Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN GIAI cấp CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG sự NGHIỆP CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa đất nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.52 KB, 21 trang )

1

MỞ ĐẦU
Nhân loại đã buớc sang thế kỷ XXI với những diễn biến quốc tế phức tạp,
khó luờng. Đặc biệt từ sau sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tạm thời lâm vào thoái
trào. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nước
và quốc tế hoạt động ráo riết, ra sức xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Marx – Lenin,
đưa ra thuyết “ kĩ trị”, “hội tụ”, các lý thuyết về “Sự biến mất của giai cấp công
nhân”, về tương lai không cộng sản... nhằm phủ nhận, thay thế học thuyết Marx,
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Thực tế đã có không ít người tỏ ra dao động, hoài nghi, thậm chí
phủ nhận vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên kế thừa thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại và tác động của toàn cầu hóa, trước sự phát triển năng động của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với những thành tựu do công cuộc
đổi mới mang lại, tuy còn những hạn chế, thách thức nhất điịnh nhưng giai cấp
công nhân Việt Nam có những biến đổi tích cực đáng kể, vẫn luôn giữ vững,
phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây, phát triển đất nước.
Qua các kỳ Đại hội, đặc biệt Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta
tiếp tục khẳng định cần phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phấn đấu SỚM đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Vì vậy, để hội nhập, phát triển nhanh mạnh trong cạnh tranh thì
việc khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam – lực
lượng lãnh đạo và động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với việc đưa ra các
giải pháp cơ bản nhằm góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiện hóa, hiện đại hóa của Đảng ta
hiện nay.
Thu hoạch tìm hiểu về giai cấp công nhân Việt Nam với sự nghiệp CNH,
HĐH không phải là mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng vẫn còn


nhiều vấn đề quan trọng đang tiếp tục được đặt ra và đòi hỏi được giải đáp. Dù


2

kiến thức bản thân còn nhiều hạn hẹp, chưa tiếp cận nhiều tài liệu, chưa bao
quát toàn bộ vấn đề nhưng với cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng một số phương pháp khảo sát,
nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… làm sáng tỏ vấn
đề, nhất là nhận được sự giảng dạy tận tâm của các thầy, người viết chọn vấn đề
“Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay” làm thu hoạch kết thúc chuyên đề. Trong phạm vi giới hạn
của thu hoạch kết thúc môn học, thu hoạch tập trung làm sáng tỏ các vấn đề
chính:
• Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
• Đặc điểm và vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước hiện nay.
• Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp phát huy vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp CNH,
HĐH đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.


3

I. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA NÓ
1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khi nền sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời đã thu hút một bộ
phận lớn lao động trong dân cư vào làm việc. Đây là lực lượng lao động hoàn
toàn mới không giống nông dân, thợ thủ công, người buôn bán mà trực tiếp vận

hành máy móc cơ khí. Đó là giai cấp công nhân.
Ngay khi xuất hiện lực lượng lao động mới đó đã thu hút sự nghiên cứu của
các nhà khoa học, tư tưởng trong đó có Marx – Engels. Nhưng khác hẳn với
những nhà nghiên cứu trước đó và cùng thời, Marx – Engels muốn “tìm hiểu
xem giai cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai
cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử” 1. Các ông dùng nhiều huật ngữ
khác nhau để chỉ GCCN: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa
vào bán sức lao động của mình, giai cấp lao động làm thuê trong thế kỷ XIX,
GCCN hiện đại… nhu nhũng cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm
GCCN - con đẻ của nền đại công nghiệp TBCN, đại biểu cho phương thức sản
xuất tiên tiến. Ngoài ra, Marx – Engels còn dùng nhiều thuật ngữ có nội dung
hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành, các giai đoạn phát triển
khác nhau của công nghiệp: công nhân nông nghiệp, công nhân công xưởng,
công nhân thủ công, công nhân công trường thủ công, công nhân hiện đại…2
Cho dù dùng nhiều thuật ngữ khác nhau nhưng trong khi nghiên cứu, Marx
– Engels đặc biệt chú ý phân tích hai tiêu chí, thuộc tính cơ bản để nói lên thế
nào là GCCN đó là
+ Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Marx khẳng định công
nhân là nhũng người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành các công cụ sản
xuất có tính công nghiệp. Với tiêu chí này, các ông khẳng định GCCN khác hẳn
các giai cấp khác”. Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống
như máy móc vậy”3. Họ không ngừng được phát triển về số lượng và chất lượng
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Và các ông đặt tất cả niềm tin khoa
học vào GCCN, bởi vì “các giai cấp khác đều suy tàn và điêu vong cùng với sự
1

Marx – Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr. 56.
TS. Bùi Đình Bôn: Giai cấp công nhân Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiến, Nxb. Lao Động, Hà Nội,
1999, tr. 10.
3

Marx – Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.12, tr.11.
2


4

phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp ấy”4.
+ Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: GCCN là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Do vậy, Marx – Engels gọi họ là giai
cấp vô sản.
Chính đặc trưng của GCCN trong chế độ tư bản khiến họ trở thành giai cấp
đối kháng với giai cấp tư sản và sẽ là lực lượng “đào huyệt chôn CNTB”. Marx
– Engels chỉ rõ sau khi giành chính quyền, vị trí của họ trong quan hệ sản xuất
thay đổi. Lúc đó, họ là người làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu, làm chủ khoa
học và trở thành giai cấp lãnh đạo toàn thể xã hội trong cuộc đấu tranh cải tạo
xã hội cũ xây dựng xã hội mới.
Từ hai tiêu chí trên có thể coi công nhân là những người lao động trong các
ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp và địa vị kinh tế - xã hội của
họ tùy thuộc vào chế độ xã hội đương thời. Còn những người làm công ăn
lương trong các ngành y tế, giáo dục, văn hóa, dịch vụ…Không phải là công
nhân mà là người lao động nói chung. Như vậy, có thể hiểu” GCCN là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành, phát triển cùng quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp hoặc
tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các
quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên
CNXH”, động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng CNXH 5.
Ngày nay, với sự phát triển của CNTB, bộ mặt của GCCN hiện đại có

nhiều thay đổi khác trước về cơ cấu ngành nghề, xu hướng “trí thức hóa” công
nhân, phần đông công nhân không còn là những người vô sản trần trụi với hai
bàn tay trắng như trước. Nhưng thực sự toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản nhất,
quyết định nhất đối với nền sản xuất TBCN vẵn nằm trong giai cấp tư sản, và
GCCN về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động và bị
4
5

Marx – Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 610.
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 99.


5

bóc lột giá trị thặng dư dù hình thức bóc lột tinh vi và khó thấy hơn. Vì vậy,
những quan điểm của Marx – Engels về hai tiêu chí cơ bản của GCCN đến nay
vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở để nghiên cứu GCCN hiện đại và làm sáng
tỏ SMLS của GCCN trong thời đại mới.
2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử bao giờ cũng có một
giai cấp tiến bộ nhất, đứng ở vị trí trung tâm, thúc đẩy sự vận động, phát triển
của lịch sử giai đoạn đó. Từ khi cách mạng tháng Mười Nga, cuộc cách mạng
XHCN đầu tiên giành thắng lợi, GCCN chính thức bước lên vũ đài lịch sử,
đứng ở vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội và với những đặc điểm riêng của
mình, GCCN là giai cấp có SMLS cao cả là lật đổ chế độ TBCN, giành chính
quyền về tay GCCN và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng GCCN, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại. Đồng thời lãnh đạo,
tổ chức và thực hiện quá trình xây dựng xã hội mới – xã hội XHCN – CSCN
văn minh. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx - Lênin đã khẳng định rằng

“thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy – đó là SMLS của giai cấp vô sản
hiện đại” 6. Và “điểm chủ yếu trong học thuyết của Marx là ở chỗ nó làm sáng
rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội XHCN”7.
Ngoài ra trong bối cảnh quốc tế hiện nay, GCCN tiếp tục khẳng định sứ
mệnh lịch sử thế giới, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản
xuất chủ yếu, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa và quốc tế hóa nền sản xuất công
nghiệp, biến những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội về tay GCCN và nhân
dân lao động, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Như vậy, nội dung SMLS của GCCN khác hẳn về chất so với SMLS của
giai cấp trước nó dù tiến bộ như giai cấp tư sản thì cũng chỉ thay thế chế độ bóc
lột này bằng chế độ bóc lột khác. Còn SMLS của GCCN là có tính dân tộc đặc
sắc, có tính chất quốc tế rộng rãi vì trong quá trình đấu tranh, không những
GCCN liên minh được với các giai cấp khác mà GCCN các quốc gia còn có sự
liên hiệp lại được với nhau và được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân lao động
6
7

Marx – Engels: Sđd, 1994, t.20, tr. 393.
V. I. . Lenin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t. 23, tr. 1.


6

toàn thế giới. Hơn nữa, ngày nay, trình độ xã hội hóa và quốc tế hóa trong công
nghiệp ngày càng cao, cùng với quá trình toàn cầu hóa, và tình hình quốc tế có
nhiều biến đổi mạnh mẽ, GCCN các nước càng phải liên hệ chặc chẽ với nhau
hơn. Chính vì vậy, việc thực hiện SMLS của GCCN là hết sức lâu dài, khó
khăn, gian khổ, đòi hỏi GCCN một mặt phải thực hiện kiên trì SMLS trong thời
gian dài, mặt khác phải thường xuyên gắn bó với các dân tộc, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp, đồng thời phải thường xuyên đấu

tranh chống chủ nghĩa cơ hội và các thế lực thù địch với CNXH, CNCS. Đó là
SMLS thế giới, phấn đấu vì lợi ích của dân tộc mình phải “tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” 8, đồng thời phải vì lợi ích của
toàn thể loài người.
b. Những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
- Điều kiện về địa vị kinh tế - xã hội
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát
triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp
hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công
nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá
nhỏ, bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát
triển tiếp tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao
động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản
thân sự phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao
động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất
trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản.
Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày
càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực
8

Marx – Engels: Sđd, 1995, t.4, tr. 624.


7


lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là
đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư
sản là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục đư ợc
nếu không xoá bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu
thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sự vận
động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền
sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế
tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động
làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào
quá trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành
lao động, phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được
làm chủ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư
sản (bị bóc lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột
theo chiều sâu).
Giai cấp công nhân hiện nay ở các nớc tư bản có đời sống vật chất cao vẫn
bị bóc lột, bần cùng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công nhân có cổ phần, tức là
đã ra nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản xuất đó là công nhân tư bản
nhân dân nhưng con số này vẫn còn rất khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá
triển, công nhân bị bóc lột cao hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh
lệch giàu nghèo cũng khá cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai
cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm
của nền đại công nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá
ngày càng cao, và nó lao động trong nền đại công nghiệp với trình độ công nghệ
ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt đại của cải cho xã hội.



8

Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động đã tạo điều kiện cho giai cấp
công nhân đoàn kết với giai cấp khác, đi đầu trong công cuộc đấu tranh để thực
hiện quá trình giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Họ có khả năng đoàn kết
giai cấp khác (tất cả giai cấp vô sản) vì giai cấp công nhân: có cùng lợi ích cơ
bản, thống nhất nhau do bị bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi
trường sản xuất nh nhau có tính chất công nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư
bản trong nước và quốc tế bóc lột; có cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt
tư sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Điều kiện về những đặc điểm chính trị - xã hội của GCCN
Vì GCCN là sản phẩm của nền đại công nghiệp, được tôi luyện trong nền
sản xuất đó nên họ có được những phẩm chất, đặc điểm riêng nổi trội mà không
giai cấp nào có được:
Một là, GCCN là giai cấp tiên tiến nhất, có bản chất cách mạng triệt để
nhất “ trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng” 9, vừa là động lực chủ yếu vừa là
lực lượng lãnh đạo trong quá trình chuyển biến cách mạng từ CNTB lên CNXH.
Hai là, GCCN có tinh thần quốc tế vô sản. Phẩm chất này là có cơ sở và nền
tảng xã hội của nó từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc mà phát triển
lên, đồng thời bắt nguồn từ bản chất quốc tế hóa ngày càng rộng lớn của nền sản
xuất công nghiệp hiện đại, tính từ triệt để cách mạng và sự thống nhất về lợi ích
của GCCN trên toàn thế giới “giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”10.
Ba là, GCCN có hệ tư tưởng độc lập, đặc biệt là Chủ nghĩa Marx – Lênin,
với đội tiên phong là Đảng Cộng Sản, mang bản chất GCCN, thể hiện lợi ích
GCCN, dân tộc và loài người tiến bộ.
Bốn là, GCCN có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tính tiên tiến, tiên phong. Từ
đó tạo cho GCCN có ý thức tổ chức kỷ luật trong các lĩnh vực khác11.

9

Marx – Engels: Tuyển tập, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1980, t.1, tr. 554.
Marx – Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 613.
11
PGS. TS. Dương Xuân Ngọc: Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 45.
10


9

II. GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1. Đặc điểm riêng của giai cấp công nhân Việt Nam
GCCN Việt Nam trải qua hơn hai thế kỉ trưởng thành, phát triển. Thực tiễn
lịch sử đã chứng minh “GCCN là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan
góc, đương đầu với bọn đế quốc thực dân…. Đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng
nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam” 12. GCCN Việt Nam là một bộ
phận của GCCN quốc tế nhưng do điều kiện lịch sử văn hóa truyền thống dân tộc
qui định, GCCN Việt Nam còn có những đặc điểm riêng sau:
a. Những đặc điểm riêng có tính ưu điểm
Một là, GCCN Việt Nam sinh ra và lớn lên từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé chưa phát
triển, lại bị bóc lột nặng nề bởi ách đô hộ ngoại bang, nên dù nhỏ bé song kế
thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, GCCN sớm trở thành giai
cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận, giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Đặc biệt với những đặc điểm hết sức nổi bật của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam càng làm cho sức mạnh của GCCN được nhân lên gấp bội.

Hai là, xuất hiện, ra đời muộn hơn GCCN của nhiều nước (ra đời vào
những năm đầu thế kỉ XX gắn liền cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp),
nhưng GCCN Việt Nam hình thành trước giai cấp tư sản dân tộc, trong hoàn
cảnh đấ nước sôi sục khí thế đấu tranh càng có tác dụng thúc giục GCCN Việt
Nam đấu tranh thực hiên SMLS. Cũng trong hoàn cảnh đó, GCCN Việt Nam
tuy chưa có kinh nghiệm tổ chức đấu tranh nhưng có điều kiện kế thừa thành
quả của GCCN các nước.
Ba là, GCCN Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nông dân, bị thực dân phong
kiến bóc lột nên gắn bó mật thiết và có mối quan hệ máu thịt với người nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Vì thế, GCCN nước ta đã đoàn kết toàn
dân tộc trên cơ sở khối liên minh công – nông – trí thức vững chắc, đưa cách mạng
nước ta vượt muôn vàn khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
12

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10, tr. 8 – 9.


10

Bốn là, GCCN Việt Nam được sự vạch đường, chỉ lối của Nguyễn Ái
Quốc – vị lãnh tụ vĩ đại, sáng suốt của dân tộc và sớm thành lập được Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Ngay từ đầu, Đảng đã biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Marx – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, đề ra cương lĩnh cứu nước đúng
đắn của dân tộc: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Do vậy, GCCN Việt Nam
luôn có và luôn phát huy tinh thần cách mạng triệt để, là lực lượng đi đầu trong
giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự nghiệp đổi mới 13, giữ
địa vị lãnh đạo quá trình xây dựng CNXH.
Năm là, cùng với quá trình CNH, HĐH , phát triển đất nước, GCCN Việt
Nam ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, có xu hướng trí thức hóa
ngày càng mạnh mẽ.

b. Những đặc điểm riêng có tính hạn chế
Do những đặc điểm riêng đó và trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mở
của hội nhập, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, bên
cạnh những ưu điểm trên, GCCN cũng bộc lộ một số yếu kém, bất cập, hạn chế
việc phát huy vai trò tiên phong của mình. Đó là tính tổ chức, kỉ luật chưa cao,
chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, tư tưởng, tâm lý, tác
phong, thói quen của người sản xuất nhỏ còn khá nặng nề mà biểu hiện rõ là
tính tùy tiện, sự manh mún, tản mạn, tư tưởng cục bộ, phường hội, tính gia
trưởng… trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, ngoại ngữ và tay nghề của
công nhân còn thấp so với yêu cầu; Sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ
thuật. Bên cạnh đó, lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động,
tác phong công nghiệp của công nhân còn hạn chế. Thêm vào đó là ý thức tham
gia vào các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân không cao, còn một bộ
phận công nhân bị thoái hóa và tha hóa về thái độ lao động, phẩm chất giai cấp
và đạo đức, lối sống. Ngoài ra, trong đội ngủ công nhân cũng xuất hiện những
hiện của chủ nghĩa thực dụng, tâm lý coi thường kỷ cương, phép nước, bất chấp
nhân phẩm đạo đức, làm đủ mọi việc miễn là có lợi cho bản thân…

13

TS. Bùi Đình Bôn: Sđd, tr. 24 – 25.


11

Do đó, hiện nay GCCN Việt Nam đang có những “biểu hiện phân hóa,
phân tầng trong thu nhập, lợi ích, mức sống, lối sống, ý thức giác ngộ chính trị”
14

, dẫn đến hệ quả là đã và đang hình thành những tầng lớp tỏng GCCN nước ta.

Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện vai trò, SMLS

của GCCN nước ta trong giai đoạn mới, CNH, HĐH đất nước. Điều này đòi hỏi
toàn Đảng toàn dân phải quan tâm khắc phục.
Với những đặc điểm đó có thể hiểu GCCN Việt Nam hiện nay là "một lực
lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và
trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp"

15

ngày càng hiện đại. Cho đến hiện nay, cùng với quá trình thực hiện nhất quán
đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đường lối CNH,
HĐH đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, GCCN nước ta “chưa định
hình một số nét”, có chuyển biến nhanh chóng, đặc điểm tính chất của công
nhân còn nhiều biến đổi với những cái mới, đặc biệt đang có xu hướng “trí thức
hóa” mạnh mẽ. Tuy nhiên, GCCN Việt Nam luôn giữ vững và nâng cao vị trí,
vai trò của mình.
2. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và yêu cầu
xây dựng giai cấp công nhân nước ta hiện nay
CNH, HĐH là quá trình phát triển tất yếu của xã hội loài người, là con
đường đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trên thế giới và khu vực. Vì vậy ngay từ Đại hội Đảng lần thứ III (tháng
9/1960) Đảng ta đã xác định CNH là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.
Nhưng do nhận thức giáo điều về mô hình CNH XHCN của Liên Xô, chúng ta
đã mất phải những sai lầm nghiêm trọng. Nhận thức rõ sai lầm và sửa chữa,
Đảng ta trong hội nghị lần VII, Ban Chấp Hành Trung ương khóa VII, đã khẳng
định thực chất “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công

14

TS. Nguyễn An Ninh: Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008, tr. 70 – 72.
15
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2008.


12

nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”16. CNH, HĐH là hai quá trình nối tiếp đan xen nhau. Nhưng qua trình
CNH, HĐH ở nước ta có đặc điểm khác hẳn so với các nước khác. Tại Đại hội
Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ thứ XI, Đảng ta đã xác định: “Đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nhanh, bền vững” 17. Trong bối cảnh hiện nay, CNH, HĐH ở Việt
Nam có những đăc điểm cơ bản:
CNH, HĐH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất
cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Đó
là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ
công nghệ hiện đại cùng sự chuyển dịch lực lượng lao động thích ứng với cơ
cấu ngành nghề, kết hợp công nghệ truyền thông và hiện đại, tranh thủ đi nhanh
vào côn nghệ hóa ở những khâu nhất định.
Quá trình CNH, HĐH bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước,
được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn
cơ bản thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý, cho phép khai
thác tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của đất nước, gắn liền quá trình phân công

lại lao động xã hội theo hướng giảm dần tỷ trọng và số lao động trong nông
nghiệp, trong lao động giản đơn và ngành sản xuất vật chất còn trong công
nghiệp lao động trí tuệ, sản xuất phi vật chất tăng nhanh. Bên cạnh đó, CNH,
HĐH phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản và phải gắn
với mục tiêu phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu về các loại lao động mà quá
trình CNH, HĐH đòi hỏi.
CNH, HĐH là sự nghiệp toàn dân, vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là
quá trình kinh tế xã hội, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống văn hóa xã hội của
tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời gắn liền với việc “xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ đi đôi với chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm thu
16

GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS. TS. Nguyễn Thế Nghĩa, PGS. TS. Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên): Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 9.
17
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 37.


13

hút vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý của các nước đi trước, đồng
thời đẩy mạnh xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.
CNH, HĐH không phải là mục đích tư thân mà là một phương thức có tính
phổ biến để thực hiện mục tiêu phát triển của mỗi nước.
Một cách khái quát, với nước ta hiện nay, CNH, HĐH có tác dụng to lớn
trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng, đến
quốc phòng , an ninh. Sự thành công của CNH, HĐH sẽ đưa nước ta trở thành
một nước “công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an

ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 18.
CNH, HĐH đất nước là điều kiện cơ bản và chủ yếu nhất để phát triển GCCN
cả về số lượng và chất lượng, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Để đạt
được mục tiêu do Đại hội Đảng đề ra từ nay đến 2020, ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đảng và nhân dân ta phải không
ngừng nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người Việt Nam, nhân
tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH mà nguồn lực quan trọng nhất
là giai cấp công nhân và trí thức. Yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH không chỉ
đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân có ý thức giác ngộ giai cấp sâu sắc, bản
lĩnh chính trị vững vàng, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn mà còn cần có
một đội ngũ công nhân có tính tổ chức kỹ luật, tác phong công nghiệp, có đạo
đức, lối sống lành mạnh, có trình độ học vấn và có kỹ năng nghề nghiệp. Có như
vậy mới làm việc tạo năng suất, chất lượng hiệu quả cao 19.
3. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
Qua gần 30 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước,
GCCN nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, hiện nay: tăng nhanh về
số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày
càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức. Là đội quân chủ lực, lực lượng sản
xuất chủ yếu có mặt trong tất cả các thành phần và các ngành của nền kinh tế
18

GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS. TS. Nguyễn Thế Nghĩa, PGS. TS. Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên): Sđd,
tr. 22.
19
PGS. Cao Văn Lượng (cb): Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 189.


14


quốc dân, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và phát
triển nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Sự phát triển của GCCN Việt Nam sẽ
không ngừng tăng cường và phát triển lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH, hiện nay, GCCN Việt Nam chiếm gần 18% lực lượng
lao động xã hội, đang nắm giữ những cơ sở vật chất và phương tiện sản xuất
hiện đại, quyết định chiều hướng phát triển chủ yếu của kinh tế đất nước, hằng
năm đã tạo khối lượng tổng sản phẩm công nghiệp chiếm 40% tổng sản phẩm
xã hội, chiếm 70% GDP, đảm bảo 60% ngân sách nhà nước 20. Thực tế đã chứng
tỏ GCCN luôn giữ vững, phát huy bản chất cách mạng, truyền thống đoàn kết,
cần cù, sáng tạo, là lực lượng tiên phong trong việc kiến tạo nền kinh tế công
nghiệp hiện đại và năng động, nhạy bén trong tổ chức đời sống xã hội.
Đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ đã và đang là cơ sở chính trị xã hội, chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước, là nhân tố đảm bảo cho việc
giữ vững chính quyền nhà nước XHCN, ổn định chính trị - xã hội, phát huy dân
chủ XHCN. Đồng thời, GCCN Việt Nam, thông qua Đảng tiên phong của mình,
phát huy những truyền thống cách mạng tốt đẹp, là lực lượng quyết định trong
việc thực hiện đường lối đối nội, đối ngoại, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo định hướng XHCN.
Song song đó, GCCN Việt Nam còn làm nòng cốt giữ vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, là lực lượng nòng cốt của khối
liên minh công - nông - trí thức và trong khối đại đoàn kết dân tộc và có vai trò
to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc. Trước đây, trong khi đất nước có chiến
tranh, công nhân không chỉ chế tác vũ khí cung cấp cho chiến trường mà còn là
những công nhân mặc áo lính trực tiếp chiến đấu, mặt đối mặt với kẻ thù. Ngày
nay, trong điều kiện hòa bình, họ lại là lực lượng nòng cốt đi đầu trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, tham gia xây dựng nền quốc phòng hiện đại, một yếu
tố quan trọng tạo sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân 21.

20


Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn Xu hướng biến động giai cấp công
nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2001, tr. 14.
21
PGS. TS. Dương Xuân Ngọc: Sđd, tr. 155.


15

Tuy nhiên, nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khóa X cũng đã chỉ ra một số
hạn chế tồn tại của GCCN Việt Nam:
+ Sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng, cơ cấu và
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH
và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề.
+ Tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế.
+ Đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ
thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
+ Địa vị chính trị của GCCN chưa thể hiện đầy đủ.
+ Còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong khối liên minh C -N-T.
+ Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều;
Sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế.
+ Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia
hoạt động trong các tổ chức CT -XH.
+ Lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với
thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình.
+ Việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều
khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các
doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Nguyên nhân hạn chế như tinh thần của nghị quyết Hội nghị trung ương 6
khóa X cũng đã chỉ ra:
+ Chịu ảnh hưởng của những hạn chế yếu kém trong phát triển KT -XH.
+ Sự quan tâm của Đảng chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của
GCCN trong thời kỳ mới.
+ Chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế, bất cập.
+ Hiệu quả hoạt động của công đoàn và các tổ chức CT -XH khác chưa cao,
còn nhiều yếu kém.
+ Sự nỗ lực vươn lên của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.


16

+ Một số doanh nghiệp và người sử dụng lao động vi phạm chính sách, luật
pháp đối với người lao động.
4. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giai cấp công
nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay
Đảng ta xác định mục tiêu xây dựng GCCN đến năm 2020 là: Xây dựng
GCCN lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hoá: có trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm
chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có
giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ
luật lao động cao.
Việc xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát
huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức cũng như các tầng lớp xã hội khác trong khối đại đoàn kết toàn dân

tộc. Với bối cảnh quốc tế, trong nước nhiều biến động, phức tạp, và căn cứ thực
trạng GCCN Việt Nam hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có chiến lược
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đi đôi với xây dựng, phát triển GCCN tạo ra
động lực sâu xa nhằm khơi dậy và phát huy tổng hợp sức mạnh cuả GCCN với
tư cách là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một số giải
pháp chủ yếu cần thực hiện là:
Thứ nhất, Khẩn trương giải quyết có hiệu quả của một vấn đề bức
thiết, nóng bỏng nổi cộm, nhức nhối nhất hiện nay
Đây là vấn đề chiến lược lâu dài về xây dựng giai cấp công nhân trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam hiện nay. Việc
làm - đời sống- dân chủ và công bằng xã hội đã, đang và sẽ còn là những đòi
hỏi bức bách, chính đáng của công nhân. Những vấn đề ấy có tác động chi
phối rất lớn đến ý thức, hành động, tâm tư, tình cảm, lòng tin và khả năng
sáng tạo, v.v.. của công nhân. Xuất phát từ quan điểm lấy việc phục vụ con
người là mục tiêu của chính sách xã hội và các chương trình phát triển kinh


17

tế - xã hội, coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người, cũng như để củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với
giai cấp công nhân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những phương hướng
cơ bản, chiến lược; biện pháp cụ thể, kiên quyết, có hiệu lực và không thể
chậm trễ để từng bước giải quyết và đáp ứng những yêu cầu tối thiểu, chính
đáng ấy của công nhân. Đó vừa là vấn đề đạo lý, nhân văn, chính trị, vừa là
đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của chính yêu cầu sản xuất, của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là tiền đề và điều kiện để công nhân tồn tại và
phát triển về mọi phương diện. Vấn đề này có quan hệ chặt chẽ đến việc có
thực hiện và phát huy được vai trò của giai cấp công nhân hay không, đến
việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XI đã nêu lên.
Thứ hai, Thực hiện trong cuộc sống quyền làm chủ thực sự của
công nhân, thực hiện dân chủ- công khai- công bằng xã hội; đấu tranh
khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy
Đảng và Nhà nước, trong các xí nghiệp, đơn vị sản xuất thuộc khu vực
Nhà nước quản lý
Dân chủ và công bằng xã hội là bản chất ưu việt cuả chủ nghĩa xã hội,
là động lực tinh thần khuyến khích mọi người lao động sáng tạo xây dựng
cuộc sống mới. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có đấu tranh thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, khắc phục tệ quan
liêu, đặc quyền, đặc lợi thì mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với giai cấp
công nhân mới được củng cố, tăng cường, đảm bảo cho công cuộc đổi mới
và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi.
Để phát huy quyền làm chủ thực sự của công nhân cần phải: quan tâm
bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ công nhân để họ có kiến thức, thói quen và
năng lực làm chủ. Không có kiến thức, năng lực làm chủ thì quyền làm chủ chỉ
là hình thức; tạo ra những điều kiện và xây dựng được cơ chế hữu hiệu để thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của công nhân trong từng loại hình xí nghiệp,
đơn vị sản xuất, trong các thành phần kinh tế và trên phạm vi toàn xã hội; công


18

nhân thực hiện quyền làm chủ bằng Nhà nước và các Đoàn thể đại diện cho
mình, đồng thời làm chủ một cách trực tiếp, thường xuyên ở cơ sở...
Thứ ba, Phát triển lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và những thành tựu tiên tiến của cách mạng khoa học- kỹ thuật
vào sản xuất
Phát triển lực lượng sản xuất, ứng dụng những thành tựu của cách
mạng khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, phát triển công nghiệp chẳng những là

tất yếu khách quan đối với nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện nay nhằm nâng cao năng suất lao động, đời sống của nhân dân và
từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, mà còn là
điều kiện hết sức quan trọng đẻ phát triển giai cấp công nhân về số lượng và
chất lượng.
Phát triển lực lượng sản xuất và công nghiệp sẽ làm cho giai cấp công
nhân tăng lên về số lượng tuyệt đối cũng như về tỷ lệ trong tổng số dân cư
và cơ cấu lao động xã hội làm cho cơ cấu xã hội - giai cấp biến đổi tương
xứng với vai trò, vị trí của giai cấp công nhân.
Sự phát triển về số lượng đến một chừng mực nhất định sẽ dẫn đến sự
nhảy vọt về chất lượng của đội ngũ giai cấp công nhân.
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng giai cấp công nhân về
mọi phương diện: trình độ chính trị, văn hoá, tay nghề, bậc thợ, đội ngũ công
nhân kỹ thuật, thợ bậc cao, lành nghề, năng suất lao động, khả năng sáng tạo
làm chủ, phẩm chất giai cấp, tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết giai cấp,
đoàn kết quốc tế, tác phong đại công nghiệp… sẽ được nâng cao song song
với quá trình phát triển công nghiệp, lực lượng sản xuất, ứng dụng những
thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, hiện đại hoá công
nghệ, quá trình ấy vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những điều kiện vật chất cho việc
nâng cao chất lượng giai cấp công nhân.
Thứ tư, Đổi mới công tác giáo dục, đào tạo công nhân, nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục giác ngộ giai cấp
Từ thực trạng đội ngũ giai cấp công nhân và công tác giáo dục, đào tạo
công nhân trong thời gian vừa qua, cũng như để đáp ứng với yêu cầu sản xuất


19

hiện đại, của cơ chế quản lý mới trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và vai trò ngày càng tăng về mọi mặt của

nó, một nhiệm vụ đặt ra như một đòi hỏi bức bách là, phải hết sức quan tâm
đến vấn đề giáo dục và đào tạo công nhân, đổi mới công tác giáo dục và đào
tạo đội ngũ người thợ.
Cần phải đổi mới toàn diện cả về nội dung, hình thức, phương pháp và
biện pháp giáo dục dưới ánh sáng của quan điểm đổi mới và hiện đại hoá.
Để làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục công nhân trong điều kiện
hiện nay, phải bồi dưỡng, đào tạo được một đội ngũ những người làm công
tác giáo dục có tài năng, hùng biện, hiểu biết sâu rộng vê lý luận và thực tiễn.
Nhưng, quan trọng hơn, có ý nghĩa quyết định là, phải bằng những việc làm
thực tế của Đảng và Nhà nước, mang lại những quyền lợi vật chất và tinh
thần cho công nhân, chứng tỏ trên thực tế tính ưu việt của CNXH hiện thực ở
Việt Nam về mọi phương diện trong cuộc sống hàng ngày của công nhân và
quần chúng lao động. Công tác giáo dục sẽ không có hiệu quả khi mà cuộc
sống hàng ngày của công nhân và nhân dân lao động ngày càng chống chất
khó khăn; tiêu cực, tham nhũng hoành hoành; bất công xã hội ngày càng
nhiều; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội không đảm bảo.v.v.
Thứ năm, Đổi mới và nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính trị, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng
Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định để xây dựng giai cấp công nhân vững
mạnh, ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của nó. Sức mạnh của giai cấp công nhân
là ở tổ chức của nó. Vì thế, xây dựng giai cấp công nhân và các tổ chức của
nó có quan hệ biện chứng với nhau. Giai cấp công nhân không thể vững
mạnh, nếu các tổ chức chính trị - xã hội, quần chúng và đoàn thể xã hội khác
của nó không vững mạnh, và ngược lại. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống
thống chính trị.
Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân. Không thể xây dựng giai cấp công nhân
vững mạnh và nêu cao vai trò của nó nếu không tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, là vấn đề có ý nghĩa quyết định để



20

xây dựng được đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, thực hiện
được vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng phải
coi trọng công tác lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn; thường
xuyên chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh
về mọi mặt; đề ra chiến lược, chính sách toàn diện xây dựng giai cấp công
nhân. Đường lối, chính sách của Đảng phải là đường lối chính trị của giai cấp
công nhân, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân. Còn thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong đường lối
chính trị, đường lối tổ chức và công tác cán bộ.Quán triệt tư tưởng, lập
trường giai cấp công nhân trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức thuộc hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa.Chú ý phát triển Đảng, tuyển chọn cán bộ
trong công nhân, tăng tỷ lệ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp của
Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh, thường xuyên củng cố mối quan hệ mật
thiết, sự gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với giai cấp công nhân. Đó là một
phương hướng cơ bản để xây dựng giai cấp công nhân. Khắc phục bệnh quan
liêu, xa rời giai cấp, xa rời quần chúng: kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những
đảng viên thoái hoá, biến chất, sa đoạ về phẩm chất đạo đức, đàn áp, ức hiếp
quần chúng.
Trên đây là những biện pháp vừa cơ bản vừa cấp bách nhằm xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng vai trò của nó trong công
cuộc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những
biện pháp trên có liên quan, tác động lẫn nhau, tạo ra sức mạnh tổng hợp. Do
đó, cần phải tiến hành đồng thơì các biện pháp ấy, không thể xem nhẹ một
biện pháp nào.


21


KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân nước ta đang trong quá trình hình thành, phát triển
từng bước thành giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, và nhất là ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, sự biến
động cơ cấu trong nội bộ giai cấp công nhân đã, đang và còn diễn ra sự phân
hoá, đan xen phức tạp, sự đa dạng không thuần nhất trên phạm vi toàn giai cấp
cũng như trong từng bộ phận của nó - sự mất cân đối trong cơ cấu đội ngũ về
số lượng và chiến lược giữa các bộ phận công nhân trong các thành phần, khu
vực kinh tế ngày càng tăng lên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ. Tuy tăng
vậy, nó vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, bởi nó vẫn là giai cấp tiên tiến,
cách mạng nhất so với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra
đời đến nay, thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
luôn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất nước trong thời kì mới. Đặc biệt trong
công cuộc CNH, HĐH hiện nay, tuy có những hạn chế nhất định nhưng giai cấp
công nhân Việt Nam vẫn giữ vai trò lãnh đạo và là động lực chủ yếu, quyết định
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Vì vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải thường xuyên nghiên cứu lý luận,
tăng cường tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để đề ra chiến lược tổng thể toàn
diện, xây dựng phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và
phát triển kinh tế xã hội đất nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm
vụ kinh tế xã hội mà Đại hội XI của Đảng đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tiến bước vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đây là trách nhiệm không chỉ của bản
thân giai cấp công nhân mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta.




×