Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.69 KB, 29 trang )

Chuyên đề kinh tế học
ĐỀ TÀI:


Chuyên đề kinh tế học
MỤC LỤC

Đào Hải Long – A20158


Chuyên đề kinh tế học

LỜI NÓI ĐẦU:
Đất nước ta đang tro ng quá trình đổi mới, tình trạng thiếu vốn cho phát triển đã
được giải quyết một phần đáng kể khi Việt Nam bắt đầu nhận viện trợ ODA từ năm
1993. Nhìn lại một chặng đường đã qua, có thể thấy rằng chúng ta đã đạt được
những thành tự đáng tự hào, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt trên
7%, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Không những đạt được
những thành tựu không những đạt được những thành tựu về mặt kinh tế mà các
mặt của đời sống văn hóa – xã hội, giáo dục, y tế cũng được nâng cao rõ rệt, tình
hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng được giữ vững, các mối quan hệ hợp
tác quốc tế ngày càng được mở rộng. Đạt được những thành công đó bên cạnh khai
thác hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng một
vai trò quan trọng và trong đó viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các quốc
gia và tổ chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo.
Thực tế tiếp nhận và sử dụng vốn và thực hiện các dự án ODA thời gian qua cho
thấy ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với phát triển đất nước, ODA
đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại,
phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và tạo ra hệ thống cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội tương đối hiện đại. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả


hơn nữa các nguồn lực cho phát triển, trong đó ODA có một vai trò quan trọng. Do
đó một câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có huy động được nhiều hơn và sử dụng hiệu
quả hơn nguồn vốn ODA không? Có thể khẳng định ngay điều đó là hoàn toàn có
thể. Vậy những giải pháp nào cần được xúc tiến thực hiện để nâng cao hiệu quả
quản lý và sử dụng ODA?.
Với mong muốn giải đáp được câu hỏi trên và có một cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn
về ODA.Vì vậy em chọn đề tài: “Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở
Việt Nam

Đào Hải Long – A20158

3


Chuyên đề kinh tế học
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA
1. Nguồn vốn ODA
1.1 Khái niệm ODA
ODA là tên viết tắt của Official Development Assitance – Hỗ trợ phát triển chính
thức hay Viện trợ phát triển chính thức.
Hỗ trợ phát triển chính thức là một hình thức đầu tư nước ngoài.
Gọi là hỗ trợ bở vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi
suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ.
Gọi là phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh
tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư.
Gọi là chính thức vì nó thường là cho nhà nước vay.
ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín
dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành
cho các nước đang và chậm phát triển.

1.2 Đặc điểm của vốn ODA
Thứ nhất: là vốn ODA mang tính ưu đãi, vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả
vốn dài từ 10-20 năm), có thời gian ân hạn dài (10 – 20 năm). Chẳng hạn như vốn
ODA của Ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB)… có thời
gian hoàn trả là 40 năm, thời gian ân hạn là 10 năm.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển. Có 2 điều kiện cơ bản để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận
được ODA là:
Điều kiện 1: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người
thấp, đặc biệt là các nước có GDP bình quân đầu người dưới
220USD/người/năm.
-

Đào Hải Long – A20158

4


Chuyên đề kinh tế học
Điều kiện 2: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù
hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ
giữa bên cấp và bên nhận ODA.
-

2. Vai trò của vốn ODA đối với đầu tư phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1 Nhu cầu vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế ở Việt Nam
Đất nước ta đang phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới, đường lối đề ra tại
đại hội đảng lần thứ VIII với mục tiêu tăng mức thu nhập bình quân đầu người lên
mức 1500 USD vào năm 2020 tức là tăng gấp 7 lần so với năm 1995. Để tiếp tục
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam cần một

lượng vốn đầu tư phát triển rất lớn.
2.2. Tầm quan trọng của ODA đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Trong những năm gần đây Việt Nam đã và đang thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế với xu hướng mở rộng và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một
trong những mục tiêu chính trong chiến lược này là thu hút ODA cho phát triển
kinh tế. Vai trò của ODA được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau:
Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình
trạng thiếu vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm nguồn
vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại
nguồn lực cho đất nước. ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước
nghèo đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà
nước
Nguồn vốn ODA được các nước nhận sử dụng vào các mục đích như:

Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là các dự án cải
tạo, năng cấp, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để làm nền tảng
vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư của tư nhân
trong và ngoài nước.

Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, môi trường sinh thái dinh dưỡng.
ODA giúp các nước đang phát triển phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi
-

Đào Hải Long – A20158

5


Chuyên đề kinh tế học
trường. Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu

tiên dành cho đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật
cho việc dạy và học của các nước đang phát triển

Bù đắp thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế (do nhập siêu) để
chính phủ có đủ thời gian để quản lý tốt hơn ngân sách trong giai đoạn cải
cách hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế (viện trợ để điều
chỉnh cơ cấu).

Thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp nhằm hỗ trợ chính
phủ hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư nhân
bằng các hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên, hiện trạng kinh tế
xã hội các ngành các vùng. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành
nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư nhân.

+ ODA giúp các nước đang phát triển tăng cường năng lực và thể chế
thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải
cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Thứ hai, theo các nhà kinh tế việc sử dụng viện trợ ở các nước đang
phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn điểm mà ở
đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá
trình tự duy trì và phát triển

ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng
nội tệ có thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ
trợ lớn của các tổ chức tài chính quốc tế mang lại

ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền
móng cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là

nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế.

ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều
kiện nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng
quy mô doanh nghiệp.
-

Đào Hải Long – A20158

6


Chuyên đề kinh tế học
ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy
móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,
từ các nước phát triển.
Thứ ba, nhờ có nguồn vốn ODA mà đã khuyến khích thu hút đầu tư
trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn trực tiếp nước ngoài FDI


Vì vậy, chúng ta cần phải tranh thủ mọi nguồn vốn, trong đó có cả nguồn vốn
ODA và các nguồn viện trợ khác.
PHẦN II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA GIAI
ĐOẠN 2014 – 2016 Ở VIỆT NAM
2.1 Tình hình huy động vốn ODA
Trong những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã không những thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài mà còn tạo ra những bước tiến
vượt bậc với việc cải thiện tình hình chính trị đối ngoại.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển kinh tế
và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế thừa nhận rộng rãi:

Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân 7.5%/năm, mức đói nghèo
giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống còn trên 10% vào năm 2008, hội
nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên
không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên
tích cực của ASEAN, APEC, và nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác,... Những
thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng
của viện trợ phát triển như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Mặc dù tình hình phát triển kinh tế của nhiều nước tài trợ chủ chốt, thành viên tổ
chức OECD có nhiều khó khăn, nguồn vốn ODA thế giới có tăng nhưng tăng chậm
trong khi đó nhu cầu về nguồn vốn này ở các nước đang phát triển tăng mạnh, song
nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội tăng cường mở
rộng hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của Đảng và

Đào Hải Long – A20158

7


Chuyên đề kinh tế học
Nhà nước ta, cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết mạnh mẽ cung cấp
nguồn vốn ODA cho Việt Nam.
2.1.1 Các hiệp định vay hoặc thỏa thuận viện trợ của các nhà tài trợ
2.1.1.1 Các nhà tài trợ cung cấp ODA cho Việt Nam
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và
hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên
của Tổ chức OECD-DAC, Việt Nam còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung
Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc...
2.1.1.1.1 Các nhà tài trợ song phương:

Các nhà tài trợ song phương gồm có: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa,
Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ,
Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha,
Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc và Xin-ga-po.
2.1.1.1.2 Các nhà tài trợ đa phương gồm:
+ Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ gồm có: Nhóm Ngân hàng Thế giới
(WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng
Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của
các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait.
+ Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ gồm có: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ
Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc
(UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO),
Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của
Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội
phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc
(UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF),Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Đào Hải Long – A20158

8


Chuyên đề kinh tế học
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi
Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các
vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tình hình
cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu dành cho Việt Nam được thể hiện qua biểu đồ

dưới đây:
2.1.1.2 Một số nhà tài trợ tiêu biểu
Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam, chiếm trên
30% tổng cam kết viện trợ của các nước cho Việt Nam. Hiện nay, viện trợ của Nhật
Bản dành cho các nước bị giảm sút do kinh tế Nhật Bản phải đối mặt với khó khăn
kéo dài. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước ưu tiên nhận viện trợ của Nhật Bản.
Chính sách mới của phía Nhật Bản về cung cấp ODA cho Việt Nam trong các năm
tới sẽ tập trung vào các lĩnh vực sau:


Thúc đẩy tăng trưởng bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện môi trường đầu tư; Phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực tư nhân; Giao thông; Năng lượng điện; Viễn
thông; Phát triển nguồn nhân lực; Cải cách kinh tế bao gồm cả cải cách doanh nghiệp
nhà nước.



Cải thiện mức sống và điều kiện xã hội bao gồm các lĩnh vực: Giáo dục; Y tế;
Phát triển nông thôn; Phát triển đô thị; Môi trường; Cải thiện mức sống và điều kiện xã
hội.



Tăng cường thể chế bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện hệ thống Luật pháp và Cải
cách hành chính.
2.2 Tình hình cam kết ODA
Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị viện trợ
quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với Việt Nam, sau
Hội bàn tròn về viện trợ phát triển dành cho Việt Nam diễn ra lần đầu tiên vào năm
1993, các hội nghị viện trợ tiếp theo được đổi tên thành Hội nghị Nhóm tư vấn các

nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị CG) và Việt Nam từ vị thế là

Đào Hải Long – A20158

9


Chuyên đề kinh tế học
khách mời đã trở thành Đồng chủ trì Hội nghị CG cùng với Ngân hàng Thế giới.
Địa điểm tổ chức Hội nghị CG cũng thay đổi từ việc tổ chức tại nước tài trợ như tại
Pháp, Nhật Bản,... sang về tổ chức tại Việt Nam.
Hội nghị CG thường niên thực sự là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và cộng
đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển và việc cung cấp, sử
dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo
là một nội dung gắn kết chặt chẽ, không tách rời. Ngoài Hội nghị CG thường niên,
còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức tại các địa phương, tạo điều
kiện cho các nhà tài trợ gần với người dân và nắm bắt được nhu cầu phát triển cần
được hỗ trợ của họ.
Là diễn đàn đối thoại về chính sách và viện trợ, song không khí chung của tất cả
các Hội nghị CG cho đến nay là dựa trên tinh thần quan hệ đối tác và mang tính
xây dựng, trong đó các nhà tài trợ tôn trọng vai trò làm chủ và lãnh đạo quốc gia
của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và
hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các nước là thành viên
của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi như Trung Quốc, Ấn độ,
Hung-ga-ri, Séc,...

2.3 Tình hình giải ngân ODA

2.3.1 Tình hình giải ngân vốn ODA năm 2014
Tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2014 đạt hơn 4,362 tỷ USD, gồm
hơn 4,16 tỷ USD ODA vốn vay và vay ưu đãi, 202,05 triệu USD viện trợ
không hoàn lại.
Theo báo cáo của Văn phòng Ban Chỉ đạo, công tác vận động và thu hút nguồn
ODA và vốn vay ưu đãi, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đãi ký kết năm 2014 đạt
Đào Hải Long – A20158

10


Chuyên đề kinh tế học
hơn 4,362 tỷ USD, gồm hơn 4,16 tỷ USD ODA vốn vay và vay ưu đãi, 202,05
triệu USD viện trợ không hoàn lại.
Giải ngân tiếp tục cải thiện
Nguồn vốn này tiếp tục ưu tiên dành hơn 70% để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tếxã hội, tập trung để các cơ quan Việt Nam chú trọng đến công tác chuẩn bị dự án,
đặc biệt chất lượng văn kiện và tính khả thi của các chương trình, dự án, đảm bảo
mục tiêu duy trì nợ công bền vững.
Giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi năm 2014 đạt khoảng 5,6 tỷ USD (ODA
vốn vay là 5,25 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại là 350 triệu USD), cao hơn
9% so với năm 2013.
Trong tổng số vốn giải ngân năm 2014 có khoảng 2,45 tỷ USD thuộc nguồn vốn
xây dựng cơ bản, khoảng 2,1 tỷ USD thuộc nguồn vốn cho vay lại, khoảng 318
triệu USD thuộc nguồn vốn hành chính sự nghiệp và khoảng 732 triệu USD từ các
khoản hỗ trợ ngân sách.
Theo đánh giá chung, sau những biện pháp đôn đốc kiên quyết, thường xuyên của
Ban Chỉ đạo, giải ngân năm 2014 có những cải thiện đáng kể. Các nhà tài trợ quy
mô lớn vẫn tiếp tục được duy trì mức giải ngân cao như Nhật Bản (JICA): 1,773 tỷ
USD, WB: 1,386 tỷ USD, ADB: 1,058 tỷ USD.
Một số dự án đầu tư quy mô lớn cũng đã đóng góp vào mức giải ngân này như Dự

án xây dựng Nhà ga hành khách T2-Cảng hàng không Nội Bài, Dự án cơ sở hạ
tầng giao thông ĐBSCL, Dự án cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Đồng bằng sông Hồng P4R, Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy nhiệt điện Ô Môn số
2 và lưới điện truyền tải khu vực ĐBSCL...
Ngoài ra, mức giải ngân năm 2014 cao nhờ các khoản giải ngân nhanh, hỗ trợ ngân
sách như Chương trình EMCC 2 (383 triệu USD), Chương trình hỗ trợ ứng phó với
biến đổi khí hậu (SP-RCC 4: 130 triệu USD).
Trong năm 2014, một số công trình, dự án trọng điểm quốc gia như cầu Nhật Tân,
đường nối Nhật Tân - sân bay quốc tế Nội Bài, Nhà ga hành khách T2 - Cảng hàng
không quốc tế Nội Bài, đường cao tốc Nội Bài-Lào Cai đã hoàn thành, được đưa

Đào Hải Long – A20158

11


Chuyên đề kinh tế học
vào khai thác sử dụng, góp phần hoàn chỉnh, hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng,
thúc đẩy liên kết vùng trong tiến trình phát triển khu vực phía Bắc.
2.3.2 Tình hình giải ngân vốn ODA năm 2015
Mức giải ngân ODA và vốn vay ưu đãi 6 tháng đầu năm 2015 thấp hơn 38% so với
cùng kỳ năm 2014.
Thông tin trên được đề cập trong Báo cáo Tình hình thu hút, quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ 6 tháng đầu năm 2015 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phục vụ cuộc họp ngày 8/12 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về
ODA và vốn vay ưu đãi.
Cũng theo báo cáo trên, có 23 chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đãi trong
Danh sách dự án chậm tiến độ năm 2015. Trong đó, có 14 dự án cần tiếp tục được
giám sát thường xuyên, đặc biệt là các dự án đường sắt đô thị.
Nguyên nhân gây chậm trễ tiến độ thực hiện và giải ngân chủ yếu vẫn là vướng

mắc về quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn chuyên ngành; vướng mắc do các điều
chỉnh, thay đổi trong quá trình thực hiện dự án; do khác biệt về quy trình, thủ tục
giữa Việt Nam và các nhà tài trợ và do vốn đối ứng không được bố trí đầy đủ và
kịp thời, công tác giải phóng mặt bằng...
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngoại trừ dự án Tuyến đường sắt đô thị thí điểm
thành phố Hà Nội, đoạn Nhổn - ga Hà Nội và dự án Xây dựng tuyến đường sắt đô
thị TPHMC, tuyến Bến Thành – Suối Tiên tiến độ thực hiện đã có cải thiện, 4/6 dự
án đường sắt đô thị đang triển khai tại Hà Nội và TPHCM đều bị chậm trễ nghiêm
trọng.
2.3.3 Tình hình giải ngân vốn ODA năm 2016
Đây là một thông tin đáng chú ý được bàn thảo trong cuộc họp Ban Chỉ đạo
Quốc gia về ODA nửa đầu năm được tổ chức sáng nay (8/6) tại Hà Nội.
6 tháng đầu năm nay, tổng số vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài đã ký kết
đạt khoảng 2,5 tỷ USD, tăng 61% so với cùng kỳ năm 2015. Thế nhưng, tổng
số vốn ODA và vốn ưu đãi được giải ngân lại chững lại, cụ thể thấp hơn 4% so
với cùng kỳ năm 2015.
Đào Hải Long – A20158

12


Chuyên đề kinh tế học
Theo Bộ GTVT, bộ chiếm khoảng một nửa vốn ODA, việc giải ngân chậm một
phần là do thiếu vốn đối ứng. Một lý do chậm giải ngân còn từ việc thiếu văn
bản pháp lý.
Mặc dù Nghị định mới về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước
ngoài có hiệu lực từ đầu tháng 5 vừa qua nhưng Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn
chưa có thông tư hướng dẫn. Trong khi đó, Bộ Tài chính đã xây dựng xong và
đang xin ý kiến về 2 nghị định quy định cơ chế cho vay lại vốn ưu đãi nước
ngoài thay vì cấp phép như trước.

Chỉ đạo tại hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhận định việc các dự án
giải ngân chậm trong khi thời gian ân hạn đang ngắn hơn khiến gánh nặng trả
nợ của quốc gia đang tăng thêm. Do đó, khi Việt Nam có thể không được vay
ưu đãi từ một số tổ chức từ tháng 7 năm nay, việc đẩy mạnh giải ngân để tận
dụng vốn ODA đang vô cùng cấp thiết.
Kết quả đến hết tháng 12/2016, nguồn vốn NSNN và TPCP đã giải ngân được
33.387 tỷ đồng, đạt 75,2% KH (KH2016 sau khi giảm trừ 6.000 tỷ đồng còn
44.366 tỷ đồng); trong đó: KH2016 giải ngân được 26.890 tỷ đồng, đạt 78,4%; KH
2015 kéo dài giải ngân được 6.496 tỷ đồng, đạt 64,5%. Dự kiến đến hết tháng
01/2017, giải ngân được 39.363 tỷ đồng, đạt 88,7%KH; trong đó: KH2016 giải
ngân được 32.120 tỷ đồng, đạt 93,7%; KH 2015 kéo dài giải ngân được 7.243 tỷ
đồng, đạt 71,8%. Cụ thể:
+ Nguồn vốn NSNN: Đến hết tháng 12/2016, giải ngân được 20.242 tỷ đồng, đạt
88,6%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được 20.032 tỷ đồng, đạt 88,5%; KH 2015
kéo dài giải ngân được 210 tỷ đồng, đạt 100%. Dự kiến đến hết tháng 01/2017, giải
ngân được 22.830 tỷ đồng, đạt 99,9%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được
22.620 tỷ đồng, đạt 99,9%; KH 2015 kéo dài giải ngân được 210 tỷ đồng, đạt
100%.
+ Nguồn vốn TPCP: Đến hết tháng 12/2016, dự kiến giải ngân được 13.144 tỷ
đồng, đạt 61%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được 6.858 tỷ đồng, đạt 58,9%;
KH 2015 kéo dài giải ngân được 6.286 tỷ đồng, đạt 63,7%. Dự kiến đến hết tháng

Đào Hải Long – A20158

13


Chuyên đề kinh tế học
01/2017, giải ngân được 16.532 tỷ đồng, đạt 76,8%KH, riêng phần vốn mới điều
hòa kế hoạch cho các dự án vốn dư QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây

Nguyên vào cuối tháng 10/2016 phaỉ kéo dài giải ngân sang năm 2017 (chỉ giải
ngân được 885 tỷ đồng trong tổng số 1.883 tỷ đồng được điều hòa); trong đó:
KH2016 giải ngân được 9.500 tỷ đồng, đạt 81,5%; KH 2015 kéo dài giải ngân
được 7.032 tỷ đồng, đạt 71,2%.
Như vậy, tính đến hết tháng 01/2017 sẽ giải ngân đạt yêu cầu đề ra đối với
nguồn vốn KH2016; phần KH 2015 kéo dài chưa thực hiện hết do còn đang làm
các thủ tục điều hòa vốn dư của các dự án vốn TPCP giai đoạn 2012 - 2015 và bổ
sung giai đoạn 2014 - 2016.
2.4 Tình hình sử dụng vốn ODA
2.4.1 Cơ cấu sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển
Kết quả đến hết tháng 12, nguồn vốn NSNN và TPCP đã giải ngân được 33.387 tỷ
đồng, đạt 75,2% KH (KH2016 sau khi giảm trừ 6.000 tỷ đồng còn 44.366 tỷ đồng);
trong đó: KH2016 giải ngân được 26.890 tỷ đồng, đạt 78,4%; KH 2015 kéo dài
giải ngân được 6.496 tỷ đồng, đạt 64,5%. Dự kiến đến hết tháng 01/2017, giải ngân
được 39.363 tỷ đồng, đạt 88,7%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được 32.120 tỷ
đồng, đạt 93,7%; KH 2015 kéo dài giải ngân được 7.243 tỷ đồng, đạt 71,8%. Cụ
thể:
- Nguồn vốn NSNN: Đến hết tháng 12/2016, giải ngân được 20.242 tỷ đồng, đạt
88,6%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được 20.032 tỷ đồng, đạt 88,5%; KH 2015
kéo dài giải ngân được 210 tỷ đồng, đạt 100%. Dự kiến đến hết tháng 01/2017, giải
ngân được 22.830 tỷ đồng, đạt 99,9%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được
22.620 tỷ đồng, đạt 99,9%; KH 2015 kéo dài giải ngân được 210 tỷ đồng, đạt
100%.
- Nguồn vốn TPCP: Đến hết tháng 12/2016, dự kiến giải ngân được 13.144 tỷ
đồng, đạt 61%KH; trong đó: KH2016 giải ngân được 6.858 tỷ đồng, đạt 58,9%;
KH 2015 kéo dài giải ngân được 6.286 tỷ đồng, đạt 63,7%. Dự kiến đến hết tháng
01/2017, giải ngân được 16.532 tỷ đồng, đạt 76,8%KH, riêng phần vốn mới điều
Đào Hải Long – A20158

14



Chuyên đề kinh tế học
hòa kế hoạch cho các dự án vốn dư QL1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây
Nguyên vào cuối tháng 10/2016 phaỉ kéo dài giải ngân sang năm 2017 (chỉ giải
ngân được 885 tỷ đồng trong tổng số 1.883 tỷ đồng được điều hòa); trong đó:
KH2016 giải ngân được 9.500 tỷ đồng, đạt 81,5%; KH 2015 kéo dài giải ngân
được 7.032 tỷ đồng, đạt 71,2%.
Như vậy, tính đến hết tháng 01/2017 sẽ giải ngân đạt yêu cầu đề ra đối với nguồn
vốn KH2016; phần KH 2015 kéo dài chưa thực hiện hết do còn đang làm các thủ
tục điều hòa vốn dư của các dự án vốn TPCP giai đoạn 2012 - 2015 và bổ sung giai
đoạn 2014 - 2016.

2.4.2 Vốn ODA phân bổ theo nghành
Năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao
gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm
nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát
triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công
nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.

Đào Hải Long – A20158

15



Chuyên đề kinh tế học
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các
chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng
5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh
vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng,
Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông
nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu
Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo
khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan
trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự
án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển
mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn cải tạo và phát triển
mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng
năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và
khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối
cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài
nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển
nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm trong đó phải
kể đến các dự án như Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ II công suất 288 MW; nhà máy
nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi
công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy
nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360
MW…
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn
nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008.
Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống
giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa
như Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên

Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước
Đào Hải Long – A20158

16


Chuyên đề kinh tế học
sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân
Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi
Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng
đồng... Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát
triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị
trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn ODA.
Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,...
hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất
thải rắn,…
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên
thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt
tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục
ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo
dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công
tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học
ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các
lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58%
trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở

vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng
cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh
viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm
truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống
HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây
dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Đào Hải Long – A20158

17


Chuyên đề kinh tế học
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông
qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB,
IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế
trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước,..

2.4.3 Vốn ODa phân bổ theo vùng lãnh thổ
Cho tới nay, tất cả các vùng trong nước đều được hưởng lợi từ nguồn vốn ODA đã
được giải ngân. Nhiều chương trình , lĩnh vực thuộc nguồn vốn này đã được trải
đều trên cả nước như: chương trình y tế cơ sở, chương trình tiêm chủng mở rộng;
chương trình sinh đẻ có kế hoạch; chương trình phòng chống HIV; chương trình
đường giao thông nông thôn; chương trình cấp nước sạch cho các thành phố thị xã
các tỉnh….
Thời gian qua, chênh lệch về lượng vốn ODA giữa các vùng ngày càng được cải

thiện (các địa phương đều có ODA). Sự đa dạng, phong phú về vốn ODA thực hiện
theo lĩnh vực, theo tính chất nguồn vốn trên các vùng trong những năm gần đây
tăng rõ rệt. Tuy vậy sự chênh lệch về vốn ODA giữa các vùng vẫn còn khá lớn, sự
chênh lệch này được thể hiện ở bảng dưới đây. Như vậy, sự chênh lệch về thu hút
và giải ngân giữa các vùng là rất lớn. Do đó, mục tiêu của chính phủ Việt Nam và
các nhà tài trợ là phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng còn gặp nhiều
khó khăn theo hướng tập trung vào cơ sở hạ tầng (điện, đường, thủy lợi, khuyến
Đào Hải Long – A20158

18


Chuyên đề kinh tế học
nông…) và hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa…). Cộng đồng các nhà tài trợ
quốc tế cũng có sự nhất trí cao về tập trung nguồn lực và tăng cường giải ngân cho
các chương trình xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
Vùng trung du miền núi phía bắc: Trong những năm qua, cùng với sự hỗ trợ của
Chính phủ, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ còn nhận được sự giúp đỡ tích cực
của cộng đồng quốc tế với tổng mức cam kết ODA từ năm 1993 đến 2008 đạt hơn
1579,07 triệu USD chiếm 4,55% tổng nguồn vốn ODA của cả nước.
Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ gồm 14 tỉnh là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái,
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình…
Mặc dù cơ cấu kinh tế vùng đang chuyển dịch theo hướng tích cực với tốc độ tăng
trưởng năm 2007 đạt 12,8%, song khó khăn lớn nhất mà vùng này phải đối mặt là
tỉ lệ hộ nghèo lên đến gần 27% - tỷ lệ cao nhất so với các vùng miền trên toàn
quốc, trong khi GDP bình quân đầu người chỉ đạt xấp xỉ 50% mức bình quân cả
nước.
Trước thực tế này, Chính phủ đã dành phần lớn nguồn hỗ trợ trên để đầu tư
cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo,

nhằm phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống khoảng gần 23,4% trong năm nay. Tổng
vốn ODA dành cho lĩnh vực này đạt gần 460 triệu USD, chiếm gần 34% tổng vốn
cam kết cho toàn vùng.
Sau nông nghiệp, năng lượng và công nghiệp cũng là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư
nhằm khai thác lợi thế của vùng, nhất là về thủy điện và khai thác khoáng sản, chủ
yếu ở một số tỉnh như Thái Nguyên, Lào Cai, Hòa Bình. Tổng vốn ODA dành cho
lĩnh vực này hiện đạt trên 325 triệu USD, chiếm trên 24% tổng mức cam kết.
Một số lĩnh vực khác như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục
đào tạo, cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường cũng nhận được sự hỗ trợ tích
cực của các nhà tài trợ quốc tế với tỷ trọng chiếm từ 9-22% tổng mức cam kết.
Những nhà tài trợ lớn cho khu vực này là Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng
Phát triển châu Á, Nhật Bản, Pháp, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch, Cộng đồng châu
Đào Hải Long – A20158

19


Chuyên đề kinh tế học
Âu.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc có nhiều dự án ODA được
triển khai ở trung du và miền núi Bắc Bộ là bằng chứng thể hiện sự đồng tình, ủng
hộ của cộng đồng quốc tế đối với chủ trương, chính sách của Việt Nam là ưu tiên
phát triển các vùng nghèo, miền núi, để thu hẹp khoảng cách phát triển. Các dự án
này đã góp phần xóa đói giảm nghèo và cải thiện đáng kể đời sống của người dân
địa phương, trong bối cảnh ngân sách địa phương và trung ương còn hạn chế.
Khu vực Tây Nguyên: Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực Tây Nguyên giai đoạn 1991 - 2005 là
128.568 tỷ đồng và giai đoạn 2006 - 2010 dự kiến sẽ là 65.000 tỷ đồng. Tuy nhiên,
riêng tổng số vốn đầu tư cho Tây Nguyên trong năm 2008 đã lên đến 24.450 tỷ
đồng. Những nguồn vốn trên tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển

kinh tế xã hội của cả khu vực. Từ chỗ cơ sở vật chất sơ sài, đến nay, cả khu vực
Tây Nguyên đã có 1.500 công trình hồ chứa nước, đập dâng, trạm bơm... đáp ứng
khoảng 60% nhu cầu về tưới tiêu cho nông nghiệp.Toàn khu vực có 3 sân bay, 14
tuyến quốc lộ, 57 tuyến tỉnh lộ với chiều dài hơn 3.000km được nâng cấp và nhựa
hóa và hàng trăm tuyến huyện lộ và một hệ thống đường liên xã đã được đầu tư
xây dựng. Tính đến nay, toàn khu vực đã có 99,2% số xã có đường ôtô đến trung
tâm và 98% số xã có điện lưới quốc gia.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, trong thời gian qua, những tiềm năng và lợi thế
của khu vực mới chỉ được đầu tư khai thác theo chiều rộng chứ chưa theo chiều
sâu. Nguyên nhân là Tây Nguyên còn hạn chế ở nhiều mặt so với các khu vực khác
như kết cấu hạ tầng, mức sống của người dân và chất lượng của nguồn nhân lực.
Theo số liệu thống kê của 5 tỉnh Tây Nguyên, từ năm 2001 đến nay, toàn khu vực
đã thu hút được 110 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn 1.200 tỷ
đồng và 280 triệu USD. Riêng thu hút đầu tư từ nguồn vốn ODA đạt 2344,77 triệu
USD, chủ yếu là từ Chính phủ Nhật Bản, ngân hàng thế giới và ngân hàng châu Á,
chiếm khoảng 6,76% tổng nguồn vốn ODA của cả nước.
Tại các cuộc gặp mặt doanh nghiệp và nhà đầu tư vừa được tổ chức tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu về Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên, nhiều
Đào Hải Long – A20158

20


Chuyên đề kinh tế học
doanh nghiệp và nhà đầu tư đã nêu ra những khó khăn khi đầu tư vào Tây Nguyên
như: hạ tầng giao thông còn khá bất cập dẫn đến khó khăn trong việc vận chuyển
hàng hóa, nguyên liệu xuống các nhà máy chế biến hoặc các cảng biển; nguồn
nhân lực còn yếu và thiếu, cơ chế ưu đãi vẫn không có gì khác so với các vùng
khác và đặc biệt là thủ tục hành chính trong thu hút đầu tư tuy đã được quan tâm
cải cách nhưng vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn trong hoạt động xúc tiến đầu

tư.
Để giải quyết hết những yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư
vào làm ăn ở Tây Nguyên thì cũng cần có thời gian và phải tháo gỡ từng phần. Tuy
nhiên, tại Diễn đàn xúc tiến đầu tư Tây Nguyên lần này, chính quyền 5 tỉnh đã đưa
ra những giải pháp tối ưu, những cải cách mới nhất về thủ tục hành chính, những
dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư để các nhà đầu tư nghiên cứu, tham khảo và tiến tới
xúc tiến đầu tư.
Vùng đồng bằng Sông cửu long: Vùng đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) cho
đến nay vẫn là khu vực nghèo ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1993 – 1995, khi cộng
đồng quốc tế mới nối lại hỗ trợ phát triển cho Việt Nam, nguồn vốn ODA dành cho
khu vực ĐBSCL còn thấp, chỉ đạt xấp xỉ 105 triệu USD chiếm 3% tổng vốn ODA
ký kết cho các vùng trên toàn quốc, chỉ cao hơn vùng trung du miền núi phía Bắc.
Tuy nhiên tới giai đoạn 1996-2000 và 2001-2005, nguồn vốn ODA đầu tư vào
vùng đã tăng đáng kể lên 1023 triệu USD. Tổng giai đoạn 1993-2008 nguồn vốn
ODA cho vùng ĐBSCL (chưa kể liên vùng) vẫn ở mức thấp đạt 2900 triệu USD
chỉ chiếm 8,36% trong tổng số vốn ODA ký kết cho các vùng trong cả nước.
Nhận thức được tầm quan trong của vùng, những năm gần đây khu vưc ĐBSCL đã
nhận được nhiều sự quan tâm từ chính phủ. Điều này thể hiện qua việc giải ngân
trên 6300 tỷ đồng bằng nguồn vốn ODA để phát triển hạ tầng giao thông của khu
vực. Chính từ sự hỗ trợ này, nhiều công trình huyết mạch và trọng điểm từ giao
thông đường bộ, đường thủy cho đến hàng hải và hang không đang được triển khai
như cầu Mỹ Thuận, cầu Rạch Miễu, cầu Cần Thơ, cảng Cần Thơ, sân bay Trà Nóc,
sân bay Phú Quốc…

Đào Hải Long – A20158

21


Chuyên đề kinh tế học

Bên cạnh những công trình trọng điểm trên, sẽ có hàng loạt những công trình
không kém phần quan trọng đang được hoàn thành như tuyến đường N1, N2 làm
vệ tinh cho quốc lộ 1A, tuyến đường Nam song Hậu góp phần vực dậy khu vực
ven biển, đường cao tốc TP HCM – Trung Lương hiện đại…
Vùng bắc trung bộ và duyên hải miền trung: Trong giai đoạn 1993 – 2008, tổng
số vốn ODA vào vùng đạt trên 4374,34 triệu USD chiếm 12,61 % so với tổng số
vốn được phân bổ. Nguồn vốn này chủ yếu được tập trung xây dựng các kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội của các địa phương. Hỗ trợ trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ
rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn để giảm lũ, giữ nước, bảo đảm an toàn cho các
công trình thuỷ lợi, thuỷ điện trong vùng. Trồng rừng ven biển để chắn cát, ngăn
mặn; nâng độ che phủ của rừng lên 44 – 45%. Xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, hồ
chứa nước vừa bảo đảm ổn định nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và nước
sinh hoạt cho nhân dân trong vùng thường bị hạn hán, cũng như giảm nhẹ hậu quả
thiên tai, lũ lụt. Phát triển giao thông nông thôn, nhất là các tuyến đường tiếp cận
đến các trung tâm xã, huyện, các đô thị để giúp cho người nghèo tiếp cận thị
trường tiêu thụ nông sản, thuỷ sản và thụ hưởng các dịch vụ công.
Vùng đồng bằng bắc bộ: là địa bàn thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI và
ODA) lớn nhất nước. Trong giai đoạn 1993-2008, nguồn vốn ODA tập trung vào
khu vực này trên 6.548,38 triệu USD chiếm hơn 18,88% tổng số vốn ODA đã được
ký kết. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA được phân bổ cho các tỉnh trong vùng chưa
được đồng đều, chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải
Phòng và Quảng Ninh. Chương trình, dự án sử dụng vốn ODA được tập trung chủ
yếu vào nâng cấp và cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, cấp thoát nước
và vệ sinh môi trường…
Vùng Đông Nam Bộ: Trong những năm qua đã thu hút một khối lượng vốn ODA
trị giá 3.689,02 triệu USD chiếm 10,64% tổng nguồn vốn ODA phân bổ cho các
vùng trong cả nước. Các chương trình, dự án các tỉnh trong vùng được thụ hưởng
trực tiếp chiếm 34% tổng số vốn ODA cho toàn vùng, phần còn lại thông qua các
bộ, ngành quản lý. Nguồn vốn này được tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng như


Đào Hải Long – A20158

22


Chuyên đề kinh tế học
giao thông, năng lượng, bảo vệ rừng, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo…Một số
dự án của các nhà tài trợ ở bảng sau:
Như vậy, có thể đánh giá chung là nguồn vốn ODA đã góp phần vào việc thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội trên các khu vực, thực hiện xóa đói giảm nghèo, hỗ
trợ sản xuất, bảo vệ môi trường.
Liên vùng: Lượng vốn ODA giải ngân liên vùng trong những năm qua chiếm
13241,31 triệu USD chiếm khoảng 38,18%.

2.5 Những thuận lợi và khó khăn của nguồn vốn ODA
2.5.1 Thuận lợi
Bối cảnh quốc tế tạo ra những quan điểm mới tích cực hơn về việc nước giàu hỗ
trợ cho phát triển của các nước nghèo
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nước diễn biến theo chiều hướng khả
quan khiến các nhà tài trợ tin tưởng vào sự đổi mới của Việt Nam. Đó là một trong
những điều kiện tiên quyết để giúp chúng ta huy động vốn thuận lợi hơn.
2.5.2 Khó khăn
Diễn biến nền kinh tế toàn cầu có những tác động xấu đến nguồn hỗ trợ mà các nhà
tài trợ dành cho các nước nghèo.
Quá trình lập kế hoạch để xin hỗ trợ ở Việt Nam đôi khi soạn thảo thiếu chi tiết,
tính thuyết phục chưa cao nên mức độ huy động không phù hợp với yêu cầu thực
hiện nay ở Việt Nam.
Cạnh tranh với các nước trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng mạnh mẽ
trong khi Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xin hỗ trợ nguồn vốn
ODA.


Đào Hải Long – A20158

23


Chuyên đề kinh tế học
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA
Trong giai đoạn phát triển sắp tới Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho
đầu tư phát triển, trong đó có nguồn vốn ODA.
Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần có những
thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư cho các chương
trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc chắn như xây
dựng các nhà máy điện, kể cả các nhà máy điện nguyên tử; phát triển các tuyến
đường cao tốc thu phí, kể cả trong các thành phố lớn; phát triển hệ thống vận tải
bánh sắt quy mô vận tải lớn như tầu điện ngầm, đường sắt trên cao ở các thành phố
lớn…; các cảng hàng không; cảng biển; các hệ thống thông tin liên lạc viễn
thông...; các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ thật cao, có sức lan
tỏa thúc đẩy phát triển một ngành, một địa bàn lãnh thổ,...
Trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng ODA cần tập trung vào một số nhiệm
vụ cụ thể như:
- Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực chuẩn bị các chương trình và dự án đã
được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và giải ngân các
chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện 11,9 tỷ USD vốn
ODA trong thời kỳ 2006-2010 và tạo ra các công trình gối đầu cho giai đoạn sau
năm 2010.
- Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém ưu đãi cho các
chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn thu.
- Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả khu vực tư

nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công –tư kết hợp trong đầu tư phát
triển.
- Giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý nguồn vốn ODA theo hướng chuyển
trực tiếp nguồn vốn này cho chủ sở hữu vốn với cơ chế theo dõi và giám sát chặt
chẽ của các cơ quan chức năng để bảo đảm hiệu quả sử dụng và thực hiện trả nợ
vốn vay cho các nhà tài trợ.
Đào Hải Long – A20158

24


Chuyên đề kinh tế học
3.1 . Các chính sách và giải pháp thu hút ODA:
Chính phủ Việt Nam bày tỏ mong muốn cộng đồng tài trợ tăng cường sự hỗ trợ
của mình giúp Việt Nam tăng trưởng, giảm nghèo và đạt các Mục tiêu Thiên niên
kỷ (MDGs). Các chính sách và biện pháp về thu hút ODA dưới đây nhằm tạo thuận
lợi cho việc thu hút ODA và tối đa hoá tác động tích cực của các chương trình, dự
án ODA
(1) Tiếp tục thực hiện công cuộc “đổi mới” bao gồm các chính sách nhằm:
- Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, công bằng và bền vững;
- Xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển;
- Hoàn thiện môi trường đầu tư và kinh doanh;
- Tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong sử dụng nguồn lực công;
- Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và giảm nhẹ các tác động xã hội từ bên ngoài
trong quá trình hội nhập;
- Củng cố nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ;
- Các chính sách bảo đảm dân chủ và quyền con người.
(2) Chính phủ và các nhà tài trợ sẽ phối hợp cùng nhau theo tinh thần quan hệ đối
tác nhằm đảm bảo có sự hiểu biết và trách nhiệm chung và nhằm tối đa hoá lợi ích
của ODA bao gồm:

- Nâng cao chất lượng đối thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ thông qua việc
thiết lập các cơ chế, chẳng hạn tăng cường các cuộc họp Tư vấn các nhà tài trợ
(CG) và các nhóm quan hệ đối tác theo ngành;
- Công bố hệ thống các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA cho các tỉnh và thành
phố nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng;
- Thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong quá trình vận động ODA ở cấp địa
phương;
- Nâng cao năng lực điều phối các yếu tố đầu vào của nhà tài trợ thông qua sự
gắn kết hơn nữa với các kế hoạch của chính phủ và trao đổi thông tin;
- Tạo điều kiện phối hợp giữa các nhà tài trợ có mối quan tâm chung để hợp lý
hoá và nâng cao hiệu quả hỗ trợ.
Đào Hải Long – A20158

25


×