sử, 1à một bước tiến bộ lớn, so với chế độ, chế độ
phong kiến. Nhưng dân chủ tư sản chỉ là dân chủ hạn chế, dân chủ hình thức vì nó chỉ dân chủ
cho bọn giàu có và gạt bỏ quần chúng ra khỏi những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Nó tuyên bố quyền tự do dân chủ nhưng không những không có điều kiện để thực hiện quyền tự
do dân chủ ấy. Ngược lại nó còn đặt ra đủ thứ luật lệ để ngăn cản quần chúng thực hiện nền dân

chủ ấy. Những người lao động chỉ được tự do bề ngoài, thực sự họ bị cột chặt vào quan hệ chủ
thợ, quan hệ bóc lột và bị bóc lột bằng hàng ngàn sợi dây vô hình.
- Chính vì vậy mà Lênin cho rằng: “chế độ dân chủ thuần tuý chẳng qua chỉ là một câu nói giả
dối của một kẻ thuộc phái tự do tìm cách lừa bịp công nhân”. Vậy thì những người mác xít có
cần lợi dụng nền dân chủ tư sản không và lợi dụng nó như thế nào? Cần lợi dụng dân chủ tư sản
tức là biết nêu ra những khẩu hiệu dân chủ phản ánh nguyện vọng bức thiết của quần chúng;
biết lợi dụng những thiết chế dân chủ do giai cấp tư sản tạo ra mà thâm nhập vào quần chúng,
lôi cuốn họ, cô lập giai cấp tư sản đấu tranh chống những ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội trong
quần chúng; thông qua cuộc đấu tranh cho dân chủ mà tập dượt quần chúng, nâng họ lên trình
độ giác ngộ XHCH. Nhưng cần thấy rõ sự hạn chế của dân chủ tư sản không bao giờ tự giam
hãm mình trong nền dân chủ đó, mà phải biết tổ chức cuộc đấu tranh thủ tiêu nó, xây dựng một
nền dân chủ khác về chất.
- Vận dụng tư tưởng, của Lênin, ở các nước tư bản chủ nghĩa các Đảng cộng sản cần lãnh đạo
cuộc đấu tranh cho dân chủ. Nhưng không lúc nào được giam hãm mình trong hệ ý thức tư sản,
bằng lòng với dân chủ tư sản, coi đó là tuyệt đỉnh mà phải luôn luôn hướng về dân chủ vô sản nâng cuộc đấu tranh giành dân chủ lên cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội vì chỉ có CHXH
mới có dân chủ thực sự.
- Trong tác phẩm “chuyên chính vô sản”, Causky hoàn toàn phủ nhận bạo lực cách mạng.
Causky cũng phủ nhận việc dùng bạo lực để trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột sau khi
giai cấp vô sản đã nắm chính quyền, cho rằng dùng bạo lực là xoá bỏ dân chủ, là rơi vào những
biện pháp cực đoan. Vả lại khi giai cấp vô sản và quần chúng lao động đã trở thành đa số thì nói
đến sử dụng bạo lực là vô lý, là thừa. Tất cả những lập luận xét lại đó chỉ nhằm đi tới phủ nhận
sự cần thiết phải dùng bạo lực để đập tan nhà nước tư sản và thiết lập chuyên chính vô sản.
4


- Ở đây hiện ra ranh giới rõ rệt phân biệt bọn cơ hội và những người mác xít: bọn cơ hội có thể
thừa nhận đấu tranh giai cấp, nhưng với điều kiện là không động đến bộ máy nhà nước vốn là
công cụ thống trị của giai cấp tư sản. Còn đối với người mác xít thì đấu tranh giai cấp dẫn đến
việc giành chính quyền. Phê phán Causky Lênin đã chỉ rõ rằng bạo lực là tất yếu trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền. Giai cấp tư sản vốn có bạo lực trong tay. Chính nhờ bạo lực ấy chúng

giành được chính quyền từ tay phong kiến và duy trì được địa vị thống trị của chúng trước áp
lực đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Giai cấp tư sản
chiếm thiểu số trong xã hội chỉ có thể tồn tại ở địa vị thống trị nhờ có bạo lực. Do đó phải dùng
bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng của giai cấp tư sản.
- Lênin đã viết “Cách mạng vô sản không thể thành công được, nếu không phá hủy bằng bạo
lực bộ máy nhà nước tư sản”. Tuy nhiên, vấn đề giành chính quyền còn được đặt ra dưới khía
cạnh khác. Liệu có khả năng giành thắng lợi cho cách mạng bằng phương pháp hoà bình
không?
- Causky đã lợi dụng một cách xuyên tạc quan điểm của Mác nói về khả năng giành thắng lợi
cho cách mạng bằng phương pháp hoà bình ở nước Anh và Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ
XIX để bênh vực cho quan điểm phản động của y. Sự thật là điều mà Mác chỉ xem như ngoại lệ
thì Causky lại xem là qui luật.
- Lênin cho rằng khả năng giành thắng lợi cho cách mạng bằng phương pháp hoà bình đã xuất
hiện ở nước Anh, nước Mỹ những năm 70 của thế kỷ XIX vì lúc đó CNTB ở những nước này
còn đang phát triển một cách hoà bình, bộ máy quan liêu và chủ nghĩa quân phiệt chưa phát
triển. Những khi CNTB bước sang giai đoạn ĐQCN thì ở các nước đó, điều kiện đó không còn
nữa. Nhìn chung trong giai đoạn ĐQCN, khả năng giành thắng lợi cho cách mạng bằng phương
pháp hoà bình rất ít có khả năng xuất hiện, vì chủ nghĩa quân phiệt của nó thì phát triển đến cao
độ và phổ biến nhất.
- V.I.Lênin vạch rõ bản chất và ý nghĩa to lớn của chính quyền Xôviết với tính cách là một nền
dân chủ thật sự. Người chỉ ra rằng: “Chế độ dân chủ vô sản mà một trong những hình thức của
nó là chính quyền Xôviết - đã phát triển và mở rộng chế độ dân chủ một cách chưa hề thấy ở
một nơi nào trên thế giới, chính là vì lợi ích của tuyệt đại đa số dân cư, vì lợi ích của những
người bị bóc lột và lao động”. “Xô viết là tổ chức trực tiếp của chính quần chúng lao động và bị
bóc lột, tổ chức này tạo điều kiện thuận lợi cho họ có khả năng tự mình tổ chức và quản lý nhà
nước bằng mọi cách”.
- Lênin cho rằng: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ
hơn gấp triệu lần; chính quyền Xô viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân
chủ hơn gấp triệu lần”. Nền dân chủ tư sản ngày càng có xu hướng đi tới độc tài, chuyên chế.
Trái lại nền dân chủ vô sản ngày càng được mở rộng bao nhiêu càng đi đến chỗ tự biến dần, sự

tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nước.
5


2. Về vấn đề chiến tranh và chủ nghĩa quốc tế vô sản
3. Lý luận của V.I.Lênin về sự chuyển biến của cách mạng dân chủ - tư sản thành cách mạng
XHCH đã được tiếp tục luận chứng trong tác phẩm “Cách mang vô sản và tên phản bội
Causky”. V.I.Lênin đã lập luận một cách sâu sắc và chỉ rõ tầm quan trọng của các biện pháp
cách mạng của chính quyền Xôviết như quốc hữu hoá ruộng đất và quốc hữu hoá công nghiệp.
III. Ý nghĩa của tác phẩm
1.Những luận điểm trong tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội Causky” của V.I.Lênin
trở thành một bộ phận khăng khít của lý luận mác xít về cách mạng XHCH. V.I.Lênin đã khái
quát kinh nghiệm của cuộc cách mạng XHCH tháng Mười vĩ đại và những kinh nghiệm của
những năm đầu tiên của Chính quyền Xô viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích.
2. Tác phẩm “Cách mạng vô sản và tên phản bội Causky” của V.I.Lênin là tác phẩm nổi tiếng
mang tính Đảng, tính khoa học và tính chiến đấu. Nó là vũ khí lý luận của những người Mác xít
- Lênin nít trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, là chìa khoá để hiểu thực chất những đòn đả
kích hiện nay của kẻ thù đối với lý luận cách mạng, là tác phẩm chứa đựng những luận cứ xác
đáng về tính tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng vì CNXH
3. Tác phẩm đóng một vai trò to lớn trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
giúp cho các Đảng cộng sản và những người cộng sản những lời chỉ giáo có tính phương pháp
luận đối với việc tiếp thu một cách sáng tạo của cuộc cách mạng trước để làm giàu cho thực tiễn
đấu tranh cách mạng hiện nay.
Câu 11: Phân tích phương châm PP xây dựng NN ccvs trong tác phẩm thà ít mà tốt?
Tác phẩm Thà ít mà tốt có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng. Nó trang bị cho những người
cộng sản lý luận về xây dựng nhà nước Xô viết đứng vững và phát triển.
Thà ít mà tốt là một cống hiến lý luận của Lênin về xây dựng Nhà nước. Nội dung của tác phẩm
được Người đọc cho thư ký ghi lại trong nhiều ngày và hoàn thành vào ngày 2-3-1923, công bố
trên báo Sự thật số 49 ngày 4-3-1923.
I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm

- Mùa xuân năm 1921, Lênin đề ra chính sách kinh tế mới. Sau gần một năm thực hiện đã đem
lại nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế được phục hồi đáng kể, công, nông nghiệp có bước
phát triển mới mặc dù còn rất chậm. Điều đó đã tạo ra sự giao lưu hàng hóa từ thành thị đến
nông thôn, đã tạo được đà để chuyển sang phát triển nền kinh tế với tốc độ và quy mô lớn.
6


- Về mặt chính trị: Khối liên minh công – nông được củng cố, đó là thực chất chính trị của
Chính sách kinh tế mới. Thành phần trung nông có chuyên biến mới và có thái độ đúng về
chính quyền cách mạng rõ rệt hơn. Tầng lớp bóc lột nông thôn bị hạn chế đáng kể. Chính quyền
Xô viết được củng cố, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ đối nội, đối
ngoại được đặt ra hết sức to lớn: Về đối nội, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền kinh tế quốc dân, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân lao động củng cố liên minh
công - nông, bộ máy nhà nước, lực lượng quốc phòng, phòng ngừa nạn đói và sự khủng hoảng
tài chính có thể xảy ra; về đối ngoại, xóa thế bao vây kinh tế của đế quốc, làm dịu tình hình
khiến cho đế quốc không có thể tìm cớ gây ra chiến tranh.
Đặt vấn đề củng cố bộ máy nhà nước trong thời điểm này là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết, phù
hợp với quy luật khách quan.
II- Nội dung tác phẩm
1. Quan điểm của Lênin đánh giá nhà nước sau 5 năm Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công
- Lênin đánh giá đúng tính chất, bản chất, vai trò, ý nghĩa lịch sử trọng đại của nhà nước Xô
viết. Người khẳng định: Nhà nước Xô viết đã tạo ra một xã hội mới, một kỷ nguyên mới.
- Người viết: “Trong hàng mấy trăm năm nay người ta đã xây dựng lên những nhà nước theo
kiểu tư sản và đây là lần đầu tiên, chúng ta đã tìm ra một hình thức nhà nước không phải tư
sản… Dẫu cho bộ máy nhà nước của chúng ta còn kém cỏi, nhưng nó đã được sáng tạo ra, đó là
một phát minh lịch sử vĩ đại nhất, một nhà nước kiểu vô sản đã được sáng tạo ra”. Đồng thời,
Lênin không xem thường mặt yếu kém của bộ máy Xôviết sau 5 năm xây dựng và những
nguyên nhân của những yếu kém đó, những hạn chế đó là: quan liêu, thủ cựu, bảo thủ, không
muốn đổi mới cái gì cả.

- Đường lối mà Đảng Bônsêvích Nga đứng đầu là Lênin được đặt ra rất đúng đắn. Yếu tố quyết
định lúc này là tổ chức, bao gồm cả bộ máy tổ chức hoạt động thực tiễn. Năm 1923, Lê nin nói
nước Nga Xô viết còn xa mới mang đầy đủ tính chất chủ nghĩa xã hội vì bộ máy cồng kềnh, làm
việc thì quan liêu, đội ngũ cán bộ sính làm kế hoạch, chỉ đạo thực tiễn yếu, ba hoa, cách mạng
suông, xuất hiện bệnh tự mãn của người cộng sản, có cả phần tử xấu, cơ hội.
- Tại sao đến thời điểm này, Lênin quan tâm nhiều đến củng cố bộ máy nhà nước ? Sau Cách
mạng Tháng Mười, vấn đề này đã được đặt ra, nhưng lúc đó chưa có điều kiện giải quyết vì nội
chiến. Trải qua 5 năm củng cố nhưng không nắm chắc phương châm nên đến năm 1923 bộ máy
của nhà nước vẫn không đáp ứng được yêu cầu cách mạng mới.
- Người nói: “Thế là đã năm năm, chúng ta ra sức cải tiến bộ máy nhà nước của ta. Nhưng đó
chỉ là một hoạt động phí công, một hoạt động qua năm năm, đã chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng
7


hoạt động đó chỉ là vô hiệu, thậm chí còn vô ích, hay thậm chí còn có hại là khác”.
- Người nói: “Không, bộ máy ấy (bộ máy Xô viết - BT), có thể nói là chúng ta chưa có, và ngay
cả những yếu tố cho phép chúng ta xây dựng được bộ máy ấy, chúng ta cũng có ít ỏi đến nực
cười”.
- Nguyên nhân của nó bắt nguồn từ quá khứ, nhà nước tư sản bị lật đổ nhưng chưa hoàn toàn bị
tiêu diệt. Trình độ văn hóa của nhân dân quá thấp. Nội chiến lại diễn ra quá dài. Nhiều cán bộ
ưu tú của Đảng phải ra mặt trận, tạo ra chỗ hổng lớn ở địa phương. Trong hoàn cảnh đó, nhà
nước Nga phải sử dụng cả những chuyên gia tư sản trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và quân
sự.
2. Mục đích của việc cải tiến bộ máy nhà nước
Mục đích quốc gia: Nhằm bảo đảm cho nhà nước Xô viết thực sự xứng đáng với danh hiệu là
bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở có đầy đủ năng lực quản lý, đưa nhà nước Nga
từ sản xuất nhỏ, yếu kém, nông nghiệp lạc hậu tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Mục đích quốc tế: Củng cố bộ máy nhà nước là bài học có tính chất quốc tế, Lênin đã nêu ra hai
vấn đề:
- Với nền sản xuất tiểu nông, đất nước bị tàn phá, chính quyền Xô viết có thể đứng vững cho

đến khi cách mạng các nước khác có thể đứng vững được không?
-Liệu nước Nga Xô viết có thể tránh được sự xung đột với các nước đế quốc chủ nghĩa hay
không?
- Cách mạng Việt Nam thời gian qua đã phản ánh đúng nhưng tư tưởng vĩ đại đó của Lênin, đã
đứng vững và đang dốc toàn lực vào công cuộc đổi mới toàn diện, đưa đất nước vốn nghèo nàn
lạc hậu tiến lên một đất nước phồn vinh.
3. Yêu cầu và điều kiện cải tiến bộ máy Xô viết
- Phải xây dựng được một nhà nước thực sự trong sạch và gương mẫu.
- Nhà nước đó phải được xây dựng trên cơ sở vững chắc của khối liên minh công - nông. Liên
minh công - nông theo Lênin là phải có cái mới về số lượng và chất lượng. Nông dân phải được
hợp thành một giai cấp nông dân tập thể. Liên minh công - nông là liên minh chính trị bảo đảm
cho họ có quyền làm chủ.
- Nhà nước Xô viết phải gọn nhẹ, có hiệu lực. Cán bộ, viên chức trong bộ máy nhà nước phải có
phẩm chất và năng lực tốt. Lênin đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước.
8


Người nói: “Theo ý tôi, phải vĩnh viễn vứt bỏ ngay tất cả những tiêu chuẩn chung về số lượng
nhân viên của các cơ quan thuộc bộ ấy. Chúng ta phải lựa chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ
của Bộ dân ủy thanh tra công nông, căn cứ vào một sự kiểm tra nghiêm ngặt nhất, chứ không
khác được”. Phải qua thi cử và uy tín của bản thân. Người chỉ ra rằng, nên tập trung chọn vào
bộ máy nhà nước những cán bộ có kinh nghiệm ở các cơ quan cũng như trong số những sinh
viên các trường đại học Xô viết, lựa chọn cán bộ phải theo phương châm “Thà ít mà tốt” ít về số
lượng nhưng chất lượng phải cao.
- Phải đổi mới thành phần của bộ máy ấy bằng những lực lượng ưu tú của Đảng trong giai cấp
công nhân và giới tri thức. Vì thế, để đổi mùi bộ máy nhà nước, theo Lênin cần phải: “Một là
học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao cho học thức ở nước ta
không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa...”.
- Điều kiện để xây dựng bộ máy nhà nước ấy là:
Một là, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải có trình độ cần thiết, vì thế mỗi người

phải tự nỗ lực, cố gắng học tập để nâng cao trình độ.
Hai là, phải làm cho học thức đó không nằm trong giấy tờ hoặc chỉ là một lời nói theo mốt mà
phải coi nó là bộ phận khăng khít của cuộc sống, ra sức học tập để phục vụ lợi ích chung.
4. Phương châm và những phương pháp chủ yếu để củng cố bộ máy nhà nước
Phương châm: “Thà ít mà tốt”
- Cải tổ bộ máy nhà nước phải được tiến hành có trọng điểm, đó là Bộ dân ủy thanh tra công
nông.
- Tiến hành vững chắc; thận trọng; tránh lề mề, kém hiệu quả.
Biện pháp:
- Tăng cường công tác kiểm tra; củng cố quan điểm của Đảng và Nhà nước; lựa chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Cán bộ lãnh đạo phải là người cộng sản ưu tú, phải có thi khảo sát trình độ,
phải hiểu được quá trình vận hành của bộ máy nhà nước.
- Phải thanh lọc khỏi bộ máy nhà nước những kẻ quan liêu, những kẻ ăn hối lộ, những phần tử
lạc lõng khác.
- "Nên quan tâm chỉnh đốn bộ máy đó một cách thật đặc biệt chu đáo, quan tâm tập
trung cho Bộ Dân ủy thanh tra công nông một số nhân viên có phẩm chất cao, nghĩa là
không kém gì những nhân viên kiểu mẫu giỏi nhất ở Tây Âu" ;

(7)

9


- "Phải lựa chọn đặc biệt cẩn thận những cán bộ của Bộ Dân ủy thanh tra công nông, căn cứ vào một
số kiểm tra nghiêm ngặt nhất, chứ không khác được" ; (8)
- "Những công nhân mà chúng ta chỉ định là ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương phải là những người
cộng sản không thể chê trách được".
Lê-nin chỉ ra những biện pháp rất cụ thể để thực hiện như :
- "Mở ngay một cuộc thi soạn hai cuốn sách giáo khoa, hoặc nhiều hơn nữa, viết về tổ chức công tác
nói chung, và đặc biệt là về công tác quản lý". (9)

- "Cử một vài người có năng lực và tận tâm sang Đức hay sang Anh để sưu tầm tài liệu và nghiên
cứu vấn đề" (10) ;
- "Cử một tiểu ban chịu trách nhiệm thảo chương trình sơ bộ cho những kỳ thi tuyển người muốn vào
làm việc ở Bộ Dân ủy thanh tra công nông ; cũng như cho những người định tuyển vào chức vụ "ủy
viên Ban Kiểm tra Trung ương" (11) ;
- "Đồng thời phải cử ra một tiểu ban trù bị có trách nhiệm tìm những người để tuyển vào chức vụ ủy
viên Ban Kiểm tra Trung ương". (12)

III- Ý nghĩa của tác phẩm
Tác phẩm Thà ít mà tốt có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng. Nó trang bị cho những người
cộng sản lý luận về xây dựng nhà nước Xô viết đứng vững và phát triển.
- Thà ít mà tốt là di huấn chính trị có ý nghĩa quốc tế đối với cái đảng mácxít lêninnít lãnh đạo
chính quyền.
- Tác phẩm này của Lênin đã và đang tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động
thực tiễn của Đảng Cộng sản về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Thấm nhuần tư tưởng của Lênin, Đảng ta đã vạch ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
cải cách bộ máy nhà nước nhằm làm cho bộ máy nhà nước trong sạch và vững mạnh. Tình hình
chính trị phức tạp hiện nay càng đặt ra cho Việt Nam phải kiên trì con đường mình đã chọn.
- Khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã vạch ra là con đường đúng đắn nhất để nhà
nước thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
- Trong quá trình chuyển đổi và thực hiện cơ chế quản lý mới, vấn đề nhà nước, vấn đề quản lý
hành chính của nhà nước càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa lớn lao nhằm phân định rõ ràng
ranh giới giữa Đảng và Nhà nước.
Câu 12.Những xu thế vận động chủ yếu của giai đoạn hiện nay của thời đại hiện nay. Ý
nghĩa ( trang 139 – 141 )
10


- Hoà bình, hợp tác và phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi của các dân tộc và các quốc gia
trên thế giới (trở thành xu thế chủ đạo).

- Toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng vận động khách quan
- Xu thế hợp tác và đấu tranh, liên kết và cạnh tranh
- Các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày cành nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực,
liên kết quốc tế
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt
và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân kiên trì đấu tranh vì hoà bình,
tiến bộ và phat triển.
- Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hoà bình
Ý nghĩa
Câu 13: Những giải pháp cơ bản xây dựng khối liên minh giai cấp cn – nd – tt
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍNH TẤT YẾU CỦA LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của liên minh trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa
- Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen: Tổng kết thực tiễn các phong trào công nhân ở châu
Âu cuối thế kỷ XIX, các ông đã chỉ ra nguyên nhân thất bại của nhiều cuộc đấu tranh của công
nhân chủ yếu là vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là
nông dân. Do vậy, các cuộc cách mạng vô sản đã trở thành những “bài đơn ca ai điếu”.
- Quan điểm Lênin: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa
giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao
động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…” (V.I. Lênin, Toàn tập, Tập
38, tr 452). Như vậy, theo Lênin, trong thời đại hiện nay, không thể tuyệt đối hoá liên minh
giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động đông đảo và quan trọng khác. Trái lại, có thể
và cần phải liên minh giai cấp với các tầng lớp xã hội theo một mục tiêu chung do giai cấp vô
sản lãnh đạo.
2. Tính tất yếu của liên minh công - nông - trí trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3. Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Nội dung chính trị
- Nội dung kinh tế

11


- Nội dung văn hoá
- nội dung quân sự
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI NÔNG
DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng
Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh công-nông-trí, và vấn
đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
- Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề liên minh đó càng được coi trọng với nhiều
nội dung và biểu hiện mới
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”.
2. Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Nội dung chính trị của liên minh:
b. Nội dung kinh tế của liên minh
c. Nội dung xã hội của liên minh:
d. liên minh về quân sự
3. Phương hướng chủ yếu nhằm củng cố, tăng cường liên minh công – nông – trí ở
Việt Nam hiện nay:
a. Tiếp tục củng cố, phát triển giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức
b. Từng bước phát triển, cụ thể hoá cơ chế dân chủ để giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức thể hiện được quyền dân chủ và làm chủ trực tiếp của minh về mọi mặt

trong đời sống xã hội
c. Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết hướng vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
d. Đổi mới quan hệ giữa nhà nước và nông dân
4. Những giải pháp
a. Xây dưng và hoàn thiện thể chế chính trị XHCN vững mạnh
* vai trò của ĐCS, hiệu lưc ql của NN, hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, tổ chức quần
chúng, chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên các cấp.
12


b.Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Quan điểm ĐH 10.tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước
theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức.
c.Phát triển nền nông nghiệp hiện đại và xây dựng nông thôn mới
Quan điểm ĐH 10: Giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân,
phải phát triển toàn diện nông nghiệp
d.Thực hiện chính sách giai cấp, chính sách kinh tế xã hội đúng đắn phù hợp
Đối với quân đội
- Với vị trí, vai trò chức năng quân đội góp phần xây dựng và cũng cố liên minh
- Phát huy chức năng , nhiệm vụ của mình tronggiải quyết mối quan hệ QĐ – Đảng – NN
với các giai tầng xã hội với những kết quả cụ thể và thiết thực
- QĐ góp phần tích cực vào tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của đảng và
nhà nước, xây dưng mối qun hệ quân dân 1 ý chí
- Phối hợp các lực lượng khác trong hệ thống chính trị xây dựng chính quyền các cấp
nhất là ở vùng sâu vùng xa
- Quân đội cần tăng cường thực hiện chính sáchcũng cố ,xây dựng ,phát triển kinh tế xã
hội ở khu vực đóng quân.
- Tăng cường khối liên minh không chỉ là trách nhiệm, sự thể hiện bản chất, truyền thống

của quân đội mà còn ảnh hưởng đến xd và khả năng chiến đấu của quân đội.
Để làm được những nhiệm vụ chức năng đó quân đội phải…………..

Câu 15. Những giải pháp cơ bản để xây dựng hoàn thiện nền dân chủ xhcn ở vn
1. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Dân chủ: Là quyền lực thuộc về nhân dân, là quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực
đời sống xh của đất nước; dân chủ là một hình thức nhà nước gắn với giai cấp thống trị do đó
dân chủ luôn mang bản chất giai cấp.
13


- Bản chất của nền dân chủ XHCN được thể hiện :
* Nền dân chủ XHCN mang bản chất giai cấp công nhân.
*Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
*Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác – Lê- nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh làm nền
tảng tinh thần của xã hội.
*Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ của nhân dân lao động.
*Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với pháp luật, kỉ luật, kỉ cương.
2. Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a) Nội dung cơ bản của dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Là thực hiện quyền làm chủ và bình đẳng của mọi công dân trên lĩnh vực kinh tế.
- Biểu hiện của quyền làm chủ về kinh tế :
+ Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần.
+ Các thành phần kinh tế đều bình đẳng và tự do kinh doanh theo pháp luật.
+ Làm chủ trực tiếp quá trình sx, kinh doanh, phân phối sản phẩm và thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước.
+ Công dân có quyền tự do kinh doanh theo PL, có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp.
b) Nội dung cơ bản của dân chủ trong lĩnh vực chính trị
- Nội dung : Là thực hiện mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Biểu hiện của quyền làm chủ về chính trị:

+ Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội.
+ Quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của Nhà
nước và địa phương.
+ Quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ýý dân.
+ Quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quyền giám sát các hoạt động của các
cơ quan Nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo... của công dân.
c) Nội dung cơ bản của dân chủ trong lĩnh vực văn hoá
- Nội dung : Là thực hiện quyền làm chủ và bình đẳng của mọi công dân trong lĩnh vực văn
hoá.
- Biểu hiện của quyền làm chủ về văn hoá:
+ Quyền được tham gia vào đời sống văn hoá.
+ Quyền được hưởng các lợi ích từ sáng tạo văn hoá, nghệ thuật của chính mình.
+ Quyền sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật; giải phóng con người khỏi những thiên kiến lạc
hậu, loại bỏ sự áp bức về tinh thần và đưa văn hoá đến cho mọi người.
d) Nội dung cơ bản của dân chủ trong lĩnh vực xã hội
- Nội dung: Là đảm bảo những quyền xã hội của công dân.
- Biểu hiện của quyền làm chủ về văn hoá:
+ Quyền lao động.
14


+ Quyền bình đẳng nam, nữ.
+ Quyền được hưởng an toàn xã hội và bảo hiểm xã hội.
+ Quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.
+ Quyền được bảo đảm về mặt vc-tt khi không còn khả năng lao động.
+ Quyền bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, về cống hiến và hưởng thụ của các thành viên
trong xã hội. Tham gia các phong trào ở địa phương và trường học.
- Để quyền lực thuộc về nhân dân, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến các yêu cầu sau:
+ Hoàn thiện nhà nước XHCN, trước hết là hoàn thiện hệ thống PL, tăng cường pháp chế
XHCN.

+ Hoàn thiện cơ chế đảm bảo cho nhân dân thật sự tham gia vào quá trình quản lí nhà nước như
bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.
+ Đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có phẩm chất đạo đức, có
chuyên môn nghịêp vụ giỏi..., tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình.
+ Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng
quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
+ Ngăn chặng và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, nghiêm trị những
hành động lợi dụng dân chủ để phá hoại, gây rối.
3. Những hình thức cơ bản của dân chủ
a) Dân chủ trực tiếp
- Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ với những qui chế, thiết chế để nhân dân thảo luận,
biểu quyết, tham gia trực tiếp quyết định công việc của cộng đồng, của Nhà nước. ( không phân
biệt giới tính, địa vị, tôn giáo...) VD sgk.
- Những hình thức phổ biến của dân chủ trực tiếp là:
+ Trưng cầu ýý dân (trong phạm vi toàn quốc)
+ Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
+ Thực hiện sáng kiến pháp luật (nhân dân tham gia xd, sửa đổi, bổ xung PL)
+ làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, xd và thực hiện các qui ước, hương
ước phù hợp PL.
KL: Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ mà trong đó mọi công dân trực tiếp tham gia vào
các hoạt động CT, KT, VH, XH.
b) Dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện)
- Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ thông qua những qui chế, thiết chế để nhân dân bầu
ra những người đại diện thay mặt mình quyết định các công việc chung của cộng đồng, của
Nhà nước.
(thông qua các cơ quan đại diện như MTTQ và các đoàn thể nhân dân). HS nêu vd sgk.
KL: Dân chủ gián tiếp là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản
15



lí nhà nước và xã hội thông qua hoạt động của những người đại diện, cơ quan đại diện của
mình
Câu 16.phân tích những nội dung bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.vai trò của
quân đội
* Tình hình thế giới:
- Cuộc đấu tranh giai cấp, Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại có bước nhảy
vọt,Chủ nghĩa tư bản đang ra sức điều chỉnh, CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào,
song nhiều nước XHCN còn lại đang ra sức cải cách, đổi mới, Thế giới đang đứng trước
những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng rẽ nào có thể tự mình giải quyết được
- Tuy nhiên nó vẫn khẳng định xu thế chủ yếu giai đoạn hiện nay là:Hòa bình, hợp tác, phát
triển vẫn là xu thế lớn;Sự gia tăng xu hướng hợp tác của các quốc gia;Các quốc gia, dân tộc
ngày càng nâng cao ý thức tự chủ, tự lực, tự cường ;Các nước XHCN, các Đảng Cộng sản và
PTCN quốc tế vẫn kiên trì đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ, phát triển và CNXH; Các nước có
chế độ chính trị, xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình.
* Tình hình khu vực:
- Nhận định chung: Khu vực châu Á Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng
xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố
mất ổn định. [NQ BCHTW lần 8 khóa 9( về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới].
Tuy vậy, tại đây đang chứa đựng những nhân tố gây mất ổn định:
* Tình hình trong nước:
* Thuận lợi:
- Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn sau hơn 20 năm đổi mới làm cho thế và lực
nước ta lớn mạnh lên nhiều.
- Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
giữ vững môi trường hòa bình tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn.
Ví dụ: Hiện nay, Việt Nam ngày nay đã có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư
với gần 200 nước và vùng lãnh thổ; Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 48 trong tổng
số 54 nước châu Phi.

- Đời sống nhân dân không người được cải thiện, an ninh, quốc phòng được giữ vững,
văn hóa, y tế, giáo dục có bước phát triển.
- Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố, tăng cường.
16


- Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, dày dạn kinh nghiệm; đường lối đổi mới được
kiểm chứng qua thực tiễn là đúng đắn, được nhân dân /olđồng tình ủng hộ.
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng và chế độ; ngày
càng thể hiện bản lĩnh năng động, sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
- LLVT cách mạng tuyệt đối trung thánh với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, vươn lên làm tròn
nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. NQTW8, K9, tr.43
* Khó khăn, thách thức:
- Nguy cơ thụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vự và quốc tế vẫn tồn
tại, đeo đẳng.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là rất nghiêm trọng… làm tăng thêm
sự hiện hữu của “tự đổ vỡ”.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH chưa được khắc phục. (Các mục tiêu kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, công bằng…).
- Các TLTĐ đang ráo riết thực hiện chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ dưới những âm
mưu, thủ đoạn, hành động hết sức tinh vi và xảo quyệt, dưới nhiều hình thức mới. Chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” luôn được chúng sử dụng đang có những sắc thái rất
mới.
-> Nhận định về các yếu tố thuận lợi, khó khăn và thách thức Văn kiện Đại hội X
của Đảng ta nhận định:
“Những năm tới, đất nước ta có cơ hội lớn để tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Đòi
hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn”.
Xem tr.75.

-> Từ việc phân tích sâu sắc tình hình thế giới, khu vực và trong nước, những nhân
tố tác động thuận lợi và khó khăn cho sự nghiệp BVTQ, Đảng ta nhấn mạnh:
Bên cạnh mặt thuận lợi - hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, chúng ta cần
hết sức cảnh giác với những hoạt động chạy đua vũ trang, can thiệp, lật đổ, hoạt động
khủng bố, tranh chấp biên giới, lãnh thổ vẫn có thể xảy ra ở thế giới và khu vực.
c. Âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch tăng cường
chống phá cách mạng VN bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm mục tiêu xóa bỏ
17


vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, xóa bỏ chế độ XHCN ở VN tiến tới thủ tiêu hoàn toàn
Tổ quốc VN XHCN.
Âm mưu, thủ đoạn thường thấy là:
- Tăng cường tiềm lực cho chiến tranh, chạy đua vũ trang, răn đe bằng quân sự, xúc tiến
các hoạt động quân sự xâm chiếm chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia, biển đảo của Việt
Nam khi có thời cơ.
- Đẩy mạnh thực hiện chiến lược “DBHB” đối với nước ta trên mọi lĩnh vực:
+ Về chính trị, tư tưởng: Tập trung tiến công phá bỏ cơ sở nền tảng chính trị, tinh thần
của xã hội ta - CN MLN, TT HCM, đường lối quan điểm của Đảng CSVN; phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng CSVN.
Một số điểm mới hiện nay:Xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ; Đối lập Đảng với
HCM, với sự nghiệp đổi mới, với lịch sử dân tộc; Chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
“Đưa ra các hệ thống lý thuyết mới để thay thế CNMLN, TT HCM”( TLTK: Phê phán,
bác bỏ các quan điêm thù địch… tr.242-247).
+ Về kinh tế: lợi dụng mở cửa, hội nhập, đầu tư kinh tế để “diễn biến nhẹ nhàng và êm
thấm” đường lối phát triển kinh tế của Đảng, nhằm mục tiêu xóa bỏ kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, xóa bỏ triệt để các yếu tố công
hữu XHCN, chuyển hướng nền kinh tế sang nền kinh tế TBCN.
+ Về văn hóa, xã hội: Tán dương, tuyên truyền, áp đặt nền văn hóa, lối ống tư sản, chủ

nghĩa thực dụng, chủ nghĩa hiện sinh vào xã hội, đặc biệt là nhằm vào giới trẻ, thanh niên, trí
thức kinh tế. Mua chuộc các phần thử thoái hóa, biến chất, cơ hội, phản bội…
+ Về dân tộc, tôn giáo: Chia rẽ khối đoàn kết dân tộc; nuôi dưỡng những, kích động
những mẫu thuẫn tộc người, bất đồng tôn giáo. Coi tôn giáo và sắc tộc là những lực lượng
mũi nhọn của sự thay đổi chế độ.
+ Xúc tiến thành lập, tổ chức các đảng phái, tổ chức lực lượng chính trị, xã hội đối lập,
các tổ chức quân sự, vũ trang phản động.
Ví dụ: “Hiện có khoảng 475 tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngaòi
có hoạt động chống phá Việt Nam”; Chúng thành lập nhiều tổ chức phản động như:
“Đảng Việt tân”, “Đảng vì dân chủ”, “Ủy ban Hỗ trợ dân chủ quốc nội”, “Ủy ban hỗ trợ
liên minh dân chủ nhân quyền”, “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”…
3. Nội dung bảo vệ Tổ quốc VNXHCN trong tình hình mới
Nội dung BVTQ VNXHCN hiện nay được ĐHX xác định: tr.108-109
“Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; Bảo vệ
18


vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; Bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh
tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; Duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; Giữ vững ổn
định chính trị đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”
Một là, “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh
toàn diện”.
- Đây là một trong những nội dung quan trọng, thể hiện rõ tư duy mới của Đảng về quốc
phòng, an ninh trong BVTQ, phù hợp với tình hình đất nước, khu vực và thế giới;
Nội dung tư duy cũ về BVTQ thiên về xây dựng sức mạnh quân sự của của LLVT:
Quân đội và Công an là chủ yếu.
Nay là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, trong đó quân
đội, công an là lực lượng nòng cốt.

- Khẳng định vai trò của quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trong mối quan hệ
thống nhất giữa chúng với mục tiêu BVTQ VNXHCN.
- Cả 2 phương diện tự nhiên và lịch sử, chính trị xã hội của Tổ quốc VNXHCN đều phải
được bảo vệ bằng và thông qua việc Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
vững mạnh toàn diện.
Giữ nước không chỉ và việc của riêng quốc phòng, cũng không chỉ là việc riêng
của an ninh, mà nhiệm vụ của cả hai, trong mối kết hợp chặt chẽ giữ chúng và xây dựng
chúng vững mạnh toàn diện. (Xây dựng về tiềm lực, lực lượng, thế trận, về cách đánh,
nghệ thuật quân sự, an ninh).
-> Đề nghị Học viên nghiên cứu sâu thêm về nội dung xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân.
- Tuy nhiên, cũng phải thấy rõ mục tiêu, đối tượng của quốc phòng và an ninh là không
giống nhau; chúng có tính độc lập tương đối, vai trò, vị trí của nó trong BVTQ khác nhau ->
nội dung xây dựng cụ thể của chúng cũng khác nhau.
- Song cả 2 lĩnh vực này đều được Đảng ta xác định là 2 nhiệm vụ trọng yếu thường
xuyên trong BVTQ.
Hai là, Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
- Đây là hai nội dung bảo vệ, đi liền và gắn chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau trong
bất cứ nhiệm vụ cụ thể nào của cả quá trình xây dựng lẫn bảo vệ TQ VNXHCN.
19


- Nó xác định các nội dung quan trọng, các thành tố đặc biệt quan trọng của Tổ quốc cần
phải bảo vệ.
- Cơ sở lý luận của nó là chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của tổ quốc.
“Tổ quốc nghĩa là hoàn cảnh chính trị, văn hóa và xã hội”,
-> Là chủ trì về CTĐ,CTCT trong quân đội, các chính ủy cần quán triệt rõ tư tưởng
của V.I.Lênin: “bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc” trong mối quan hệ
tổng thể với BVTQ.

- Cơ sở thực tiễn:
. Ngày nay có rất nhiều quan điểm, tư tưởng lệch lạc, phiến diện về BVTQ XHCN;
phủ nhận BV chế độ XHCN cần phải đấu tranh.
. Còn rất nhiều hành động lệch lạc trong tổ chức, triển khai nhiệm vụ BVTQ
XHCN. Biểu hiện trong kinh tế là rõ nét nhất; trong xác định các chủ trương thực hiện
của các cấp chính quyền, doanh nghiệp, các thành phần kinh tế; kể cả trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh; văn hóa, giáo dục; xây dựng, củng cố chính quyền...
-> Đỏi hỏi bức thiết là không chỉ giữ vững định hướng XHCN mà còn phải làm
cho các đặc trưng, bản chất của chế độ XHCN ngày càng rõ hơn trên mọi mặt đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
-> Nhất quyết phải khẳng định và thực hiện được vấn đề:
CNXH còn thì Tổ quốc XHCN mới còn. Bài học của Cách mạng tháng Mười Nga
và tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô mà V.I. Lênin đã căn dặn: “bảo vệ chủ
nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc” vẫn còn mang tính thời sự trong công cuộc chủ
động giữ nước hiện nay.
Ba là, Bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh
xã hội;
Bốn là, Giữ vững ổn định chính trị đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
4. Một số yêu cầu cụ thể để bảo vệ TQ VNXHCN.
- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển.
- Duy trì ổn định chính trị - xã hội, không để xảy ra bạo loạn chính trị và tự diễn biến.
- Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “DBHB”, nguy cơ
can thiệp bằng quân sự, xung đột vũ trang.
- Xử lý kịp thời, dứt điểm, khẩn trương, khôn khéo, nhanh gọn các tình huống phức tạp,
20


không để lan rộng và không để các thế lực bên ngoài lấy cớ can thiệp.
5. Vai trò của quân đội.

- Đảng ta chỉ rõ, sự nghiệp BVTQ VNXHCN là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và cả
hệ thống chính trị. Trong đó, quân đội có vị trí hết sức quan trọng, là lực lượng nòng cốt cho
toàn dân tham gia BVTQ.
- Vai trò là lực lượng nòng cốt được thể hiện:
+ Là lực lượng chính trị tin cậy và tuyệt đối trung thành với Đảng, N.nước và nhân dân.
+ Là công cụ bạo lực vũ trang cách mạng của Đảng, của chế độ XHCN, thực hiện chức
năng chuyên chính với kẻ thù, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ; chống xâm lược bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ quốc gia.
+ Ở chức năng, nhiệm vụ của quân đội: vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công
tác, vừa là đội quân sản xuất và thực hiện nghĩa vụ quốc tế vô sản. Hiện nay, vừa thực hiện
chức năng chủ yếu là giữ nước, bảo vệ Tổ quốc, vừa tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đói, giảm nghèo, cứu hộ, cứu nạn.
+ Tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xã hội ở các địa bàn trọng yếu, bảo vệ, củng cố và
tăng cường sức mạnh của chính quyền cơ sở, trực tiếp tham gia xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân BVTQ.
+ Là cơ quan tham mưu đắc lực cho Đảng hoạch định đường lối chiến lược, sách lược vè
quốc phòng, an ninh BVTQ.
+ Ở địa phương, tham mưu cho chính quyền các cấp vạch ra chủ trương, kế hoạch phòng
thủ, bảo vệ địa bàn, bảo vệ cơ sở kinh tế, chính trị, quê hương, bản làng.
+ Trong tình hình mới, quân đội còn là lực lượng chủ chốt chống “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ; là chỗ dựa vững chắc cho toàn dân sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược với
bất kỳ quy mô hình thức nào, kể cả chiến tranh khi địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Mới: Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của quân đội luôn có sự vận động và phát triển,
vừa kế thừa, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của một quân đội kiểu mới của GCVS,
vừa thực hiện các nhiệm vụ mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
Nhiệm vụ quốc tế có sự thay đổi.
Khi VN tham gia và hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, sẽ còn có những
nhiệm vụ mới mà cộng đồng quốc tế cần đến, cần nghiên cứu thêm.
2. Xây dựng QĐNDVN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
* Phương hướng xây dựng: Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tường bước hiện đại.

21


Chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trong bất cứ tình huống nào cũng một lòng trung thành với Đảng, sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Tổ quốc và nhân dân; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
* Nội dung, nhiêm vụ xây dựng quân đội trong thời kỳ mới.
Xem Văn kiện Đại hội IX, trang 89.
“Xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tường bước hiện đại, có bản
lĩnh chính trị vững vàng; trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có trình độ học vấn
và chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân; có phẩm
chất, đạo đức, lôi sống lành mạnh, giản dị; kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang; có năng
lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào; có trình độ SSCĐ và sức chiến
đấu ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan moi âm mưu và hành động xâm
phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh quốc gia; ngăn chặn và đẩy
lùi các tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật tự và an toàn xã hội”.

Câu 17.phân tích quan điểm của ĐCS: văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vùa là mục
tiêu, vùa động lực của cm xhcn. Phê phán quan điểm sai trai
Khái niệm: văn hoá là thế giới tinh thần, hay là đời sống tinh thần của con người; văn
hoá là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra; văn hoá là hệ thống
biểu trưng của các cộng đồng người, các dân tộc, các quốc gia; văn hoá là các cách ứng xử
giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên; văn hoá là tổng các giá trị và
phương thức sống của một cộng đồng người, của một dân tộc, nói chung là của loài người;
văn hóa là sức mạnh bản chất người; văn hóa là thiên nhiên thứ hai...
Văn hóa thực sự đảm nhiệm các chức năng: nhận thức, đánh giá, sáng tạo ra các giá trị;
cải tạo, xây dựng xã hội mới theo lý tưởng chân chính của con người; thỏa mãn các nhu cầu
Chân – Thiện – Mỹ; khẳng định giá trị của nền văn hóa; điều chỉnh mục tiêu và hoạt động,
làm tiêu chí cho sự lựa chọn hướng phát triển; giữ gìn văn hóa và lưu truyền bản sắc văn hóa

thực sự là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Văn hoá là cội nguồn và động lực của hoạt động lao động sản xuất; hoạt động kinh tế –
xã hội; trong lĩnh vực tư duy; trong quan hệ xã hội, ứng xử con người – con người, con người
– thiên nhiên; trong hoạt động quân sự, ngoại giao; trong kinh doanh; trong hệ thống chính
trị, pháp lý, nhà nước, trong lối sống, đạo đức, thẩm mỹ, trong cuộc sống môi sinh; trong

22


hoạt động sản xuất, xây dựng, sáng tạo và ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ....
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng định: Bảo đảm sự
gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát
triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Đặc biệt coi trọng nâng cao văn hoá lãnh đạo và
quản lý, văn hoá trong kinh doanh và văn hoá trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên;
chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá. Đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn
hoá đại chúng và môi trường văn hoá lành mạnh. Đây là quan điểm chỉ đạo có tính chiến
lược, đồng thời là vấn đề rất thiết thực và bức xúc đặt ra trong định hướng về nhận thức và
hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thực chất là xây dựng một xã hội
văn hoá cao, vươn tới mục tiêu văn hoá, hay có thể hiểu, văn hoá là mục tiêu phấn đấu của
dân tộc, của Đảng và nhân dân ta. Mặt khác, xã hội văn hoá cao đó, đến lượt mình lại chính
là sức mạnh bên trong, là động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn
Đảng toàn dân ta. Lý tưởng, con đường đi tới chủ nghĩa xã hội và sức mạnh của bản thân chủ
nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện mục tiêu đó là sự vận động biện chứng, là cả một quá
trình xoắn quyện vào nhau, tồn tại trong nhau, cái này làm tiền đề và điều kiện cho cái kia
tồn tại, vận động và phát triển.
Từ sự nhận thức đúng đắn, từ tư tưởng chỉ đạo khoa học của Đảng ta đến việc thực hiện
trong thực tế xã hội ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Để văn hoá thực sự là nền tảng tinh
thần, phát huy được sức mạnh của nó, trước hết, cần nhận thức đúng bản chất, chức năng, vai

trò của văn hoá, cần làm cho đường lối, quan điểm văn hoá của Đảng được thể chế hoá thành
chính sách kinh tế – xã hội, đi vào đời sống hiện thực một cách thực sự. Vấn đề không chỉ là
suy nghĩ, mà quan trọng là hành động; tức là điều quyết định hiện nay là các nghị quyết, các
tư tưởng, quan điểm văn hoá của Đảng phải thấm sâu vào toàn Đảng; cán bộ các cấp, các
ngành, chuyển biến trong nhận thức, trong tư duy và hành động hằng ngày.
Nếu quan niệm xã hội là một cơ thể, thì cơ thể đó gồm thể chất và tinh thần. Đảng ta
quan niệm, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội phát triển đồng đều vật chất –
tinh thần. Chúng ta đi bằng hai chân: kinh tế và văn hoá; phát triển kinh tế phải song song với
phát triển văn hoá - hai mặt làm tiền đề và điều kiện cho nhau phát triển như một quy luật
vận động và phát triển biện chứng. Thực chất nhiều nước trên thế giới, nhiều mô hình phát
triển cho thấy, thực hiện các mô hình phát triển không có sự cân bằng và hài hoà kinh tế – xã
hội thì xã hội sẽ rơi vào khủng hoảng, không thể có sự phát triển bền vững.
Điều này về mặt lý luận đã được khẳng định, song trong thực tế Việt Nam là nước nghèo,
hầu hết các tầng lớp nhân dân tập trung cho làm ăn kinh tế, lo toan đời sống vật chất. Hiện
23


nay, chúng ta tập trung xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến
khích làm giàu. Việc thực hiện văn hoá là nền tảng tinh thần và nhất là văn hoá là mục tiêu và
động lực phát triển xã hội không phải là không gặp những trở ngại.
Để văn hoá thực sự phát huy sức mạnh nền tảng tinh thần của xã hội; thành mục tiêu và
động lực phát triển kinh tế - xã hội thì ngoài quan niệm đúng, chủ trương đúng, phải có thể
chế, chính sách, đặc biệt là phải có cơ chế để đưa các chủ trương, đường lối văn hoá vào cuộc
sống hằng ngày trên mọi lĩnh vực hoạt động cuộc sống của con người và xã hội.
Điều quan trọng là phải tăng cường nội lực văn hoá cho các chủ thể văn hoá và cho các
lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội. Sáng tạo ra thế giới sản phẩm văn hoá phong phú,
đa dạng, một mặt thể hiện trình độ, năng lực hoạt động văn hoá, mặt khác là mục tiêu phấn
đấu của các chủ thể văn hoá - làm ra thế giới văn hoá độc đáo, đa hình đa dạng, thể hiện
chiều sâu thế giới tinh thần, khát vọng, ý chí, nguyện vọng, lý tưởng của nhân dân, cộng
đồng, dân tộc Việt Nam. Nói khái quát là việc tạo ra thế giới sản phẩm văn hoá phong phú,

đa dạng, độc đáo, một mặt thể hiện mục tiêu văn hoá của xã hội và con người, mặt khác thể
hiện bản chất nhân văn của con người, dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, trang bị, làm phong phú, sâu sắc thế giới văn hoá cho các chủ thể sáng tạo là tăng
cường nội lực văn hoá cho các chủ thể với tư cách là các chủ thể văn hoá. Văn hoá không chỉ
là thế giới sản phẩm mà điều quan trọng là trình độ – năng lực hoạt động của các chủ thể văn
hoá. Vậy tăng cường nội lực cho các chủ thể văn hoá là trang bị tri thức toàn diện cho con
người – tất cả các lĩnh vực khoa học: tự nhiên – kỹ thuật – xã hội, lịch sử Việt Nam, lịch sử
các dân tộc trên thế giới; các phương thức sản xuất trong lịch sử nhân loại; các cách thức tổ
chức xã hội, chính trị, văn hoá của loài người... Trang bị kinh nghiệm sống, hoạt động kinh
tế, chính trị văn hoá của các dân tộc; xây dựng và làm phong phú thế giới tình cảm, lý trí, trí
tuệ, khả năng lao động, sáng tạo khoa học, văn học, nghệ thuật....
Đó là sự nạp năng lượng cho các chủ thể văn hoá - điều kiện để con người thể hiện mình
như là mục tiêu phấn đấu của loài người; mặt khác thể hiện mình là chủ thể tác động vào đời
sống, cải tạo, xây dựng xã hội mới; kiến tạo thế giới mới phù hợp với lý tưởng cao đẹp của
con người.
Trang bị phương thức hoạt động: lối tư duy, cách thao tác, cách sử dụng và vận dụng
sáng tạo, thích hợp các tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết, sở thích vào điều kiện cụ thể và
tình hình xã hội và các cá nhân... để các chủ thể văn hoá thực hiện công việc lao động
một cách đúng đắn và đúng mục tiêu, có hiệu quả. Phương thức tư duy, phương thức hoạt
động là những thành tố quan trọng trong chủ thể văn hoá với tư cách nhà hoạt động, nhà
thực hành – sáng tạo.

24


Vận dụng sáng tạo các phương thức tư duy – hoạt động trong mọi lĩnh vực cuộc sống
(kinh tế, chính trị – xã hội, văn hoá, lối sống...) chính là yếu tố đem lại khả năng đổi mới,
tạo ra cái mới, đem lại kết quả lớn, hiệu quả cao trong từng lĩnh vực hoạt động. Nói một
cách tổng quát, đó là tổng lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy quá trình hoạt động, quá trình phát
triển kinh tế – xã hội, phát triển – tiến bộ của quốc gia, dân tộc.

Tạo cơ chế cho việc phát huy cao nhất tiềm năng văn hoá trong mỗi chủ thể văn hoá.
Thỏa mãn nhu cầu văn hoá - trọng tâm và cốt lõi của cơ chế kích thích. Nếu như lịch sử
loài người chẳng qua chỉ là lịch sử con người theo đuổi các mục đích của mình, thì mục
đích là cái quy định nhu cầu chung nhất của con người. Để đạt mục tiêu làm giàu về kinh
tế, trước hết phải có nhu cầu kinh tế, từ đó có nhu cầu lao động, sản xuất, kinh doanh, tạo
ra nhiều của cải vật chất, nhiều tiền. Để đạt mục tiêu phát triển đời sống tinh thần, trước
hết phải có nhu cầu về đời sống tinh thần: sự hoàn thiện nhân cách, vươn tới những giá trị
chân – thiện – mỹ, và từ đó mới có nhu cầu học tập, rèn luyện nhân phẩm, các năng lực
tinh thần, say mê nghiên cứu, sáng tạo khoa học, nghệ thuật, hưởng thụ các giá trị tinh
thần cao quý.
Văn hoá với tư cách mục tiêu và động lực là mục đích của con người Việt Nam, thể
hiện từ xa xưa trong lịch sử dân tộc người Việt. Khi con người đã được trang bị sức mạnh
văn hoá: tinh thần, khí phách, bản lĩnh, tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động, ý chí và
khát vọng chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học – công nghệ – nghệ thuật, khả năng sáng
tạo – thì Đảng, Nhà nước tổ chức cho các cá nhân và tập thể hoạt động đúng mục tiêu để
thoả mãn các nhu cầu văn hoá, và đó là lúc khơi dậy tiềm năng sáng tạo vô tận của con
người, của toàn dân.
Giải quyết, đáp ứng tốt vấn đề lợi ích sẽ phát huy cao độ năng lượng và mọi tiềm năng
sáng tạo của con người Việt Nam – hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trên từng
cương vị xã hội – thúc đẩy xã hội đi lên.
Vấn đề bức thiết đặt ra là phải thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách văn hoá
của Đảng và Nhà nước - đó là sự phát huy động lực văn hoá toàn xã hội.
Thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lợi ích lâu dài và trước mắt của các chủ thể văn hoá (người
lao động trong toàn xã hội Việt Nam) không chỉ trên lý thuyết, trên giấy tờ mà phải bằng
việc thể chế hóa tất cả các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước về văn hoá và hoạt động chung trong xã hội ta.
Để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, động lực phát triển kinh tế
của đất nước, Nhà nước, Chính phủ phải xây dựng hệ thống chính sách nhằm thoả mãn
tối đa các điều kiện sau:
25



×