Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN sự ẢNH HƯỞNG và GIÚP đỡ TO lớn của QUỐC tế CỘNG sản đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.04 KB, 24 trang )

“Sự ảnh hưởng và giúp đỡ to lớn của Quốc tế Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam”
Với khẩu hiệu chiến lược: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức,
đoàn kết lại!”. Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập và lãnh đạo, trong suốt
thời gian tồn tại (3/1919 – 5/1943) thực sự là một tổ chức cách mạng quốc tế rộng
lớn nhất, là một Đảng Cộng sản thế giới. Gắn liền với Quốc tế Cộng sản là cả một
quá trình lịch sử hình thành, phát triển và củng cố phong trào cộng sản, công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Là trung tâm nghiên cứu một cách sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Quốc tế Cộng sản đã đánh bại các khuynh hướng hữu
và tả khuynh trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và gắn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân trên phạm vi thế giới. Dựa vào kinh nghiệm xây dựng các đảng cộng sản,
nhất là Đảng Cộng sản Nga, Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo và giúp đỡ việc thành
lập các đảng cộng sản ở các nước theo kiểu mới; đã xác định đường lối chiến lược
và sách lược cho phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc. Quốc tế Cộng sản không chỉ giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc bằng
đường lối cách mạng đúng đắn, mà còn bằng hành động cách mạng thực sự: đào
tạo cán bộ cho các đảng cộng sản ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, hỗ trợ về
tài chính, tăng cường mối quan hệ quốc tế để thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng ở các
nước phương Đông phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ảnh hưởng và giúp đỡ
vô cùng quan trọng. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước dưới ánh
sáng đường lối của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã trực tiếp giúp đỡ và
chỉ đạo việc thành lập Đảng, đào tạo cán bộ, chỉ đạo về đường lối chiến lược, sách
lược, ủng hộ các phong trào cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt
Nam gắn chặt với đường lối cách mạng triệt để của Quốc tế Cộng sản về vấn đề
dân tộc và thuộc địa.

1



xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là trong quá trình chúng ta đang tiến hành
hội nhập quốc tế

I. SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN
1.1. Sự ra đời của quốc tế cộng sản
1.1.1. Hoàn cảnh
Sự phá sản của Quốc tế II làm cho phong trào công nhân bị chia rẽ về tổ
chức, giai cấp công nhân không còn một tổ chức thống nhất để chỉ đạo phong
trào. Quốc tế II phân liệt thành phái hữu, phái giữa, phái tả khiến cho trong nội
bộ một số Đảng cũng có sự phân liệt.
Phong trào cách mạng thế giới phát triển thành cao trào mới do ảnh hưởng
trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Năm 1918, đã xuất hiện
một loạt các đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Áchentina, Phần Lan, Áo,
Hungari, Ba Lan, Đức. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự
chiến thắng của giai cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập
Quốc tế Cộng sản.
1.1.2. Hội nghị thành lập Quốc tế Cộng sản
Hội nghị Dimmécvan lần thứ nhất (9/1915), Hội nghị Dimmécvan lần thứ
hai (4/1916) đã tập hợp những người cách mạng chân chính trong phong trào
cộng sản lúc đó, gọi là phái tả Dimmécvan, “đã lên tiếng” chống chiến tranh đế
quốc, đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội. Đó là mầm mống của Quốc tế thứ
ba, mặc dầu các hội nghị Dimmécvan còn có nhiều hạn chế, nhất là không chịu
chấp nhận đường lối, chính sách đấu tranh cách mạng triệt để của Lênin và
Đảng bônsêvích (biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất
bại các chính phủ trong cuộc chiến tranh, thành lập Quốc tế mới thay thế Quốc
tế thứ hai phản bội). Sau chiến tranh đế quốc (1914 - 1918) và Cách mạng tháng
Mười Nga thắng lợi, những điều kiện thành lập Quốc tế cộng sản đã chín muồi.

2



Vì vậy sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công,
Lênin và Đảng bônsêvích đã tích cực tiến hành tập hợp những lực lượng cách
mạng vô sản chân chính, tiến tới thành lập một tổ chức Quốc tế mới của giai cấp
vô sản. Tháng 01/1918, hội nghị đại biểu các phái tả trong các Đảng Xã hội dân chủ đã họp ở Pêtrôgrát. Hội nghị đã nêu rõ sự cần thiết phải triệu tập một
Hội nghị quốc tế của các chiến sĩ cách mạng vô sản chân chính trên thế giới, đưa
ra những điều kiện tham gia hội nghị này - tán thành con đường đấu tranh chống
chính phủ đế quốc nước mình, ủng hộ Cách mạng tháng Mười và nước Nga Xô
viết.
Tháng 01-1919, ở Mátxcơva hội nghị của các đại biểu 8 đảng mácxít Nga,
Ba Lan, Hunggari, Đức, Áo, Látvia, Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Bancăng
đã họp dưới sự lãnh đạo của Lênin. Hội nghị đã thông qua lời kêu gọi gồm 15
điểm trình bày đường lối cách mạng đúng đắn của phong trào cách mạng vô sản,
chỉ rõ vai trò làm tay sai cho giai cấp tư sản thống trị của bọn xã hội - dân chủ
phái hữu và phái giữa, và nêu lên sư cấp thiết phải thành lập Quốc tế cộng sản
để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới trong thời kì mới - thời kì cách mạng
vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 2-1919, Quốc tế thứ hai họp hội nghị ở Bécnơ (Thụy Sĩ), tìm cách
ngăn trở Quốc tế thứ ba thành lập. Nhưng âm mưu của họ đã bị thất bại.Đại hội
thành lập Quốc tế cộng sản được khai mạc ở Mátxcơva và họp từ ngày 2 đến 63-1919. Tham dự Đại hội có các đại biểu của l9 đảng và nhóm, có quan sát viên
15 nước. Mặc dầu bị cản trở, đông đảo các đảng phương Tây đều có đại biểu và
lần đầu tiên có các đại biểu của các đảng phương Đông. Các đại biểu của các
chính đảng lớn ở phương Tây và phương Đông đều có mặt: Nga, Đức, Áo
Hunggari, Ba Lan, Phần Lan, Pháp, Bungari, Mĩ, Trung Quốc, Triều Tiên. Sự có
mặt của các đại biểu các nước phương Đông tuy không nhiều nhưng đã chứng tỏ
Quốc tế thứ ba chẳng những chỉ là tổ chức của giai cấp công nhân các nước tư
bản chủ nghĩa mà còn là tổ chức của quần chúng công nhân và nhân dân lao
3



động các nước thuộc địa và phụ thuộc.Lênin đã kiên trì đòi hỏi phải thành lập
ngay Quốc tế Cộng sản; tất cả các đại biểu đều tán thành việc thành lập Quốc tế
mới, trừ các đại biểu Đảng Cộng sản Đức. Đại hội tự tuyên bố lấyNgày 4 - 31919 làĐại hội lần thứ nhấtcủa Quốc tế Cộng sản, Quốc tế thứ ba.

1.2. Những hoạt động của Quốc tế Cộng sản
Ngay từ khi ra đời, Quốc tế thứ III đã đề ra cương lĩnh, đường lối nhằm
dẫn dắt cách mạng thế giới. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu
tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập
chuyên
chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7
lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít.Trong Đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản, Đề cương
Về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản của Lênin đã được thông qua. Đề
cương vạch trần bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, giải thích ý nghĩa của
chính quyền Xô viết – một hình thức chuyên chính vô sản.
Ngày 4 - 3- 1919Đại hội lần thứ nhấtcủa Quốc tế Cộng sản, Quốc tế thứ
ba.Đại hội đã thảo luận và thông qua Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được
xây dựng theonhững nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin do Lênin trình
bày. Mở đầu, cương lĩnh vạch rõ thời đại mới đã bắt đầu: “Thời đại mới nảy
sinh, thời đại tan rã của chủ nghĩa tư bản, của sự suy sụp bên trong của nó, thời
đại cách mạng của giai cấp vô sản''.Cương lĩnh cũng đã vạch ra đường lối cách
mạng triệt để và khoa học của phong trào cách mạng là lật đổ chính quyền tư
sản, giành chính quyền vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản với sự giúp đỡ của
nước Nga Xô viết, tước đoạt tài sản của giai cấp tư sản, xã hội hóa sản xuất và
chuyển sang xã hội cộng sản không giai cấp.
4


Trong Tuyên ngôn gửi những người vô sản toàn thế giới, Đại hội đã kêu

gọi giai cấp vô sản quốc tế đấu tranh quyết liệt để thực hiện chuyên chính vô
sản. Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Nếu như Quốc tế thứ nhất nhìn thấy trước sự phát
triển tương lai và phác ra đường đi của nó, nếu như Quốc tế thứ hai đã tập hợp
và tổ chức hàng triệu người vô sản lại, thì Quốc tế thứ ba là Quốc tế hành động
quần chúng công khai, là Quốc tế thực hiện cách mạng, là Quốc tế việc làm”.
Báo cáo''Luận cương và báo cáo về chế độ tư sản dân chủ và chuyên
chính vô sản” của Lênin là báo cáo cực kì quan trọng trong chương trình nghị sự
của Đại hội. Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết của chuyên chính vô sản nhằm đè
bẹp sự phản kháng của giai cấp bị lật đổ và xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Người đã vạch trần luận điệu giả dối của bọn
lãnh tụ Quốc tế thứ hai nấp dưới chiêu bài bảo vệ nền ''dân chủ thuấn túy'' hay
''dân chủ nói chung'', để hòng duy trì nền dân chủ tư sản và hò hét chống lại
chuyên chính vô sản dưới danh nghĩa chống lại “chuyên chính nói chung”. Đai
hội đã bầu ra một Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế cộng sản.Trong bài
''Quốc tế thứ ba và địa vị của nó trong lịch sử”viết vào tháng 4-1919, Lênin đã
vạch rõ Quốc tế Cộng sản là người thừa kế và người kế tục sự nghiệp của Quốc
tế thứ nhất: ''Ý nghĩa lịch sử của Quốc tế thứ ba đối với toàn thế giới là đã bắt
đầu đem thực hiện cái khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tóm tắt cả một
thế kỉ tiến bộ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, tức là khẩu
hiệu quy định bởi khái niệm:chuyên chính vô sản.
Đại hội IIkhai mạc 10-7-1920tại Pêtrôgrát và Mátxcơva và sự tham gia
của đại biểu các Đảng Cộng sản và tổ chức phái tả từ 37 nước.Một bộ phận lớn
các nhà cách mạng đến từ các nước thuộc địa, phụ thuộc: Ấn Độ, Trung Quốc,
Thổ Nhĩ Kì…Công việc trung tâm của Đại hội là bàn về vấn đề thành lập và
củng cố các Đảng Cộng sản trong các nước, đồng thời thu hút và tranh giành
ảnh hưởng trong quần chúng.Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo quan
trọng của Lênin:''Về tìnhhình thế giới và về những nhiệm vụ cơ bản của Quốc tế
5



Cộng sản''.Báo cáo này trở thành cơ sở có tính nguyên tắc cho tất cả các nghị
quyết của Đại hội. Trên cơ sở đó, Đại hội đã thông qua bản luận cương về
những nhiệm vụ căn bản của Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Đại hội II cũng thảo
luận và thông qua 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, vạch ra những
nguyên tắc chính trị và tổ chức của Quốc tế thứ ba nhằm bảo đảm sự đoàn kết
nhất trí, ngăn ngừa không để cho những phần tử cơ hội hữu khuynh, trước hết là
những phần tử phái giữa, lén lút chui vào Quốc tế Cộng sản.Một vấn đề quan
trọng khác được thảo luận tại Đại hội II là vấn đề dân tộc thuộc địa. Báo cáo của
Lênin -Sơ thảo đề cương vềcác vấn đề dân tộc thuộc địalà một đóng góp quan
trọng vào học thuyết Mác-Lênin và vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc, cũng như chỉ ra sự phối hợp hành động giữa phong trào
công nhân quốc tế và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của C.Mác:
''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!'' đã được Lênin phát triển thành: ''Vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!''. Đó là bước ngoặt to lớn trong
nghệ thuật lãnh đạo chính trị của những người cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng
sản trở thành người lãnh đạo, lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức toàn thế giới.
Đại hội cũng thông qua điều lệ của Quốc tế Cộng sản, trong đó nguyên
tắc tập trung dân chủ là cơ sở của tổ chức. Đại hội II là một trong những đại hội
quan trọng nhất của Quốc tế Cộng sản, nó hoàn thành công việc thành lập Quốc
tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản. Đại hội đã ''tạo ra một thứ kỉ luật và một sự đoàn
kết chưa từng thấy trong các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới” (Lênin).Các
nghị quyết của Đại hội đã củng cố các Đảng Cộng sản trẻ tuổi, chuẩn bị cơ sở
cho sự thành lập các Đảng Cộng sản ở các nước khác và thu hút họ tham gia
Quốc tế Cộng sản.
Tiếp theo Đại hội II, tháng 12-1920, Đại hội của các Đảng Cộng sản
phương Đông đã họp ở Bacu (Aidécbaigian) để bàn về tương lai của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng tán
6



thành đường lối chính trị của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và đã nêu cao
tinh thần đoàn kết anh em của các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản
phương Tây.
Năm 1921, trường Đại học laođộng phương Đông được thành lập ở
Mátxcơva nhằm đào tạo, bồi dưỡng lí luận cho cán bộ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc.
Trong các năm từ 1921 đến 1923, các Đảng Cộng sản tiếp tục được thành lập.
Năm 1921, có Đảng Cộng sản ltalia, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Nam Phi. Năm
1922, có các Đảng Cộng sản Chilê, Braxin, Nhật Bản. Từ những năm 1920 1921, phong trào cách mạng trong các nước tư bản bắt đầu đi xuống. Hoàn cảnh
thay đổi, bọn tư sản phản động chuyển sang khủng bố trắng các đảng viên cộng
sản và phong trào quần chúng. Quốc tế Cộng sản kêu gọi những đảng viên cộng
sản đi vào quần chúng và thành lập Mặt trận công nhân thống nhất. Mặc dù cao
trào cách mạng 1918 – 1923 không thành công, nhưng uy tín của Quốc tế Cộng
sản không ngừng được tăng cường. Năm 1918, mới chỉ có 10 Đảng Cộng sản,
năm 1921 tăng lên 48 đảng.
Đại hội III của Quốc tế Cộng sảnhọp từ ngày 22-6 đến 12-7-1921, tại
Mátxcơva. Đại hội nhận định rằng giai cấp vô sản đã tạm thời thất bại trong
những cuộc đấu tranh giai cấp vừa qua. Nguyên nhân chính là do chính sách
chia rẽ, phá hoại của các lãnh tụ Đảng Xã hội - dân chủ.
Đại hội IV của Quốc tế Cộng sảnhọp từ ngày 5-l1 đến ngày 5-12-1922,
đúng vào dịp kỉ niệm 5 năm Cách mạng tháng Mười Nga. 408 đại biểu từ 58
nước đã tham dự, đại diện cho gần 2 triệu đảng viên. Đại hội đã vạch ra nguy cơ
sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và đề ra khẩu hiệu thành lập mặt trận thống
nhất trong các nước thuộc địa, phụ thuộc và phong trào công nhân chính quốc.
Lênin đọc báo cáo: ''Năm năm cách mạng Nga và những triển vọng của cách
mạng thế giới'', nêu rõ ý nghĩa quốc tế của chính sách kinh tế mới ở nước Nga.

7



Quốc tế Cộng sản rất coi trọng việc xây dựng các tổ chức quần chúng:
Quốc tế thanh niên (1919), Quốc tế phụ nữ (1920), Quốc tế công đoàn đỏ
(1921), Quốc tế nông dân (1923), v.v… Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội
thành lập Quốc tế nông dân với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc
địa và được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân. Các tổ chức quần chúng
này đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản trong đông đảo quần
chúng.
Đại hội V Quốctế Cộng sảnhọp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva
với sự tham gia của 510 đại biểu của 46 Đảng Cộng sản, 4 đảng cánh tả và l0 tổ
chức quần chúng. Đây là Đại hội đầu tiên vắng Lênin, song những luận điểm
của Người về vấn đề “liên minh công nông”, về vấn đề dân tộc và thuộc địa, về
chuyên chính vô sản ... đã nói lên sự đóng góp lí luận to lớn về nhiều mặt của
Lênin vào kho tàng lí luận của chủ nghĩa Mác.
Nhiệm vụ chủ yếu của Đại hội V là''bônsêvích hóa''các Đảng Cộng sản.
Sự phát triển tiếp tục của phong trào công nhân quốc tế phụ thuộc vào khả năng
của Đảng Cộng sản trở thành một tổ chức vững mạnh về tư tưởng, vận dụng
sáng tạo kinh nghiệm của Đảng Bônsêvích. ''Bônsêvích hóa'' các Đảng Cộng sản
có nghĩa là sử dụng kinh nghiệm Nga trên cơ sở tính toán hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của mỗi nước. Để biến các Đảng Cộng sản thành các đảng kiểu mới, cần
phải cải tổ về tổ chức, đòi hỏi sự tham gia một cách có hệ thống của những
người cộng sản trong phong trào công đoàn, triển khai cuộc đấu tranh cách
mạng ở nông thôn, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Đại hội V tiếp tục thảo luận về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Nguyễn Ái
Quốc đọc bản tham luận quan trọng. Người vạch trần chính sách áp bức dân tộc
thuộc địa của bọn đế quốc thực dân, tình cảnh đói khổ của nhân dân bản xứ và
kêu gọi các đảng vô sản chính quốc lưu ý tới vấn đề dân tộc thuộc địa như giáo huấn
của Lênin.
8



Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản,họp từ ngày 17-7 đến 11-9-1928, tại
Mátxcơva với sự tham gia của 532 đại biểu thay mặt cho 55 Đảng Cộng sản và
l0 tổ chức quần chúng từ 57 nước. Đại hội xác định nhiệm vụ chính của phong
trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn trước mắt là đấu tranh chống nguy cơ
chiến tranh đế quốc đang đến gần. Nghị quyết về nguy cơ của cuộc chiến tranh
thế giới mới vạch rõ mục tiêu chính trong âm mưu gây chiến lần này của chủ
nghĩa đế quốc là can thiệp, chia cắt Trung Quốc và tiêu diệt Liên Xô, vì vậy Đại
hội kêu gọi giai cấp vô sản thế giới phải bảo vệ Liên Xô và Trung Quốc trong
trường hợp bị tấn công.Đại hội VI cũng thông qua đề cương về phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, khẳng định lại giá trị của đề cương về
dân tộc thuộc địa của Lênin tại Đại hội lần II. Từ sau Đại hội VI và được sự chỉ
đạo của Quốc tế Cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1929, các nước tư bản lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế tồi tệ chưa từng thấy. Làn sóng đấu tranh của giai cấp công
nhân đã phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc cũng lên cao ở Đông
Bắc Á, Đông Dương và Nam Á. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (từ tháng 10-1930, đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương), nhanh chóng trở
thành một chi bộ của Quốc tế Cộng sản (4-1931), mở ra kỉ nguyên hòa nhập
cách mạng Việt Nam vào dòng thác cách mạng thế giới.
Đại hội lần thứ VIIcủa Quốc tế Cộng sản đã họp ở Mátxcơva, từ ngày 25-7 đến
ngày 25-8-1935, trong hoàn cảnh cuộc tấn công của chủ nghĩa phát xít trong
phạm vi từng nước và trên thế giới đang mở rộng, phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân chống nguy cơ phát xít và chiến tranh đang diễn ra sôi nổi. Ý
muốn thống nhất hành động của nhân dân lao động là tăng cường mạnh mẽ sức
mạnh to lớn của mình trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và
mọi thế lực phản động khác đã thể hiện rõ rệt. Đại hội có 510 đại biểu (371 đại
biểu có quyền biểu quyết) của 65 nước trong số 76 chi bộ các nước. Thay mặt
cho 3.141.000 đảng viên cộng sản, trong đó 785.000 người thuộc các Đảng
Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
9



Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm phong phú của phong trào cách
mạng thế giới từ sau Đại hội lần thứ VI và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô. Mọi hoạt động của Đại hội đều xoay quanh việc xây dựng cương
lĩnh quốc gia và quốc tế để ngăn chặn nguy cơ chủ nghĩa phát xít đang đe dọa tự
do và an ninh của toàn thể loài người, việc bảo vệ Liên Xô thành trì của cách
mạng và hòa bình thế giới, chống âm mưu xâm lược của bọn tư bản lũng đoạn
phản động quốc tế.
Đại hội vạch rõ rằng cuộc tấn công của chủ nghĩa phát xít và bọn đế quốc
phản động đã làm thay đổi sâu sắc tình hình so sánh lực lượng giai cấp trên thế
giới, và nêu rõ nhiệm vụ hàng đầu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ dân chủ chung
của phong trào công nhân các nước tư bản chủ nghĩa.
Đại hội đã thông qua nghị quyết, trong đó nêu bật rằng mặt trận thống
nhất rộng rãi đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phải được xây
dựng trên phạm vi thế giới; tỏ rõ sự ủng hộ những cố gắng của chính phủ Liên
Xô nhằm thành lập Mặt trận hòa bình và dân chủ rộng rãi trên toàn thế giới
chống lại liên minh chiến tranh của bè lũ phát xít.
Đại hội kêu gọi ''tất cả các Đảng Cộng sản hãy tích cực đấu tranh để lập
mặt trận thống nhất của tất cả những bộ phận trong giai cấp công nhân, không
kể họ thuộc về đảng nào hoặc tổ chức nào, là điều cần thiết trước khi đa số giai
cấp công nhân đoàn kết nhau lại trong cuộc tấn công để lật đổ chủ nghĩa tư bản
và giành thắng lợi cho cuộc cách mạng vô sản. Đối với việc thống nhất Đảng,
Đại hội đã đề ra 5 điều kiện chung cho việc thống nhất tổ chức ấy:Một là,có một
sư độc lập hoàn toàn đối với giai cấp tư sản và một sự đoạn tuyệt hoàn toàn của
khối xã hội - dân chủ đối với giai cấp tư sản.Thứ hai,là phải thực hiên thống
nhất hành động.Thứ ba,thừa nhận sự cần thiết phải dùng cách mạng đểlật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập chính quyền Xô viết.Thứ tư,từ chối
không ủng hộ giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.Thứ
năm,phải xây dựng Đảng trên cơ sở chế độ tập trung dân chủ, đảm bảo sự thống

10


nhất ý chí và hành động; những điều này đã được chứng thực bằng kinh nghiệm
của những người bônsêvích Nga”.Trọng tâm chú ý của Đại hội là vấn đề Mặt
trận nhân dân.Đại hội vạch rõ Mặt trận nhân dân chống phát xít phải được xây
dựng trên cơ sở Mặt trận thống nhất công nhân và hai quá trình thành lập Mặt
trận thống nhất công nhân và Mặt trận nhân dân chống phát xít phải được tiến
hành song song.
Đại hội vạch rõ phong trào đấu tranh mạnh mẽ của đông đảo nhân dân lao
động dẫn đến triển vọng thành lập Chính phủ của Mặt trận nhân dân, được sự
ủng hộ của các tầng lớp nhân dân rộng rãi – công nhân, nông dân, trí thức, tiểu
thủ công và những phấn tử dân chủ. Chính phủ của Mặt trận nhân dân xuất hiện
trước và không phải sau khi chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt, nó hoạt động dựa vào
cương lĩnh chống tư bản lũng đoạn, chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh,
gồm có các điểm chủ yếu như sau: quốc hữu hóa ngân hàng và các ngành công
nghiệp chủ yếu; chia ruộng đất của bọn chiếm hữu lớn về ruộng đất; thực hiện
bước đầu việc kế hoạch hóa trong nền kinh tế; loại trừ những phần tử phản động
ra khỏi các cơ quan nhà nước, quân đội, kinh tế, giáo dục; cải thiện đời sống của nhân
dân lao động.
Đại hội kêu gọi các Đảng Cộng sản phải lãnh đạo phong trào đấu tranh
giành quyền lãnh đạo Mặt trận nhân dân, phải đảm bảo thực hiện liên minh công
nông và phải đấu tranh đòi chính phủ của Mặt trận nhân dân kiên trì thi hành
chính sách thiên tả, hướng đến nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân dân
lao động.
Đại hội chỉ rõ Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt
trong tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Đimitơrốp nhấn mạnh nhiệm
vụ hàng đầu của các Đảng Cộng sản trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
là đấu tranh xây dựng một mặt trận rộng rãi, bao gồm lực lượng chống đế quốc
phát xít và bọn phong kiến tay sai, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sự

thống nhất hành động giữa Mặt trận nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa
11


và Mặt trận chống đế quốc trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là điều cần
thiết và phải nhằm mục tiêu lật đổ bọn tư bản tài chính, thủ tiêu chủ nghĩa phát
xít, bảo vệ hòa bình.
Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, các Đảng Cộng sản đã có những
cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm, có khả năng độc lập giải quyết những vấn đề
của phong trào công nhân, những nhiệm vụ dân tộc đặt ra trong mỗi nước.
Trong điều kiện chiến tranh, sự liên lạc giữa các Đảng Cộng sản hết sức khó
khăn, việc duy trì một cơ quan chỉ đạo cách mạng chung trên toàn thế giới là
điều khó có thể thực hiện được. Mặt khác, giới cầm quyền trong nhiều nước tư
bản lợi dụng Quốc tế Cộng sản như một nhân tố cản trở quá trình thành lập Mặt
trận đồng minh chống phát xít trong chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó, sự tiếp tục
tồn tại và hoạt động của Quốc tế Cộng sản là không còn phù hợp nữa. Tháng 51943, Ban chấp hành Quốc tế cộng sản đã ra nghị quyết giải tán Quốc tế Cộng
sản.

Chương 2
SỰ ẢNH HƯỞNG VÀ GIÚP ĐỠ TO LỚN CỦA QUỐC TẾ CỘNG
SẢN
12


ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1. Những ảnh hưởng tích cực và sự giúp đỡ to lớn
của quốc tế cộng sản đối với cách mạng việt nam
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã có những ảnh hưởng và giúp đỡ to lớn
đối với tiến trình phát triển buổi đầu của Cách mạng Việt Nam. Chí ít, sự ảnh
hưởng tích cực và giúp đỡ này được thể hiện trên các nội dung sau:

2.1.1. Quốc tế Cộng sản định hướng cho cách mạng Việt Nam về con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng đắn vấn đề dân tộc, thuộc địa, bổ
sung khẩu hiệu của C.Mác và Ph.ăngghen đề ra trong Tuyên ngôn của đảng
cộng sản "vô sản tất cả các nước liên hiệp lại" bằng khẩu hiệu "vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"; thông qua Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lênin khởi thảo và các "điều
kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản"; coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận không thể tách rời của cách mạng vô sản tại Đại hội lần thứ II của Quốc tế
Cộng sản có một ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ đối với phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc nói chung mà đặc biệt có ý nghĩa thức tỉnh và định
hướng đối với cách mạng Việt Nam.
Trước khi Quốc tế Cộng sản thành lập (năm 1919), phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhân sỹ, trí thức,
nhiều sỹ phu phong kiến yêu nước đã anh dũng, mưu lược trong tập hợp lực
lượng ở trong nước để đấu tranh chống Pháp và đi ra nước ngoài "cầu viện", tìm
chỗ dựa. Các xu hướng giải phóng dân tộc theolập trường dân chủ tư sản, theo
xu hướng quân chủ lập hiến và theo con đường cách mạng vô sản đã xuất hiện.
Song cứu nước và giải phóng dân tộc theocon đường nào thì vẫn chưa được xác
định rõ ràng. Trong khi phải đối phó với một kẻ thù hùng mạnh hơn, có kinh
nghiệm xâm lược đã được tổng kết, có tiềm lực kinh tế - quân sự và có cả sự liên
kết quốc tế của các nước đế quốc thực dân thì sự thiếu liên kết, thậm chí chia rẽ
bởi những khuynh hướng khác nhau trong phong trào giải phóng dân tộc, sự
13


thiếu liên hệ quốc tế, thiếu định hướng tư tưởng đã dẫn đến một kết cục bi thảm
là nhiều phong trào yêu nước chân chính, thừa dũng cảm song vẫn thất bại, vẫn
bị dìm trong máu.
Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc, thuộc địa, vấn đề tăng cường

lãnh đạo chỉ đạo giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính
quốc với cách mạng thuộc địa là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất,
nằm ở vị trí trung tâm chú ý của Quốc tế Cộng sản đã định hướng cho các lực
lượng yêu nước và cách mạng Việt Nam, đoàn kết họ lại với nhau để tìm ra một
con đường cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam, thoát khỏi tư tưởng đi tìm
chỗ dựa của những người yêu nước đương thời. Hồ Chí Minh chú trọng nghiên
cứu kỹ những văn kiện cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản đối với
cách mạng nước ta, đặc biệt đánh giá cao những tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin
trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, coi nó là "chiếc cẩm
nang thần kỳ" là "con đường" giải phóng cho chúng ta, chấm dứt tình trạng bế
tắc về đường lối của phong trào đấu ranh yêu nước và cách mạng Việt Nam.
2.1.2. Quốc tế cộng sản giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản là cực kỳ quan trọng. Nhưng để biến đường lối đó thành hiện thực
phải trải qua một công tác tổ chức thực hiện lâu dài, phải có những điều kiện và
biện pháp cụ thể. Quốc tế Cộng sản đã tạo ra môi trường hoạt động quốc tế
thuận lợi giúp đỡ Nguyễn ái Quốc và những người yêu nước Việt Nam trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước, nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng, các
phong trào, tạo diễn đàn đấu tranh để các đảng cộng sản ở chính quốc quan tâm
đúng mức đến việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa. Quốc tế Cộng sản đã giao
nhiệm vụ cho các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp
Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu, chuyển tài liệu về Việt Nam. Tổ chức nhiều lớp học
14


ở trường Đại học phương Đông và các lớp ở Quảng Châu để bồi dưỡng đào tạo
cán bộ trong phong trào. Chính nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua

các phân bộ của mình, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam
có một bước chuyển biến căn bản từ tự phát sang tự giác, từ lẻ tẻ rời rạc đi đến
có tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, đánh
dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng hiện đại Việt
Nam. Thiếu sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản hoặc trực tiếp hoặc thông qua các
chi bộ của mình chủ nghĩa Mác - Lênin khó có thể được truyền bá vào phong
trào cộng sản và công nhân ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Những tác phẩm cơ bản nhất như "Cộng sản sơ giải", "Bệnh ấu trĩ tả khuynh",
"Hai sách lược của Đảng Công nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản",
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" khó có thể vượt qua hàng rào kiểm soát của
chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhờ có việc thâm nhập lý luận Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam đã có bước nhảy
vọt về chất tạo ra những tiền đề cho việc chuẩn bị thành lập đảng mác-xít lãnh
đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2.1.3. Quốc tế Cộng sản đã tạo môi trường, điều kiện cho Nguyễn ái
Quốc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, khảo sát thực tế để xây
dựng và hoàn thiện lý luận về con đường cách mạng Việt Nam
Nhờ hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và
trong Quốc tế Cộng sản, nhờ tiếp thu tận gốc chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái
Quốc đã có một bước chuyển biến căn bản từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
Mác - Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động trong Quốc tế Cộng sản với
tư cách là uỷ viên đoàn Chủ tịch Hội đồng Nông dân quốc tế phụ trách nông dân
các thuộc địa, phụ trách Cục phương Nam Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn ái Quốc đã đi nghiên cứu thực tế ở 28 nước của 4 châu lục, điều mà
ngay cả C.Mác, Ph.ăngghen và V.I.Lênin sinh thời cũng chưa thực hiện được.
Chính từ tiếp thu lý luận và có thực tiễn nghiên cứu phong trào cách mạng các
15



nước để so sánh, để kiểm chứng mà Nguyễn ái Quốc đã có những vượt trội hơn
tầm nhìn của nhiều chính khách đường thời trong đánh giá, sắp xếp lực lượng
các giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sách lược mặt trận, trong
đánh giá xu thế vận động của lịch sử tiến hoà mà thực tiễn lịch sử hiện đại thế
giới và Việt Nam đã minh chứng tính đúng đắn của nó. Chắc chắn nếu không
tiếp thu tận gốc học thuyết Mác - Lênin, nếu không có những cuộc khảo sát
phong trào công nhân và nông dân khắp 4 châu lục, Nguyễn ái Quốc không thể
có những chủ trương chiến lược và sách lược rất sớm, hết sức đúng đắn khác với
Quốc tế Cộng sản đề ra ở Đại hội VI năm 1928.
2.1.4. Quốc tế cộng sản đã đào tạo cho Việt Nam nhiều cán bộ xuất
sắc nắm giữ các trọng trách cao trong Đảng và quốc tế
Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và bồi dưỡng cho cách mạng Việt Nam
nhiều cán bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam.
Thông qua việc phân công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường
lớp của Quốc tế Cộng sản (Trường Quốc tế Lênin, Trường Lao động cộng sản
Phương Đông) nhiều chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trưởng thành trở thành các
lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê
Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v.. Nhờ được đào tạo cơ bản và có hệ
thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý luận. Một số chiến sỹ
cộng sản Việt Nam đã trở thành những "giáo sư đỏ" tham gia vào việc đào tạo
cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
Trong 10 năm đầu thành lập Đảng, các chức vụ chủ chốt trong Đảng như
Tổng Bí thư, Bí thư các xứ uỷ, Tỉnh uỷ hầu hết là do cán bộ được đào luyện từ
Quốc tế Cộng sản đảm đương. Chính vì vậy các chủ trương của Quốc tế Cộng
sản được thực hiện có hiệu quả ở Đông Dương. Nhờ đó cho dù lịch sử có những
biến động, những thay đổi ở mỗi giai đoạn cụ thể khác nhau tác động đến sự cần
thiết phải có sự điều chỉnh về sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ thời kỳ xây
dựng Đảng là đúng đắn và chính xác. Điều đó có được chỉ có thể cắt nghĩa do sự
trưởng thành của cán bộ đảng viên Việt Nam được đào tạo trong Quốc tế Cộng
16



sản. Nhiều đồng chí đã được giao các trọng trách cao trong Quốc tế Cộng sản.
Nhiều đồng chí trở thành cán bộ giảng dạy lý luận của Quốc tế Cộng sản. Theo
số liệu mới nhất, chỉ trong thời gian 10 năm tồn tại của Trường Lao động cộng
sản Phương Đông (1921-1931), Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Đảng ta gần
100 cán bộ mà đại đa số các đồng chí này khi về nước nắm giữ các cương vị
lãnh đạo chủ chốt của Đảng, lãnh đạo phong trào cách mạng từ cấp Trung ương
đến các Xứ uỷ, Thành uỷ, Tỉnh uỷ.
2.1.5. Quốc tế cộng sản đã chỉ đạo, uốn nắn và biểu dương kịp thời
đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Trong thời kỳ tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản thường xuyên chỉ đạo,
uốn nắn kịp thời những vấn đề thuộc về đường lối, những vấn đề chiến lược và
chỉ đạo chiến lược dễ dẫn đến "tả " hoặc hữu khuynh trong thực hiện - một điều
khó tránh khỏi với một Đảng còn non trẻ. Quốc tế Cộng sản đã đúng đắn khi phê
bình sự công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản và có chỉ thị cho Đảng về
sự cần thiết phải hợp nhất Đảng theođúng nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản.
Quốc tế Cộng sản cũng phê bình những biểu hiện "tả" khuynh trong Xô viết
Nghệ An và Xô viết Hà Tĩnh cùng với một vài biểu hiện hữu khuynh, cầu an,
dao động sau thất bại của phong trào. Với thái độ Bôn-sê-vích và tính nhân đạo
cộng sản, thái độ phê bình và chỉ trích của Quốc tế Cộng sản là có tình có lý.
Quốc tế Cộng sản vẫn biểu dương mặt tốt và thấy rõ cả những sai lầm khó tránh
khỏi của một đảng còn trẻ tuổi. Thái độ này giúp cho những người cộng sản Việt
Nam đứng vững và vượt qua khó khăn trong những năm khủng bố trắng của
thực dân Pháp.
Nhờ có Quốc tế Cộng sản những người cộng sản Việt Nam có điều kiện
tập hợp và kiểm điểm, đánh giá lại phong trào thời gian qua, xây dựng Chương
trình hành động năm 1932, Quốc tế Cộng sản chủ trương và chỉ đạo mở nhiều
cuộc thảo luận về các vấn đề cách mạng Đông Dương trong Quốc tế Cộng sản
những năm từ 1931-1934 để chuẩn bị cho các văn kiện chính trị và hồi phục

Đảng ở Đại hội I. Nhờ có Quốc tế Cộng sản, Đảng ta kịp thời chuyển hướng
17


sang thời kỳ Mặt trận dân chủ và sáng tạo ra một hình thức Mặt trận thích hợp ở
Đông Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương mà không sa vào hình thức mặt
trận nhân dân chống đế quốc nói chung. Sự tiếp thu đường lối mặt trận của Đảng
ta trong và sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 đã đánh dấu sự vượt
qua tư tưởng giai cấp chống giai cấp để chuyển sang sự kết hợp giai cấp - dân
tộc trong cách mạng Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông
Dương trên toàn thế giới, giúp cho các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới
có thể học tập từ kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam. Cao trào
1930-1931 được Quốc tế Cộng sản xem như là "những hình thức chủ yếu" của
phong trào cách mạng dân tộc, đã "giáng một đòn trực diện" vào hệ thống đế
quốc chủ nghĩa, coi Xô viết Nghệ Tĩnh là "thành tích đặc biệt to lớn". Quốc tế
Cộng sản lưu ý các đảng cộng sản đặc biệt là Đảng Cộng sản pháp trong lĩnh
vực công tác thuộc địa cần phải học tập nhiều ở các đồng chí Đông Dương.
Chính vì vậy từ một phân bộ dự bị trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp, tháng
4/1931 Quốc tế Cộng sản đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương
là một bộ phận dự trị trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Hàng chục bài báo được
đăng trên Tạp chí Quốc tế Cộng sản đưa tin về tình hình và diễn tiến của phong
trào cách mạng Đông Dương nhằm biểu dương phong trào, đúc rút kinh nghiệm
hoạt động và kêu gọi sự đồng tình giúp đỡ của cộng đồng cộng sản quốc tế với
Việt Nam. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ "phải triệt để tìm mọi phương kế thực hiện
việc giúp đỡ những người cộng sản Đông Dương chăm lo việc gây dựng lại cơ
sở cho Đảng Cộng sản Đông Dương", chỉ cho những người cộng sản Đông
Dương hiểu rõ đường lối của Quốc tế Cộng sản cùng những phương pháp hoạt
động khôn khéo để tập hợp lại thợ thuyền làm đội tiền phong cho cách mạng
Đông Dương. Sự hy sinh của Tổng Bí thư Trần Phú được Quốc tế Cộng sản

đánh giá là một tổn thất to lớn không gì bù đắp được của giai cấp vô sản Đông
Dương mà còn là một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản quốc tế.

18


Chính sự ủng hộ mạnh mẽ, sự đồng tình biểu dương Đảng Cộng sản Đông
Dương của Quốc tế Cộng sản mà nhiều đảng, nhiều phong trào trên thế giới biết
đến Đông Dương, Việt Nam, kính trọng hoạt động của Đảng ta và Nguyễn ái
Quốc. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành
đội tiền phong của giai cấp vô sản Đông Dương đi theo đường lối của Quốc tế
Cộng sản, trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền, dân cày và lao động nghèo khổ xứ
Đông Dương, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là biểu hiện
của Đảng Bôn-sê-vích. Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông
Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội VII và bầu
đồng chí Lê Hồng Phong là uỷ viên chính thức và là một trong hai uỷ viên Ban
Chấp hành Quốc tế Cộng sản là người các nước thuộc địa.
2.2. Những hạn chế của Quốc tế Cộng sảnđến sự ảnh hưởng và
giúpđỡ đối vớicách mạng Việt Nam
Trong hơn 24 năm tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản cũng có một số ảnh
hưởng chưa thật tốt đối với cách mạng Việt Nam. Đó là biểu hiện giáo điều trong
đánh giá về giai cấp tư sản nói chung và giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc
địa nói riêng của Quốc tế Cộng sản ở Đại hội lần thứ VI năm 1928. Đây thực chất
là đường lối giai cấp chống giai cấp, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp đang tồn trại
trong tư duy chính trị của Quốc tế Cộng sản lúc đó.
Xuất phát từ nhận định về sự phản bội của giai cấp tư sản trên phạm vi
toàn thế giới, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa vốn trước đây còn được xem là có thể có tinh thần chống đế quốc thì
hiện tại nó đã phản bội lại công nông như Ấn Độ và Trung Quốc, Quốc tế Cộng
sản chỉ ra rằng giai cấp tư sản nói chung là đối tượng phải đánh đổ. Chủ nghĩa

phát xít và nguy cơ của chiến tranh đang đến gần lại càng làm cho nhận định này
được khẳng định. Nhận định "tả" khuynh này lúc đó chi phối hành động của các
đảng. ở Đông Dương và Việt Nam, thuộc địa lớn nhất của Pháp, đặc điểm của
sự ra đời và phân hoá trong giai cấp tư sản khác rất nhiều nước vì vậy thực hiện
chủ trương này của Quốc tế Cộng sản đã dẫn đến những biểu hiện "tả" khuynh
19


trong tập hợp lực lượng ở Đông Dương. Khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào đào tận
gốc chốc tận rễ" là biểu hiện của tinh thần này. Bài học về sự vận dụng máy móc
một chủ trương, một kinh nghiệm, thiếu điều tra nghiên cứu để vận dụng thích
hợp được thấy ngay từ buổi đầu lập đảng. Bài học này còn kéo dài khi hiểu và
vận dụng không đúng sự phân chia của Quốc tế Cộng sản đối với giai cấp tư sản
ở thuộc địa thành hai phái dân tộc và mại bản, có lúc đồng nhất tư sản dân tộc
cải lương là mại bản làm yếu mặt trận đoàn kết dân tộc chống đế quốc. Ở Việt
Nam tư sản dân tộc có hai khuynh hướng cách mạng và cải lương. Cả hai
khuynh hướng này đều có tinh thần chống Pháp ở những mức độ khác nhau mà
người lãnh đạo cách mạng cần tập hợp được. Hơn nữa chính từ sự nhận định
"tả" khuynh này dẫn đến nhận định về nhiệm vụ chính của cách mạng giải
phóng dân tộc là chống phong kiến là hoàn toàn không đúng. Cốt lõi của cách
mạng giải phóng dân tộc là chống đế quốc như Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh
nêu ra trong Chính cương và Sách lược vắn tắt. Kinh nghiệm lịch sử cách mạng
Việt Nam đã chỉ ra rằng đánh giá đúng các giai cấp, các tầng lớp để có chủ
trương lập mặt trận rộng rãi là một thành công. Việc đánh giá mang tính "tả"
khuynh của Quốc tế Cộng sản đối với giai cấp tư sản đã in dấu đậm và khá dài
trong lịch sử cách mạng Việt Nam đến tận thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Cũng
chính từ điểm này mà những người cộng sản Đông Dương học ở Quốc tế Cộng
sản về và Quốc tế Cộng sản phê phán Nguyễn ái Quốc là "dân tộc", "quốc gia
cải lương" và Người chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc và lập mặt
trận có cả tư sản dân tộc, trung tiêu địa chủ tham gia trong cuộc kịch chiến với

đế quốc Pháp trong những văn kiện đầu tiên do Người khởi thảo.
Quốc tế Cộng sản tuy có nêu trong Cương lĩnh của mình và trong chương
trình nghị sự có đặt vấn đề cách mạng thuộc địa, coi đó là một trọng tâm nhưng
trên thực tế chưa coi trọng đúng mức mặt công tác này. Các Cương lĩnh, các
chương trình còn nằm trên giấy trong khi các phân bộ thuộc các nước chính
quốc ít quan tâm giúp đỡ thuộc địa. Một trong nhiều nguyên nhân là Quốc tế
Cộng sản cho rằng cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi trước mới giúp cho
20


cách mạng thuộc địa thắng lợi. Quốc tế Cộng sản mới chỉ thấy mối liên hệ một
chiều, sự chi phối của cách mạng vô sản chính quốc đến cách mạng thuộc địa
mà chưa thấy mối quan hệ biện chứng, chiều ngược lại mà Nguyễn ái Quốc đã
dự báo và vận dụng thành công. Tư tưởng này đã làm cho không ít đảng cộng
sản, công nhân ở các nước thụ động, ỷ lại, trông chờ vào Quốc tế Cộng sản.
Do áp dụng cơ chế tập trung dân chủ một cách máy móc, trong khi phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế có những diễn biến không giống nhau, việc
nắm thông tin, hiểu biết thực tiễn còn có nơi, có lúc bất cập nên không tránh
khỏi có lúc cứng nhắc, chưa sát thực tế. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và
phong trào cách mạng Việt Nam cũng có những biểu hiện khó tránh khỏi này.
Việc Quốc tế Cộng sản chỉ thị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng
Cộng sản Đông Dương, việc quyết định cử một số cán bộ vào các chức vụ lãnh
đạo trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và việc phê phán Nguyễn ái Quốc thời
gian từ 1931-1938 có thể xem như là những hạn chế ảnh hưởng nhất định đến
phong trào cách mạng Đông Dương.
2.3.Những kinh nghiệm cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong
công cuộc xây dựng đất nước hiện nay:
Phải vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam: Thực tiễn cách mạng đã chỉ ra: nếu áp dụng lý luận cách
mạng một cách máy móc, giáo điều thì sẽ gặp nhiều khó khăn và dẫn đến sai

lầm, hoặc thậm chí phong trào có thể bị thất bại; nếu áp dụng học thuyết cách
mạng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện của nước ta, phải xác định và
giải quyết nhiệm vụ cách mạng đúng lúc thì sẽ cách mạng sẽ thành công. Từ
kinh nghiệm trên trong cách mạng dân tộc dân chủ, ngày nay, trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa, khi công cuộc xây dựng đất nước trong điều kiện hội nhập
quốc tế, chúng ta phải xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu, áp dụng
những quan điểm xây dựng nhà nước, xây dựng nền kinh tế, nền dân chủ, pháp
lý xã hội chủ nghĩa... cho phù hợp với tình hình quốc tế hiện nay có nhiều thay
đổi.
21


Sự cần thiết phải có mối giao lưu, quan hệ quốc tế trong quá trình cách
mạng: Bởi vì giao lưu quan hệ quốc tế, ngày nay rộng hơn là hội nhập quốc tế
sẽ tạo ra những điều kiện khách quan thuận lợi (tuy nhiên, cũng không tránh
khỏi những yếu tố không thuận lợi) tác động trực ti ếp đến thành quả cách mạng.
Vì vậy, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa cũng vậy, chúng ta không thể thực hiện cách mạng thàn h công nếu kh
ông có quan hệ quốc tế. Cách mạng phải được đặt trong mối quan hệ quốc tế.
Đại hội XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là: Chúng ta
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan
hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Công tác đào tạo, giáo dục đội ngũ cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng:
Vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ vừa có đạo đức phẩm chất tốt, vừa có
trình độ, trung thành với lý tưởng cách mạng luôn là vấn đề chiến lược của
Đảng. Ngày nay khi Đảng ta đang lãnh đạo thực hiện công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn đề đào tạo, giáo dục cán bộ lại càng quan
trọng.


22


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh bảo vệ học thuyết Mác - Lênin sau cách mạng tháng 10
Nga, dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng sản ra đời là một tất yếu khách
quan, là bước ngoặt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Quốc tế
Cộng sản ra đời đã khắc phục được sự phân biệt và các xu hướng "hữu", "tả"
khuynh trong phong trào cộng sản. Tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lênin trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc bước vào giai đoạn của chủ nghĩa
phát xít.
Quốc tế Cộng sản trở thành trung tâm, Bộ tham mưu chiến đấu của phong
trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là luận cương củ Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng Việt Nam, Nguyễn ái Quốc
cho rằng đó là cẩm nang thần kỳ của cách mạng Việt Nam.Đường lối giải phóng
dân tộc của các dân tộc thuộc địa của Quốc tế Cộng sản đã được Hồ Chí Minh và
Đảng ta vận dụng sáng tạo vào điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến
và đã giành được thắng lợi vẻ vang, đi tới thành công của cách mạng tháng 81945 đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đánh dấu sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân cả trên phạm vi toàn thế giới.
Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng đối với cách mạng Việt Nam
trong việc định hướng chiến lược về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, về
môi trường để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; về việc tạo điều
kiện cho Hồ Chí Minh nghiên cứu khảo sát, xây dựng đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc của Việt Nam; về việc đào tạo đội ngũ cán bộ xuất sắc, trung
thành lợi ích giai cấp và dân tộc của cách mạng Việt Nam và đóng góp cho
23



Quốc tế Cộng sản và sự uốn nắn, động viên, biểu dương, chỉ đạo kịp thời mọi
hoạt động của cách mạng Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập I, II, III, Nxb Chính trị quốc gia, 2000.
2. Gíao trình lịch sử phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế, Nxb
QĐND, H.2015
3. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, Nxb Thống kê, H.2002.
4. Một số đóng góp của Quốc tế cộng sản đối với cách mạng Việt Nam,
PGS.TS Trình Mưu.
5. Tập bài giảng sau Đại học các môn lich sử phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, lịch sử tư tưởng XHCN, nguyên lý CNXH, qui luật CNXH,
tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH – Đại tá, TS Mẫn Văn Mai – Chủ biên
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011.
7. Phạm Xanh: Nguyễn ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam (1921-1930), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990.
8. Xớckin Đ.C: Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb Sự
thật, H.1960.
9. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ,
Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.
10.V.I.Lênin: Toàn tập,t. 26, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
11.V.I.Lênin: Toàn tập, , t. 41, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005

24




×