Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.78 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tiền lương không chỉ là phạm trù kinh tế mà còn là yếu tố hàng đầu
của các chính sách xã hội liên quan trực tiếp tới đời sống của người lao động.
Tiền lương có tác động đến việc quản lý kinh tế, tài chính, quản lý lao động,
kích thích sản xuất. Trải qua các thời kỳ, chính sách về tiền lương của Nhà nước
đã có những sự thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, tình
hình lạm phát đang ở mức cao, chính sách tiền lương đang thể hiện nhiều bất
cập, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Đó là nguyên nhân chính
dẫn đến hàng loạt các cuộc đình công trong khu vực doanh nghiệp và hiện tượng
chảy máu chất xám trong khu vực các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà
nước.
Mặt khác, để thực hiện cam kết khi gia nhập WTO nền kinh tế nước
ta phải được vận hành theo nguyên tắc thị trường và không phân biệt đối xử,
trong đó chính sách tiền lương phải điều chỉnh cho phù hợp với nguyên tắc này.
Tiền lương tối thiểu là một bộ phận cấu thành của chế độ tiền lương, có vị trí hết
sức quan trọng trong hệ thống tiền lương, có ảnh hưởng tới toàn bộ chính sách
tiền lương. Tiền lương tối thiểu không chỉ áp dụng cho lao động giản đơn mà nó
còn là khung pháp lý quan trọng, là cơ sở để trả công lao động toàn xã hội. Việc
quy định mức lương tối thiểu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với
việc bảo vệ người lao động mà còn có ý nghĩa lớn đối với việc phát triển kinh tế,
ổn định quan hệ lao động, ổn định chính trị – xã hội. Tuy nhiên, trước biến động
của tình hình giá cả như hiện nay, mức tiền lương tối thiểu quy định hiện tại là
quá thấp. Mặc dù Nhà nước đã điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu hàng năm,
song nó vẫn chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế, chưa thực hiện được
chức năng bảo đảm cho người lao động ở mức sống tối thiểu. Vì vậy tôi lựa
chọn đề tài “THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM ” nhằm đóng góp phần nào ý nghĩa
lý luận cũng như thực tiễn trong việc nhận thức một cách hệ thống, đầy đủ hơn
về pháp luật, các bất cập của pháp luật cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật
lao động Việt Nam về tiền lương tối thiểu.



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TRONG KHU VỰC CÔNG
1.1 Một số khái niệm
1.1.1. Khu vực công

cơ bản

Có nhiều cách hiểu khác nhau về khu vực công. Trong thực tế, thuật
ngữ “ khu vực công” (public sector) thường được hiểu đồng nghĩa với “ khu vực
nhà nước” (state sector). Theo nghĩa đó, khu vực nhà nước là khu vực hoạt động
của xã hội trong đó, nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối. Thuật ngữ này
thường được dùng để phân biệt với “ khu vực tư” hay “ khu vực phi nhà nước”,
tức là khu vực hoạt động sản xuất sản phẩm và dịch vụ do tư nhân quyết định.
Cũng có nhiều người phân biệt khu vực công và khu vực tư theo nguồn
tài chính cung cấp cho hoạt động của các khu vực này, theo đó khu vực công là
khu vực được cung cấp tài chính từ ngân sách nhà nước. Điều đó có nghĩa là cả
những thành phần thuộc khu vực nhà nước do tư nhân đảm nhận nhưng người
chi tiền để tiến hành các hoạt động đó là nhà nước. Ví dụ, nhà nước có thể chi
tiền cho một tư nhân nào đó xây dựng một con đường cao tốc và giao cho người
đó quản lý khai thác theo những quy định của nhà nước. Hoạt động đó là một
hoạt động thuộc khu vực công.
Như vậy, có thể hiểu khu vực công là khu vực phản ánh các hoạt động
kinh tế- chính trị- xã hội do Nhà nước quyết định. Mọi hoạt động do nhà nước
làm chủ sở hữu, nhà nước đầu tư vốn, trực tiếp thực hiện hoặc một phần do tư
nhân đầu tư, tiến hành có sự trợ giúp tài chính của nhà nước và được nhà nước
quản lý nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phục vụ các nhu cầu chung thiết
yếu của xã hội.
1.1.2 Tiền lương
“Tiền lương là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở

thỏa thuận giữa người lao động (NLĐ) với người sử dụng lao động (NSDLĐ)
thông qua hợp đồng lao động (bằng văn bản hoặc bằng miệng), phù hợp với
quan hệ cung- cầu sức lao động trên thị trường lao động và phù hợp với các quy
luật tiền lương của pháp luật lao động . Tiền lương được NSDLĐ trả cho NLĐ
một cách thường xuyên, ổn định trong khoảng thời gian hợp đồng lao động
(tuần, tháng, năm…)”. (Giáo trình Tiền lương-tiền công, trường Đại học Lao
động-Xã hội, năm 2010).
1.1.3 Tiền lương khu vực công (TLKVC)


Tiền lương khu vực công là số tiền mà Nhà nước trả cho cán bộ công
chức, viên chức và người lao động làm việc trong khu vực công căn cứ vào số
lượng, chất lượng lao động phải phù hợp với khả năng ngân sách quốc gia và
các quy định của pháp luật. (Giáo trình Tiền lương-tiền công, trường Đại học
Lao động-Xã hội, năm 2010).
1.2

Khái quát chung về tiền lương tối thiểu trong khu vực công

1.2.1 Khái niệm tiền lương tối thiểu trong khu vực công
Tiền lương tối thiểu trong khu vực công là số tiền Nhà nước chi trả
cho cán bộ công chức, viên chức ở mức trình độ thấp nhất trong khu vực công
đảm bảo cho NLĐ có thể mua được các tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng thiết yếu
cho tái sản xuất sức lao động cá nhân và dành một phần bảo hiểm tuổi già và
nuôi con.
1.2.2 Vai trò của tiền lương tối thiểu trong khu vực công
 Đối với người lao động:
Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nước
đối với người lao động trong mọi ngành nghề. Mục tiêu của chính sách tiền
lương tối thiểu là nhằm bảo vệ người lao động, bảo đảm cho người lao động tái

sản xuất sức lao động. Chính sách tiền lương tối thiểu còn có ý nghĩa trong việc
loại trừ khả năng bóc lột có thể xảy ra đối với người lao động trước sức ép của
thị trường. Khi cung lao động vượt cầu lao động (thị trường lao động của Việt
Nam luôn ở trong tình trạng này) nếu không có “lưới an toàn” là tiền lương tối
thiểu do Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện thì người sử dụng lao động có
thể lợi dụng, gây sức ép nhằm trả công theo ý muốn.
 Đối với nền kinh tế:
Lương tối thiểu là công cụ điều tiết của Nhà nước trên phạm vi toàn
xã hội và trong từng cơ sở kinh tế nhằm:
- Bảo vệ sức mua cho các mức tiền lương trước sự gia tăng của lạm phát
và các yếu tố kinh tế khác.
- Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng của thị trường lao động.
- Phòng ngừa những cuộc xung đột trong các ngành.


- Thiết lập mối quan hệ ràng buộc kinh tế trong lĩnh vực sử dụng lao
động, tăng
cường trách nhiệm của các bên trong quản lý và sử dụng lao động.
- Tiền lương tối thiểu không chỉ có chức năng bảo vệ lợi ích của người lao
động và còn đảm bảo lợi ích của người sử dụng lao động, có chức năng khuyến
khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phân công lao
động quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa
 Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của nhà nước
đối với người lao động có tham gia quan hệ lao động trong mọi khu vực kinh tế.
Nó là cơ sở để xây dựng hệ thống thang, bảng lương và còn là căn cứ để các bên
thỏa thuận tiền lương phù hợp với điều kiện, khả năng, lợi ích của các bên trong
quan hệ lao động.
1.2.3 Căn cứ xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công
- Hệ thống các nhu cầu tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Hệ thống nhu cầu tối thiểu này bao gồm các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội

bao gồm: nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, y tế, sinh hoạt văn hóa, giao tiếp
xã hội, nuôi con….
- Mức tiền lương chung của cả nước. Việc xác định tiền lương tối
thiểu phải dựa trên căn cứ này để đảm bảo tiền lương tối thiểu không quá thấp
hoặc không quá cao so với giá cả chung trong thị trường sức lao động đồng thời
góp phần vừa bảo vệ người lao động vừa bảo vệ được người sử dụng lao động
và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững.
- Chi phí và sự biến động của giá cả sinh hoạt.
- Mối tương quan về điều kiện sống của các tầng lớp dân cư trong
xã hội. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm bảo công bằng trong
việc trả công trong xã hội mà còn hạn chế sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng
lớp dân cư. Đồng thời sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư ở các
vùng miền cũng là căn cứ để xác định mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối
thiểu ngành cho phù hợp.
- Các nhân tố kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức năng
suất lao động. Căn cứ này thể hiện nguyên tắc điều chỉnh lương (trả lương theo
nguyên tắc phân phối theo lao động và trên cơ sở năng suất lao động).


- Sự đạt được và giữ vững về mức độ có việc làm trên phạm vi
vùng và quốc gia.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
TỐI THIỂU TRONG KHU VỰC CÔNG TẠI VIỆT NAM
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu hiện nay
2.1.1 Tiền lương tối thiểu chung.
Ngày 11/11/2015 theo Nghị quyết số 99/2015/ QH13 của Quốc hội
thay đổi tiền lương tối thiểu chung( Khu vực công) là 1.210.000 đồng/ tháng và
có hiệu lực áp dụng từ ngày 1/5/2016.
2.1.2 Xử lý vi phạm pháp luật về chế độ tiền lương tối thiểu.
Nhằm bảo đảm cho việc thực hiện đầy đủ các quy định của pháp

luật về tiền lương tối thiểu, bảo đảm mức sống tối thiểu cho người lao động, bảo
vệ người lao động khỏi sự bóc lột sức lao động của người sử dụng lao động, Nhà
nước không chỉ quy định mức tiền lương tối thiểu áp dụng trong từng thời kỳ
buộc người sử dụng lao động phải thực hiện mà Nhà nước còn có các chế tài áp
dụng đối với những hành vi vi phạm pháp luật về tiền lương tối thiểu.
Khoản 4, Điều 12 Nghị định 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của
Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động
quy định về xử phạt vi phạm hành chính về tiền lương tối thiểu.
2.2 Thực trạng chính sách tiền lương tối thiểu khu vực công ở Việt Nam
2.2.1 Tình hình thực hiện chế độ tiền lương tối thiểu chung
Nhìn chung kể từ khi các đơn vị hành chính công được thành lập,
Đảng và Nhà nước đã không ngừng quan tâm, điều chỉnh mức tiền lương tối
thiểu chung sao cho phù hợp với quy luật thị trường nhằm đảm bảo đời sống vật
chất cho cán bộ công nhân viên chức có động lực tiếp tục gắn bó với cơ quan.
Quá trình quy định mức tiền lương tối thiểu khu vực công ở Việt Nam được thể
hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 1: Sơ lược quá trình quy định mức tiền lương tối thiểu chung trong
khu vực công tại Việt Nam.(đơn vị: đồng/tháng).
Thời gian

Văn bản pháp lý

Mức tiền lương

Tăng thêm hoặc


tối thiểu chung
(đồng/tháng)
2/1947


giảm đi
(đồng/tháng)
30

Sắc lệnh 133/SL

180

29/5/1948

Sắc lệnh 188

220

31/5/1958

Điều 3 Nghị định
số 270/TTg

27.300

18/9/1985

Điều 2 Nghị định
235/HĐBT

220

-27.080


28/12/1988

Quyết định số
203/HĐBT

22.500

22.280

23/5/1993

Nghị định số 25CP

120.000

97.500

21/1/1997

Nghị định số
06/CP

144.000

24.000

15/12/1999

Nghị định số

175/1999/NĐ-CP

180.000

36.000

15/12/2000

Nghị định số
77/2000/NĐ-CP

210.000

30.000

2004

Điều 1, Nghị định
số 203/2004/NĐCP

209.000

-1000

1/10/2005

Nghị định số
118/2005/NĐ-CP,
ngày 15/9/2005


350.000

96.000

1/10/2006

Nghị định số
94/2006/NĐ-CP,
ngày 7/9/2006

450.000

100.000

540.000

90.000

1/1/2008

Nghị định số
166/NĐ-CP, ngày

40

27.080


16/11/2007
1/5/2009


Nghị định số
33/2009/NĐ-CP,
ngày 6/4/2009

650.000

110.000

1/5/2010

Nghị định số
28/2010/NĐ-CP,
ngày 25/3/2010

730.000

80.000

1/5/2011

Nghị định số
22/2011/NĐ-CP

830.000

100.000

1/5/2012


Nghị định số
31/2012/NĐ-CP

1.050.000

220.000

1/7/2013

Nghị định
66/2013/NĐ-CP

1.150.000

100.000

1/5/2016

Nghị quyết số
99/2015/QH13

1.210.000

60.000

 Nhận xét: Qua bảng trên ta thấy kể từ trước và sau đổi mới mức tiền
lương tối thiểu luôn được điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng tăng lên để đáp
ứng đủ mức chi phí cuộc sống cơ bản nhất của cán bộ công chức, viên chức.
Đặc biệt là từ năm 2004 trở lại đây, mức tiền lương tối thiểu chung được Nhà
nước điều chỉnh liên tục trung bình mỗi năm 1 lần và tăng từ 80.000-100.000

đồng sau mỗi năm.
Mức tăng cao nhất là từ năm 2011-2012 tăng 220.000 đồng (từ 830.000
đồng/tháng năm 2011 lên 1.050.000 đồng/tháng năm 2012).
Từ năm 2013 đến nay mức tiền lương tối thiểu chung khu vực công có xu
hướng tăng nhẹ hơn. Năm 2013 mức tiền là 1.150.000 đồng/tháng tăng lên
60.000 đến năm 2016 ở mức 1.210.000 đồng/tháng.
Tiền lương tối thiểu chung khu vực công cũng có hiện tượng giảm 2 lần:
Từ năm 1988-1985 giảm 27.080 đồng (27.300 đồng/tháng xuống còn 220
đồng/tháng), đây là mức giảm mạnh và giảm bằng với số tăng của 2 năm trước
đó. Tức là mức lương này của năm 1985 và 1948 giống nhau ở mức 220
đồng/tháng. Lần giảm thứ 2 không đáng kể từ năm 2000-2004 giảm xuống có


1000 đồng.(năm 2000 là 210.000 đồng /tháng và năm 2004 là 209.000
đồngtháng). Tính đến thời điểm hiện nay năm 2016, mức tiền lương tối thiểu
chung thuộc khu vực công ở Việt Nam là cao nhất so với những năm về trước
với số tiền 1.210.000 đồng/tháng, nhưng còn khá thấp và tăng chậm so với mức
tăng giá cả thị trường hiện nay.
Đánh giá chung
 Kết quả đạt được:
Nếu tính từ thời điểm cải cách tiền lương năm 1993 đến nay, mức tiền lương tối
thiểu đã tăng từ 120.000đồng/ tháng lên 1210.000đồng/ tháng về cơ bản đã góp
phần cải thiện đời sống cho người lao động. Những năm gần đây, mức tiền
lương tối thiểu được điều chỉnh thường xuyên (gần như mỗi năm 1 lần), điều đó
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến việc đảm bảo mức sống tối thiểu cho
người lao động cho phù hợp với từng thời kỳ.
Chính sách tiền lương đối với khu vực hành chính, sự nghiệp đã từng bước thay
đổi theo hướng tách sự nghiệp ra khỏi hành chính theo nguyên tắc tạo thêm và
nguồn thu và giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp. Nhiều đơn vị sự
nghiệp đã chuyển hướng hoạt động giống như các doanh nghiệp công ích, góp

phần giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện tăng lương cho khu vực
hành chính.
Hệ thống bậc lương, thang, bảng lương đã từng bước được đơn giản hóa, được
thiết kế hợp lý hơn, phù hợp với chức danh và tiêu chuẩn chuyên môn, khuyến
khích tốt hơn sự phấn đấu vươn lên của cán bộ, công chức.
2.2.2
-

-

-

Tóm lại, chính sách tiền lương tối thiểu trong khu vực công đang
được thực thi ở Việt Nam đã góp phần phát huy được vai trò, chức năng kích
thích, tạo động lực của tiền lương trong hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động
sự nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh; thúc đẩy phát triển thị trường lao
động; ổn định đời sống sinh hoạt cơ bản cho các cán bộ công chức, viên chức,…
 Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, quá trình cải cách chính
sách tiền lương vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Nhìn chung, chính sách tiền
lương của nước ta thời gian qua không những không cơ bản mà còn mất tác
dụng kích thích tạo động lực lao động cho cán bộ công nhân viên chức, thực sự
chưa hướng tới các mục tiêu cơ bản: thu hút, động viên nhân lực, kích thích tinh
thần lao động, duy trì nhân lực giỏi. Đáng chú ý là:
 Một, mức tiền lương tối thiểu quá thấp


Đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước,
thu nhập tuy có ổn định và tăng dần theo mức lương tối thiểu, theo thâm niên
công tác nhưng nhìn chung vẫn ở mức thấp. Ở những đơn vị thực hiện khoán

biên chế và kinh phí hành chính đã giúp thu nhập tăng lên, nhưng mức tăng
không đáng kể, chỉ khoảng 100 nghìn đồng/tháng. Theo kết quả nghiên cứu,
khảo sát đối với 300 công chức ở Thành phố Hồ Chí Minh trong độ tuổi 20 – 35,
đang làm việc tại 14 cơ quan thuộc hai khối kinh tế và hành chính sự nghiệp, do
Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh công bố ngày 16/01/2009,
có tới gần 9/10 công chức không sống được bằng thu nhập của mình. Hộp 1
dưới đây dẫn ra một số kết quả đáng chú ý của nghiên cứu nêu trên.
Hộp 1: Một số kết quả nghiên cứu, khảo sát đáng chú ý
1.
Khảo sát cho biết, có gần 9/10 công chức không tự sống bằng thu nhập
của mình; có nghĩa là chỉ nhỉnh hơn 1/10 công chức cho rằng cuộc sống của
mình tạm đầy đủ.
2.
Về mức thu nhập: khoảng 3/4 công chức có thu nhập dưới 3 triệu
đồng/tháng, chỉ có 1/4 công chức có thu nhập từ 3 triệu đồng/tháng trở lên; đặc
biệt có đến 12% công chức có thu nhập dưới 1 triệu đồng/tháng, 70% công
chức không có khoản thu nhập thêm.
3.
Đại đa số công chức đã có điện thoại di động và xe gắn máy (95%); tuy
nhiên, việctrang bị phương tiện đi lại này có sự trợ giúp từ phía gia đình chiếm
đến gần 41%.
4. Về khả năng chi tiêu cho một lần mua sắm vật dụng cá nhân, đa số công chức
dùng số tiền dưới 400.000 đồng cho một lần chi tiêu (chiếm 77,4%); số công
chức dùng trên
1.000.000 đồng cho một lần chi tiêu chiếm rất ít, chỉ 9 trong số 300 người được
hỏi.
5.
Về việc tích lũy, tiết kiệm, 58% công chức trích thu nhập của mình để
dành dụm tích lũy trong khoảng từ 10 - 30%; gần 1/3 công chức không có tích
lũy. Nguyên do không tính đến chuyện tích lũy là do: đồng lương thu nhập thấp

(chi hết cho các khoản nhu cầu cá nhân như ăn, mặc, giao tiếp, đi lại, giải trí...),
sống độc thân, còn phụ thuộc vào kinh tế của gia đình.
6.
Về nhu cầu nhà ở, hơn 1/5 công chức có nhà riêng, hơn một nửa vẫn còn
sống chung với gia đình; số công chức phải bỏ tiền thuê nhà chiếm gần 1/5.


7.
Về kế hoạch cho tương lai, khoảng 1/2 công chức có kế hoạch đầu tư mua
nhà đất, khoảng 1/3 có kế hoạch học tập và hơn 1/5 có kế hoạch mua ô tô.
Nguồn: Trích từ />
Về khoa học, tiền lương tối thiểu là mức lương thấp nhất mà người
làm công ăn lương được hưởng. Nó là “lưới an toàn” giúp người lao động được
bảo vệ khi người trả lương muốn trả cho cán bộ mức lương càng thấp càng tốt.
Tuy nhiên, mức lương tối thiểu từ trước đến nay ở khu vực công nói riêng và ở
Việt Nam nói chung đặt ra là quá thấp, không đảm bảo tái sản xuất sức lao động
cho người lao động. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thống kê: mức lương
tối thiểu ban hành năm 1993 chỉ đảm bảo 70% nhu cầu thực tế, năm 1997 chỉ
đạt 50%, năm 1999 đạt 58%, năm 2001 đạt 68%, năm 2003 chỉ đạt 72,5% và
những năm gần đây chỉ đạt 50-70%. So với các nước trong khu vực, mức lương
tối thiểu của nước ta thấp hơn khoản 30-40%. Mặc dù thời gian qua Nhà nước
đã nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng sự điều chỉnh này là quá
chậm so với mức tăng giá cả tiêu dùng, càng khiến đời sống những người
hưởng lương khó khăn thêm.
 Hai, hệ thống thang, bảng lương quá phức tạp và không hợp lý:
Cách tính lương bao gồm mức lương tối thiểu nhân với một hệ số
nhất định, được tính theo độ phức tạp lao động và điều kiện lao động. Theo quy
định hiện hành thì tùy theo thời gian công tác mà người lao động có bậc lương
thâm niên. Tuy nhiên, thang bảng lương vừa phức tạp, cứng nhắc vừa mang tính
bình quân. Ví dụ, cách xếp lương công chức theo ngạch với mô hình chung là:

sơ cấp, trung cấp, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp (và
tương đương) bị xem là một công thức máy móc, cứng nhắc. Điều đó khiến cho
chính sách tiền lương ngày càng xa rời thực tiễn.
 Ba, hệ thống lương làm tăng gánh nặng ngân sách
Nước ta là một quốc gia thuộc diện nghèo nhưng lại có tỷ lệ người
hưởng lương ngân sách nhà nước cao nhất khu vực. Theo số liệu của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội, cả nước có hơn 6 triệu người hưởng lương ngân
sách, bao gồm 1,7 cán bộ, công chức, hơn 1,5 triệu đối tượng chính sách xã hội
và cán bộ, công nhân hưu trí, 300.000 cán bộ xã, phường (là đối tượng được
hưởng lương, phụ cấp), còn lại là cán bộ thuộc hệ thống các tổ chức, hiệp hội,


đoàn thể, lực lượng vũ trang và cán bộ, công nhân viên chức thuộc hệ thống các
tổ chức kinh tế nhà nước.
 Bốn, quỹ lương hiện nay thể hiện sự chi trả thiếu tính khoa học
và không hợp lý.
Một điểm có thể được coi là đặc thù của chính sách lương ở Việt Nam là
lương tối thiểu có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Nếu như ở các
nước, lương tối thiểu được điều chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi về chỉ số
giá sinh hoạt, thì ở nước ta, lương tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh lương
hưu, trợ cấp thôi việc… Chính vì vậy mà nhiều nước có thể điều chỉnh mức
lương tối thiểu định kỳ hàng năm cho phù hợp với biến động của thị trường,
nhưng ở Việt Nam không thể thực hiện được, bởi như vậy sẽ làm tăng gánh nặng
ngân sách.
Gánh nặng ngân sách còn do chúng ta trả lương theo vị trí công
chức chứ không trả theo công việc. Điều này gây ra một tác động xấu là thúc
đẩy người lao động cố gắng “chạy” được một vị trí làm việc để rồi có một khoản
thu nhập suốt đời với mức lương ổn định và tăng theo định kỳ. Chính sách biên
chế suốt đời, tăng lương đều hàng năm đã tạo ra một kiểu làm việc “sống lâu lên
lão làng”, và “đến hẹn lại lên” trong các kỳ tăng lương. Đồng thời, với kiểu trả

lương này sẽ làm mất đi sự công bằng về hưởng thụ trong quan hệ tiền lương
giữa các loại lao động, triệt tiêu động lực lao động. Cũng vì lẽ đó mà hiện nay
tiền lương chưa gắn với trách nhiệm và chất lượng công việc, chưa chiếm một vị
trí quan trọng trong tổng thu nhập của người lao động. Đây có thể xem như một
biểu hiện trái với quy luật của thị trường lao động vì thu nhập từ lương chỉ
chiếm 30% cơ cấu thu nhập của công chức, tiền thưởng và phụ cấp chiếm 10%,
60% còn lại là các khoản thu nhập thêm “ngoài luồng”, bao gồm cả hợp pháp và
bất hợp pháp.
2.2.3 Hệ quả đối với nền kinh tế - xã hội
Những hạn chế và thiếu sót nêu trên đã gây ra những hệ quả tiêu cực
đối với xã hội và nền kinh tế. Đáng chú ý là:
 Một, tiền lương thấp đã hạn chế tái sản xuất sức lao động trên cả hai
phương diện: thể lực và trí lực. Đây là nguy cơ đe dọa đến sự cạnh tranh và
phát triển nguồn nhân lực cả trong hiện tại lẫn trong tương lai.
 Hai, tiền lương thấp khiến nhiều người lao động tổ chức cuộc sống
và sinh hoạt gia đình không phải chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ lương mà


bằng nhiều nguồn thu khác (gọi là phần mềm). Trong bối cảnh hiện nay, ngoài
một số người có điều kiện thu nhập thêm bằng sức lao động và trí tuệ của mình,
còn lại một tỷ lệ không nhỏ chấp nhận cả giải pháp tiêu cực, hành vi thấp nhất là
tham ô thời gian trong chế độ giờ làm việc của Nhà nước để làm kinh tế phụ gia
đình; hành vi xấu hơn là tham ô, hối lộ. Chế độ tiền lương như vậy dần dần làm
tha hoá một bộ phận không nhỏ cán bộ, dẫn đến nạn tham nhũng làm giàu bất
chính. Ảnh hưởng suy yếu bộ máy Nhà nước, nhân dân mất niềm tin vào bộ máy
chính quyền Đảng và Nhà nước.
Tiền lương thấp khiến kỷ luật lao động lỏng lẻo: người lao động thiếu
trách nhiệm, không tận tâm, không gắn bó với công việc. Dẫn đến hiệu quả và
năng suất lao động thấp và có chiều hướng đi xuống.
 Ba, chế độ tiền lương thấp không phản ánh đúng sự đánh giá của

xã hội đối với người lao động vì vậy trong nhiều trường hợp đã triệt tiêu động
lực sáng tạo, tinh thần hăng say nhiệt huyết với công việc của người lao. Điều
này dẫn đến nguy cơ đánh mất năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập.
 Bốn, sự chênh lệch lớn về tiền lương, thu nhập đã tạo nên sự di
chuyển nguồn lao động từ nơi này sang nơi khác với mức độ khó kiểm soát, vì
vậy phá vỡ định hướng, kế hoạch phân bố lực lượng lao động theo yêu cầu phát
triển của các ngành và vùng lãnh thổ; gây nên sự mất cân đối về lực lượng lao
động giữa các ngành và các vùng. Điều đáng lưu ý là trong những năm gần đây,
tình trạng cán bộ, công chức bỏ công sở để chuyển sang làm riêng hoặc làm việc
trong các cơ quan, tổ chức ngoài nhà nước đang có dấu hiệu gia tăng, đáng lo
ngại, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là tiền lương thấp (Hộp 2).
Hộp 2: Tình trạng cán bộ, công chức bỏ công sở ra ngoài làm việc
Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của 23 bộ, ngành và 46 tỉnh, thành phố, trong
5 năm (2003 – 2008) có khoảng 16.000 cán bộ, công chức, viên chức thôi việc,
chiếm tỷ lệ khoảng 0,8% so với tổng số cán bộ, công chức cả nước (khoảng 1,7
triệu người). Trong đó công chức hành chính khoảng 17%, viên chức sự nghiệp
là 72%; nhân viên 11%. Đáng chú ý là cơ quan trung ương có khoảng 60 người
là cấp vụ (0,04%), khoảng 240 người là cấp phòng và tương đương (1,5%).
Ở các cơ quan Nhà nước Trung ương, điển hình là Bộ Tài chính có tới 1.012
công chức chuyển công việc; trong đó có cán bộ cấp vụ, các chuyên viên cao
cấp, chuyên viên chính cũng xin nghỉ để làm riêng và sang làm khu vực ngoài


nhà nước.
Ở địa phương, điển hình là Thành phố Hồ Chính Minh trong 5 năm đã có 6.500
người xin ra ngoài. Trong đó, khối quản lý nhà nước ngay ở phường, xã có 698
người (trong đó có cả Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND, UBND cũng xin nghỉ việc); khối sự nghiệp giáo dục là 3.034 người;
khối y tế 849 người; sự nghiệp khác là 1841 người. Nhiều nhất như Sở Y tế 576

người, Sở Giáo dục và Đào tạo 288, Sở Giao thông - Vận tải 247 người. Đã có
cấp Phó Giám đốc các Sở Kế hoạch - Đầu tư, Thương mại, Du lịch… xin thôi
việc ra ngoài làm riêng.
Mặc dù số lượng cán bộ, công chức thôi việc ra ngoài là con số nhỏ, song điều
đáng lưu lý là phần lớn số xin thôi việc lại là lực lượng cán bộ, công chức có
trình độ, kinh nghiệm và có kỹ năng nghiệp vụ mới trong nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Hơn nữa, độ tuổi của số người xin ra ngoài là trẻ, có sức
khoẻ, trung bình từ 30-50 tuổi. Số cán bộ, công chức này thường nằm trong các
ngành, lĩnh vực kinh tế kỹ thuật trọng điểm như tài chính, ngân hàng, chứng
khoán, quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin, viễn thông… và trên một số
trung tâm phát triển của đất nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chính Minh, Đà
Nẵng… là những ngành, những địa bàn có yêu cầu cao về chất lượng nguồn
nhân lực công, để Nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trên một số ngành, lĩnh
vực có khả năng giữ ổn định nền kinh tế - xã hội, và quản lý, điều tiết vĩ mô
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn: Bản tin Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 01/9/2008

Bên cạnh việc cán bộ, công chức bỏ công sở ra ngoài làm, tiền lương
thấp cũng là nguyên nhân chính không khuyến khích và cản trở thu hút người tài
vào làm việc tại các cơ quan nhà nước hoặc các lĩnh vực được coi là then chốt,
quốc sách hàng đầu như khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo… Hệ quả là
sự yếu kém về lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành ngày càng bộc lộ. Theo
một khảo sát của VnExpress với hơn 9.000 người tham gia, chỉ khoảng hơn 15%
cho biết họ muốn làm công chức nhà nước và khoảng 10% muốn làm việc trong
các cơ quan nghiên cứu, chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số người thích làm trong các
công ty và muốn mở công ty riêng (Hình 1)
Hình 1. Kết quả khảo sát về sự lựa chọn nghề.


Nguồn: VnExpress (2008).

Giải thích lý do không muốn làm việc trong các cơ quan nghiên cứu
khoa học, gần 38% trong số hơn 5.000 độc giả tham gia khảo sát cho biết do thu
nhập quá thấp. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, bên cạnh các nguyên nhân
khác như công việc buồn tẻ, thích nghề khác hoặc không có cơ hội làm nghiên
cứu (Hình 2).
Hình 2. Nguyên nhân không muốn làm nhà nghiên cứu

Nguồn: VnExpress (2008).
Năm, do lương không đủ sống nên nhiều người tìm thêm những
nguồn thu nhập ngoài lương. Vì vậy rất khó xác định đúng thu nhập thực tế của
mỗi người. Điều này đưa đến sự phát sinh tiêu cực trên ba phương diện: thứ
nhất, gây thất thu thuế thu nhập cá nhân; thứ hai, khó truy tìm những nguồn thu
nhập bất chính; thứ ba, không đánh giá đúng sức cầu lao động hiện tại trong xã
hội và khó dự đoán mức cầu tương lai khi hoạch định chiến lược thị trường,
chính sách thu nhập và chính sách kinh tế.


Sáu, chính sách tiền lương tối thiểu thấp đã hạn chế tính linh hoạt và
hiệu quả của các doanh nghiệp, không khuyến khích doanh nghiệp nhà nước sử
dụng và bố trí lao động hợp lý, tạo ra sự chia cắt thị trường lao động giả tạo, tạo
sự gian dối và lộn xộn trong hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp, khiến
thất thu ngân sách.
Bảy, Chính sách tiền lương thấp tác động tiêu cực đến lượng tiêu thụ
tổng cầu hàng hóa, làm giảm sức mua, giảm khả năng mở rộng sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, kìm hãm giá cả, do vậy làm giảm khả năng tích lũy,
đầu tư và tác động tiêu cực đến khả năng mở rộng việc làm của doanh nghiệp.
Cho đến nay mặc dù lương tối thiểu chung đã nâng lên đến 1.210.000
đồng/tháng, song, do giá cả hàng hóa tăng nhanh nên chỉ số tiền lương tối thiểu
thực tế vẫn giảm. Mức lương tối thiểu chung quy định còn thấp, chưa bảo đảm
mức sống tối thiểu của người làm công ăn lương. Theo Bộ Lao động, Thương

binh và Xã hội, mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định thấp hơn so
với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động khoảng 30% và bằng khoảng 80%
so với mức tiền công thực trả thấp nhất trên thị trường lao động.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CỦA TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TRONG KHU
VỰC CÔNG TẠI VIỆT NAM
3.1 Quan điểm về pháp luật tiền lương tối thiểu trong nền kinh tế thị trường
Pháp luật về tiền lương tối thiểu hiện nay đang thể hiện nhiều bất cập,
chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nước ta chính thức gia nhập tổ chức
Thương mại thế giới WTO từ năm 2006. Khi gia nhập WTO, tiền lương là một
trong những yếu tố chính để xem xét việc xác định tính chất thị trường. Điều đó
có nghĩa là khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các
loại hình doanh nghiệp, các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế. Tiền lương vì thế
phải theo định hướng thị trường, được hình thành trên cơ sở mức sống, quan hệ
cung cầu lao động và thỏa ước lao động tập thể. Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay
lại tồn tại các mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho 2 loại hình doanh nghiệp là
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này
là sự phân biệt đối xử, không công bằng giữa các doanh nghiệp. Vì vậy pháp
luật về tiền lương tối thiểu cần phải có sự thay đổi để đảm bảo nguyên tắc bình
đẳng giữa những người sử dụng lao động trên cùng một địa phương, vùng lãnh


thổ, phải thống nhất mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp trên
cùng một địa bàn, vùng lãnh thổ.
3.2 Định hướng xây dựng pháp luật tiền lương tối thiểu chung
Tiền lương tối thiểu do pháp luật quy định trong từng thời kỳ phải là mức
sàn thấp nhất được áp dụng thống nhất đối với các quan hệ lao động làm công
ăn lương trong xã hội. Mức tiền lương tối thiểu chung phải được xác định dựa
trên năng suất lao động xã hội, nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và
mức tiền công thấp nhất trên thị trường lao động.

Mức tiền lương tối thiểu phải được điều chỉnh định kỳ hàng năm theo chỉ
số giá sinh hoạt.
3.3 Cơ chế ba bên trong việc thực hiện tiền lương tối thiểu
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực tiền lương, Điều 56 Bộ Luật lao động
cũng quy định: “Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu chung,
mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành cho từng thời kỳ sau khi
lấy ý kiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao
động”.
Tuy nhiên, có thể nói sự tham gia của người lao động và người sử
dụng lao động trong việc quyết sách các vấn đề về lao động chỉ mang tính hình
thức. Vì vậy trong thời gian tới đề nghị cần phải có sự hoàn thiện của pháp luật
về cơ chế ba bên trong quan hệ lao động nói chung và trong việc quy định và
thực hiện tiền lương tối thiểu nói riêng. Để mức tiền lương tối thiểu được công
bố trong từng thời kỳ đảm bảo được chức năng và vai trò của nó là đảm bảo mức
sống tối thiểu cho người lao động, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, khả
năng chi trả của doanh nghiệp, góp phần bảo vệ người lao động, phát triển thị
trường lao động, phát triển kinh tế thì cần phải thành lập một tổ chức với sự
tham gia của ba bên là cơ quan tham mưu, tư vấn cho nhà nước về tiền lương
nói chung và tiền lương tối thiểu khu vực công nói riêng.
3.4 Xây dựng Luật Tiền tương tối thiểu chung
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Tiền
lương tối thiểu chung là hết sức cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật lao động, đảm bảo giá trị thực tế của mức tiền lương tối thiểu chung theo
chỉ số tăng của giá sinh hoạt và các yếu tố chi phối khác; bảo đảm tính mềm
dẻo, linh hoạt của chính sách tiền lương phù hợp với kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, làm cơ sở xây dựng
tốt mối quan hệ hợp tác ba bên và quan hệ lao động lành mạnh, ngăn ngừa, hạn
chế tranh chấp lao động và đình công, đồng thời có chia sẻ lợi ích đối với người

lao động khi có tăng trưởng kinh tế.
3.5 Không gắn trực tiếp tiền lương tối thiểu với hệ thống trợ cấp, ưu đãi xã
hội.
3.6 Tăng cường hướng dẫn thực hiện chính sách tiền lương làm cơ sở để
phát huy vai trò của các tổ chức (bao gồm đại diện NSDLĐ và NLĐ) trong
việc xác định tiền lương.
3.7 Tổ chức hệ thống giám sát thực hiện, tăng cường kiểm tra, thanh tra để
uốn nắn thực hiện đúng quy định, kiên quyết xử phạt các hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tiền lương cũng như trong quan hệ lao động.
3.8 Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu quản lý nhà nước về tiền lương như:
+Chi phí lao động trên một đơn vị đầu ra ULC. (ULC=V/tổng đầu ra)
+Giá trị gia tăng trên một chi phí lao động
+Mức doanh lợi tính trên chi phí tiền lương
+Giá trị gia tăng trên lao động
+Tổng tiền lương, thu nhập của người làm công ăn lương/tổng thu nhập
quốc dân khả dụng (sau khi đã trừ đi tích lũy).

KẾT LUẬN


Tiền lương tối thiểu trong khu vực công không còn là vấn đề mới lạ,
nhưng nó là vấn đề gắn liền với người lao động và luôn được các ngành, các
cấp, toàn thể người lao động và người sử dụng lao động quan tâm.
Tiền lương tối thiểu là vấn đề quan trọng không chỉ với đời sống của
cá nhân người lao động mà đối với toàn xã hội bởi lẽ nó là cơ sở để thuê mướn,
trả công lao động trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương tối thiểu được coi là
“lưới an toàn” cho những người lao động làm công ăn lương. Nó là công cụ
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động khi tham gia vào quan
hệ lao động. Hơn thế, tiền lương tối thiểu còn thiết lập nên mối quan hệ ràng
buộc giữa người lao động và người sử dụng lao động, góp phần thúc đẩy sản

xuất phát triển. Tuy nhiên, tiền lương tối thiểu áp dụng cho người lao động hiện
nay còn thấp, chưa đảm bảo được chức năng, vai trò là nguồn thu nhập chính
của người lao động. Chính vì vậy, cần từng bước nghiên cứu, rà soát lại các yếu
tố cơ bản làm căn cứ xác định lương tối thiểu, bổ sung các yếu tố mà trước đây
chưa được tính hoặc chưa được tính đầy đủ (như tiền nhà, tiền điện thoại, các
dịch vụ xã hội...) để bảo vệ người lao động đúng mức. Hơn nữa, cần phải từng
bước xóa bỏ việc quy định khác nhau về tiền lương tối thiểu giữa khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài để tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong sử dụng lao
động giữa các khu vực kinh tế đó.
Trước thực trạng đó, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật vè
tiền lương tối thiểu là vấn đề cần thiết. Trên cơ sở các yêu cầu hoàn thiện đang
đặt ra phù hợp với từng giai đoạn hiện nay, hệ thống pháp luật tiền lương nói
chung và tiền lương tối thiểu nói riêng cần được sửa đổi, bổ sung để bảo vệ
người lao động hợp lý, linh hoạt và bền vững.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Giáo trình tiền lương-tiền công, PGS. TS Nguyễn Tiệp-TS Lê Thanh Hà,
Nhà xuất bản Lao động-Xã hội, 2003.
Các văn bản quy định về chế độ tiền lương mới trong khu vực hành chính
sự nghiệp, Nhà xuất bản Lao động, 2005.
Các văn bản quy định về chế độ tiền lương-bảo hiểm xã hội năm 2004,
Nhà xuất bản Lao động-Xã hội 2005.
Chính sách tiền lương mới thực hiện tháng 10/2004, tập I,II-Nhà xuất bản

Lao động-Xã hội, 2005.
5.
Sắc lệnh số 10-SL về việc tạm thời áp dụng các văn bản pháp luật
của chế độ cũ để lại trong quản lý đất nước.
6.
Sắc lệnh số 29-SL ngày 12/03/1947 quy định chế độ lao động
trong toàn cõi Việt Nam.
7.
Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/09/ 1985 của Hội đồng Bộ
trưởng về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và các lực
lượng vũ trang.
8.
Quyết định số 202/HĐBT ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ
trưởng về tiền lương công nhân, viên chức sản xuất kinh doanh khu vực
quốc doanh về công tư hợp doanh.
9.
Quyết định số 203/HĐBT ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ
trưởng về tiền lương công nhân, viên chức hành chính sự nghiệp, lực
lượng vũ trang và các đối tượng hưởng chính sách xã hội.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nội dung viết tắt
Uỷ Ban Nhân Dân

Chữ viết tắt
UBND


Hội đồng nhân dân
Nghị Định chính phủ

Nhà nước

HĐND
NĐ – CP
NN

Tài chính kế hoạch

TC – KH

Tài nguyên và Môi trường

TN & MT

Ban quản lý
Bồi thường giải phóng mặt bằng
Văn hóa và thông tin
Lao động thương binh và Xã hội
Giáo dục và Đào tạo
Người lao động

BQL
BT – GPMB
VH & TT
LĐTB & XH
GD & ĐT
NLĐ

Người sử dụng lao động


NSDLĐ

Cán bộ, công chức

CB, CC

Tuyển dụng nhân lực

TDNL



×