Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN TÍNH tất yếu RA đời TRIẾT học mác lê NIN, ý NGHĨA của nó TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.42 KB, 21 trang )

1

Tính tất yếu ra đời triết học Mác- Lênin. Ý nghĩa của nó
trong tình hình hiện nay
MỞ ĐẦU
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, ra đời từ đời sống xã hội phản ánh tồn tại xã hội, xét đến cùng bị
quy định bởi đời sống vật chất của xã hội. Do đó, sự phát triển của các tư
tưởng triết học cũng bị quy định bởi sự phát triển của nền sản xuất vật chất,
cũng phụ thuộc vào sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Triết học cũng là thế giới quan của những giai cấp hoặc tập đoàn giai cấp nhất
định. Triết học có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người và xã
hội loài người. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đồng thời
triết học còn có chức năng phương pháp luận, phương pháp luận là hệ thống
những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chungđể thực
hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn cùng với bản thân học thuyết về hệ
thống đó. Từ khi loài người xuất hiện triết học chưa ra đời, chỉ đến khi điều
kiện kinh tế xã hội phát triển triết học mới ra đời. Vào khoảng từ thế kỷ VIII
đến thế kỷ VI tr.CN với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại
ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Đối với sự phát triển tư tưởng triết học ở
Tây Âu, kể cả đối với triết học Mác, triết học cổ Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn.
Ngay từ khi ra đời triết học đã mang dấu ấn giai cấp sâu sắc, nó luôn diễn ra
quá trình đấu tranh của các trường phái một bên là duy vật một bên là duy
tâm. ở thời kỳ cổ đại đó là cuộc đấu tranh của Đê mô crít đại diện cho quan
điểm duy vật và một bên là Platôn đại diện cho quan điểm duy tâm. Trong
thời kỳ trung cổ cuộc đấu tranh diễn ra tuy có trầm lắng hơn nhưng vẫn diễn
ra giữa một bên là duy tâm, tôn giáo, một bên là duy vật. Đến thời kỳ cận đại
cuộc đấu tranh đó diễn ra rất gay gắt. Đặc biệt là cuối thế kỷ XVIII- đầu thế



2

kỷ XIX Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật Phoi ơ bắc và chủ nghĩa duy
tâm của Hê ghen. Kế thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng triết học từ
thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX và từ những đòi hỏi
của thực tiễn. Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời là một
tất yếu khách quan. Ngày nay trước sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc, và
các thế lực thù địch việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin là yêu cầu
bức thiết và sống còn của những người cộng sản.
Nội dung:
1.Tính tất yếu ra đời triết học Mác.
1.1 Điều kiện lịch sử và những tiền đề ra đời của triết học Mác.
1.1.1.Điều kiện khách quan : về kinh tế xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời không phải từ hư vô lịch sử, hay từ trên trời rơi
xuống mà nó ra đời trong điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu chủ
nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn phát triển mới, phương thức sản xuất
phong kiến sụp đổ, được thay thế bởi phương thức sản xuất tư bản và lúc này
nền kinh tế phát triển mạnh do phương thức sản xuất tư bản đem lại. Nước
Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn nhất với lực lượng công
nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng ở Pháp đang được hoàn thành. Ở Đức và
một số nước Tây Âu khác, cuộc cách mạng công nghiệp cũng làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội
phong kiến. “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một
thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Cũng chính từ sự phát triển
đó giai cấp tư sản đã quay lưng trở lại đàn áp giai cấp công nhân. Đã tạo ra
mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân

đã mang ý nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp.cuộc khởi nghĩa thợ dệt


3

Lyông(Pháp) năm 1831 và sau đó lại nổ ra năm 1834. Ở Anh có phong trào
hiến chương vào cuối những năm 30. Ở Đức cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ
rệt XiLêdi năm 1844 đến sự xuất hiện đồng minh những người chính nghĩa,
một tổ chức vô sản cách mạng. Giai cấp vô sản phát triển nhanh cả về số
lượng và chất lượng, tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều thất bại dìm trong biển
máu. Từ thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản,
nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học.Sự
ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng, là sự giải đáp
về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản
cách mạng.
Tiền đề về khoa học tự nhiên:
Ba phát minh lớn có tính chất vạch thời đại. Thứ nhất:là học thuyết tế
bào của Slây đen và Svan đã chứng minh mọi cơ thể động thực vật được kết
cấu từ tế bào đều là quá trình đồng hoá và quá trình dị hoá nó chấm dứt quan
niệm duy vật siêu hình về sự vận động phát triển sự vật hiện tượng là cơ sở
chỉ ra phép biện chứng duy vật hoàn toàn không phải do lực lượng siêu nhiên
nào sáng tạo.
Thứ hai: định luật bảo toàn chuyển hoá năng lượng đã chứng minh năng
lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi mà chỉ chuyển
hoá từ dạng này sang dạng khác. Chỉ ra tính thống nhất vật chất của thế giới,
nguồn gốc là ở bên trong của sự vật hiện tượng phủ nhận cái hích của thượng
đế.
Thứ ba: học thuyết tiến hoá của Đác uyn, đã chứng minh tất cả mọi sự
vật hiện tượng có chung một nguồn gốc, cùng một điểm xuất phát, cùng một
nền tảng vật chất, thế giới hữu cơ chỉ là sản phẩm của vật chất chấm dứt sự

ngự tri của chúa với tính chất chúa sáng thế. Là cơ sở thế giới quan vô thần và
là cơ sở khoa học tiên tiến để C.Mác và Ph. Ăng- ghen vận dụng và khái quát.
Về lý luận:


4

Triết học Mác kế thừa và tiếp thu có chọn lọc triết học cổ điển Đức, kinh
tế chính trị ở Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp. Triết học cổ điển
Đức là một trong những tiền đề lý luận cho việc hình thành thế giới quan duy
vậybiện chứng. Đặc biệt là phép biện chứng duy tâm của Hê ghen và chủ
nghĩa duy vật của Phoi ơ bắc. Hê ghen đã xây dựng một cách có hệ thống
phương pháp biện chứng , mặc dù núp dưới cái vỏ thần bí và dựa trên cơ sở
duy tâm sai lầm. Những nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật bịên chứng đánh giá
cao phương pháp biện chứng của Hê ghen, đồng thời chỉ rõ những hạn chế
của Hê ghen: Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hê
ghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hê ghen trở thành người đầu tiên trình bày
một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép
biện chứng ấy. Ở Hê ghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. chỉ
cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp
vỏ thần bí. CMác và Ph. Ăng- ghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của
Hê ghen thành phép biện chứng duy vật triệt để nhất, phát triển trên cơ sở đối
lập với phương pháp Hê ghen thành phép biện chứng duy vật triệt để.Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoi ơ bắc, kế thừa những quan
điểm duy vật về tự nhiên đồng thời phê phán tư tưởng duy tâm về lịch sử của
ông. Ăng ghen cũng phê phán Phoi ơ bắc trong khi phê phán triết học của Hê
ghen đã vứt bỏ luôn phép biện chứngcủa ông mà giữ lấy cho mình phương
pháp siêu hình cùng với quan niệm duy tâm về đời sống xã hội. Mác và Ăng
ghen thừa nhận rằng, chủ nghĩa duy vật của Phoi ơ bắc cùng với phép biện
chứng của Hê ghen đã trở thành một trong nhừng tiền đề lý luận cho sự ra đời
triết học Mác, tuy nhiên đó chỉ là tiền đề trực tiếp, còn triết học Mác là sự kế

thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại.
Việc cải tạo có phê phán những gì có giá trị trong kinh tế chính trị cổ
điển Anh (đại biểu là Ađam Smit,Đa vit Ricácđô) có một vai trò to lớn trong
việc sáng tạo ra học thuyết kinh tế mác xít ấy thì không thể phát hiện ra cơ sở


5

vật chất của quá trình lịch sử xã hội, không thể sáng lập ra quan điểm duy vật
về lịch sử và không thể khắc phục được tính chất không triệt để của chủ nghĩa
duy vật trước Mác.
Việc cải tạo có tính chất sáng tạo các học thuyết xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt là chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp thế kỷ XIX với các đại biểu như
Xanh Xi mông, Sphu ri ê…có vai trò quan trọng trong việc hình thành triết
học Mác, đặc biệt là quan điểm duy vật về lịch sử và những dự báo về tương
lai cộng sản chủ nghĩa.
1.1.2 Nhân tố chủ quan
Từ những tiền đề khách quan ở trên thì chưa đủ mà còn có nhân tố chủ
quan của CMác và Ph.Ăng-ghen, đó là thiên tài bẩm sinh của hai ông và tình
cảm bạn bè tuyệt vời, các ông có phẩm chất năng lực, tư duy khoa học, có
nhãn quan sâu rộng. Chính vì vậy Lênin nhận xét toàn bộ thiên tài của Mác
chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của
nhân loại đã nêu ra.
1.2.Thực chất bước ngoặt cách mạng do C.Mác và Ph.Ăng- ghen thực
hiện
1.2.1 Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và
phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học trước đó, xác lập chủ
nghĩa duy vật biện chứng nhờ một hệ thống lý luận chặt chẽthống nhất và
hoàn chỉnh. Cải tạo chủ nghĩa duy vật mang tính siêu hình của Phoi ơ bắc, lẫn
phép biện chứng trong cái vỏ thần bí của Hê ghen. Xây dựng một thế giới

quan duy vật biện chứng với tính cách là là một khoa học để nhận thức các
quy luật chung nhất của tự nhiên- xã hội-tư duy. Lần đầu tiên trong lịch sử
các ông sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong phép biện chứng đạt
mức hoàn bị gắn bó với nhau,thâm nhập vào nhau trong thể thống nhất.
1.2.2. Sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học chặt chẽ thống nhất và


6

hoàn chỉnh. Đây là một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác, đó là quy luật giá
trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử Mác và
Ph Ăng ghen đã gắn tự nhiên với xã hội, và coi xã hội là một bộ phận của tự
nhiên, trước đó chưa có đại biểu nào có quan điểm đúng đắn ngay cả Phoi ơ
bắc khi đi nghiên cứu về xã hội lại rơi vào duy tâm thần bí.
C.Mác khẳng định giơí tự nhiên là thân thể vô của con người, con người
sống bằng giới tự nhiên, đời sống thể xác và tinh thần của con người là gắn
liền khăng khít với giới tự nhiên, con người là một bộ phận của giới tự nhiên.
Tuy nhiên con người chỉ có thể trở thành con người đích thực khi nó được
sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với
người, trong môi trường mà ở đó các yếu tố xã hội giữ vai trò quyết định. Xã
hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất. C.Mác đã xem xét một cách
toàn diện xã hội, đi nghiên cứu toàn diện tiến trình lịch sử và đi mổ sẻ xem
xét xã hội điển hình đó là chủ nghĩa tư bản. CMác đã cho rằng xã hội là một
bộ phận đặc biệt của tự nhiên, đồng thời với quá trình tiến hoá tiếp tục của tự
nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình, thể hiện bằng
sự vận động , biến đổi và phát triển không ngừng trong cơ cấu của xã hội, ở
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội cơ bản đặc thù. Hình
thái kinh tế xã hội, được coi như những nấc thang của sự phát triển. Nền tảng
chung của các cơ cấu xã hội cụ thể này là những mối quan hệ sản xuất vật

chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và người, trên đó sẽ hình thành
nên một thượng tầng kiến trúc phù hợp. Con người vừa là sản phẩm của tự
nhiên vừa là sản phẩm của xã hội, khẳng định nguồn gốc động lực của xã hội
là mâu thuẫn về kinh tế mà trực tiếp là đấu tranh giai cấp để giải quyết mâu
thuẫn xã hội và coi đó là động lực trực tiếp để phát triển xã hội. Học thuyết
hình thái kih tế xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
cũng là một nội dung cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Học thuyết đó vạch
rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương pháp duy nhất


7

khoa học để giải thích lịch sử. Chính từ hiện thực mà nhận thấy rằng, sản xuất
vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Sản xuất là hoạt động đặc
trưng riêng có của con người và của xã hội loài người. đó là quá trình hoạt
động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Theo Ph. Ăngghen: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở
chỗ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con ngtười sản xuất”1.
Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, và sản
xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt với nhau, trong
đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, và
xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội. Để con
người sống và tồn tại, điều đơn giản là con người phải, có ăn, có mặc thì mới
nghĩ đến việc làm khác. Cũng từ những điều đó mà Mác thấy sự vận động của
xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự vận động đó không theo ý muốn chủ
quan của con người.
CMác và Ph.Ăng ghen đã giải quyết hàng loạt khái niệm như cách mạng
xã hội , lực lượng cách mạng, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, vấn đề con người …theo lập trường
duy vật. Chỉ khi triết học Mác ra đời thì các khoa học nhân văn mới thực sự ra

đời. Chủ nghĩa Mác ra đời, đã thực sự đưa chủ nghĩa duy tâm ra khỏi căn hầm
trú ngụ cuối cùng của mình.
1.2.3 C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa vào triết học loài người những
thuộc tính mới là thuộc tính khoa học, cách mạng, sáng tạo, thống nhất lý luận
và thực tiễn.
Trong quá trình nghiên cứu chúng ta thấy rằng chủ nghĩa duy tâm tôn
giáo không thể có khoa học được. Lịch sử đã chứng minh, các nhà triết học
trước đây chưa thấy rõ mối quan hệ giữa thực tiễn với lý luận gắn bó với
1

C.Mác và Ph. Ăng-ghen, toàn tập Nxb CTQG, H 1998,t34, tr241


8

nhau. Phạm trù thực tiễn là cái rất mới, ngay khi đi nghiên cứu về tự nhiên thì
Phoi ơ-bắc là nhà duy vật triệt để, còn nghiên cứu trên lĩnh vực xã hội thì ông
lại là nhà triết học duy tâm, ông cho rằng sự vận động phát triển của xã hội, là
do sự vận động phát triển của tôn giáo, chỉ cần thay thế tôn giáo đang có bằng
tôn giáo tình yêu. Còn hoạt động thực tiễn chỉ là hoạt động con buôn bẩn thửu
mà thôi. Chính trong hoạt động thực tiễn, C.Mác và Ph.Ăng đã chuyển đổi lập
trường từ duy tâm sang duy vật, từ dân chủ cách mạng sang người cộng sản.
Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lớn trong việc phát triển thế giới
quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không
thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn
chế lớn nhất là không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận
thức,do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính trực quan. C.Mác đã chỉ rõ
rằng “ khuyết điểm chủ yếu, từ trước đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật kể
cả chủ nghiã duy vật của Phoi ơ-bắc, là không thấy được vai trò của thực
tiễn”2. Có một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng

tạo trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt
động tinh thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người. C.Mác và Ph.Ăng ghen đã đem lại một quan
điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễnvà vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức cũng như sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa
phạm trù thực tiễn vào lý luận, hai ông đã thực hiện một bước chuyển biến
cách mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức nói riêng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới
bên ngoài, thì con mgười, nhờ vào thực tiễn như là hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích
nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con
2

C.Mác và Ph. Ăng-ghen, toàn tập Nxb CTQG, H 1995, t3, tr.9


9

mgười không thể thoả mãnvới những gì tự nhiên cung cấp cho mình dưới
dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để
nuôi sống mình. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khẳng định vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức, thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu và trực
tiếp của nhận thức. Ph.Ăng-ghen khẳng định “…chính việc người ta biến đổi
tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ
con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự
nhiên”.3 Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
mà nhận thức của con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động

thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng. Trong quá
trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả
bản thân mình, phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Chính
vì vậy con người ngày càng đi sau vào nhận thức thế giới khám phá những bí
mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức phải quay về phục vụ thực
tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học
chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực
tiễn. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý, mọi vấn đề đều bắt nguồn từ
thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm nếu không phù hợp với thực tiễn thì
lý luận cũng chỉ là lý luận xưông mà thôi. Ngày nay,trong công cuộc đổi mới
của đất nước chúng ta đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi việc
gắn lý luận với thực tiễn là yêu cầu hết sức bức thiết, đòi hoỉ lý luận phải đi
sâu nghiên để đáp ứngnhững yêu cầu mà cuộc sống đặt ra.
3

C.Mác và Ph. Ăng-ghen, toàn tập Nxb CTQG, H 1994,t20, tr.720


10

1.2.4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đặt nền móng khoa học mới đó là chiến
tranh và quân đội. Trong lịch sử cũng có nhiều nhà nghiên cứu về chiến trranh
và quân đội nhưng họ chưa thấy rõ nguồn gốc và bản chất của quân đội, họ
cho rằng sức mạnh quân đội do vĩ nhân, chiến tranh là sự tiến bộ xã hội…
C.Mác và PhĂng- ghenđã chỉ ra nguồn gốc của chiến tranh, quy luật chiến
tranh, mối quan hệ kinh tế với chiến tranh, sau này được Lênin xây dựng và
phát triển thành học thuyết chiến tranh và quân đội.
1.2.5. C.Mác và Ph.Ăng-ghen làm cho triết học thực sự là thế giới quan

khoa học cả tự nhiên –xã hội –tư duy.Triết học và các khoa học có mối quan
hệ gắn bó với nhau mỗi sự khái quát của các khoa học tạo cơ sở lý luận tư duy
khoa học phát triển. Triết học phát triển có tác dụng là thế giới quan phương
pháp luận cho các khoa học. Từ thời cổ đại và đến mãi về sau, họ đã quan
niệm triết học là khoa học của mọi khoa học, sau này C.Mác và Ph. Ăng ghen
đã chỉ ra rằng triết học đi nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên
–xã hội và tư duy. Và đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc cho rằng triết học
Mác không có đối tượng nghiên cứu.
Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội của triết học cũng như
vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học đã thay đổi về căn bản.
Triết học Mác trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân.
Sự kết hợp lý kuận chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêngvới
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào
đấu tranh của công nhân từ trình độ tự phát trở lên tự giác. Nhờ sự khái quát
các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà triết học Mác trở
thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự
phát triển tiếp tục của các khoa học.
Triết học Mác là cơ sở lý luận khoa học cho chiến lược và sách lược của
giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng để chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa
xét lại, cơ hội, giáo điều.


11

Trong quá trình vận dụng sáng tạo học thuyết Mác để giải quyết những
nhiệm vụ của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu
xựng chủ ngiã xã hội . Lênin có những đóng góp to lớn vào việc bảo vệ và
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.



12

2. Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác.
2.1. Điều kiện lịch sử Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác.
2.1.1. Điều kiện khách quan.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn
mới đó là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Có những đặc điểm khác với những
giai đoạn trước đó, nó đã bộc lộ sự phản động. Chính vì vậy có nhiều phong
trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, đã có nhiều nhà nghiên cứu chủ
nghĩa đế quốc, nhưng chỉ có Lênin sử dụng phép biện chứng vào nghiên cứu
và đã thấy sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc là sự cạnh tranh độc quyền, cá
lớn nuốt cá bé. Xuất hiện tư bản tài chính, trước đây ngân hàng chỉ là trung
gian thì bay giờ chúng cấu kết với nhau, với tư bản trong quá trình sản xuất để
chúng thao túng về chính trị và về kinh tế. Nếu như trước đây chúng xuất
khẩu thành phẩm thì bây giờ chúng xuất khẩu tư bản, chúng đem vốn ra nước
ngoài để đầu tư ở các nước, chúng không những bóc lột nhân dân các nước
mà chúng còn bóc lột chính nhân dân nước họ. Chính từ đó chúng tranh giành
thị trường phân chia khu vực thuộc địa, gây ra chiến tranh xâm lược. Chủ
nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ bản chất phản động toàn diện.
Về kinh tế: sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
ngày càng cao hơn. lực lượng sản xuất phát triển mạnh nhưng quan hệ sản
xuất vẫn dựa trên chế độ tư nhân về tư liệu sản xuất, những mâu thuẫn đó
ngày càng tạo ra khủng hoảng về kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Về chính trị: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản ngày càng lỗi thời, phản
động hơn, nó biểu hiện ý thức hệ, lối sống tư sản…xuyên tạc chủ nghĩa Mác
Về văn hoá: Đề cao chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tăng cường áp bức các
nước chậm phát triển.
Về quân sự: Chúng chạy đua vũ trang, gây ra chiến tranh thế giới lần thứ
nhất.



13

Chính vì vậy cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng quyết liệt
hơn. Đầu thế kỷ 20 trung tâm thương nghiệp chuyển về nước Nga vì nước
Nga lúc đó đang ở đêm trước của cuộc cách mạng. trong xã hội chứa đựng
nhiều mâu thuẫn gay gắt. Vì chủ nghĩa Mác ra đời và đánh bại các chủ nghĩa
khác ở trong xã hội, và được truyền bá rộng rãi. Các Đảng công nhân trên thế
nổ ra, phong trào công nhân từ tự phát trở thành tự giác. Ở Tây Âu đã làm
xong cuộc cách mạng tư sản tiến nhanh chế độ tư bản, lúc này ở Nga vẫn còn
chế độ quân chủ phong kiến hà khắc lạc hậu, bắt đầu từ 1860 trở đi chủ nghĩa
tư bản ở Nga phát triển mạnh,giai cấp công nhân nga ngày càng lớn mạnh.
Thắng lợi của cách xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đầu
cho một thời đậi mới.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có
nhiều phát minh mới mang tính cách mạng cho khoa học tự nhiên dẫn tới sự
khủng hoảng trong khoa học tự nhiên như phát hiện tia phóng xạ, điện tử,
thuyết tương đối …những phát minh này tạo sự khủng hoảng khoa học tự
nhiên dẫn đến sự bế tắc làm cơ sở cho chủ nghĩa duy tâm chống phá chủ
nghĩa duy vật, cho rằng vật chất bị tiêu tan chỉ còn sự tồn tại của chúa, và
chúa tồn tại vĩnh viễn.
Về lý luận : những năm 80 của thế kỷ 19 chủ nghĩa Mác đã được truyền
bá vào Nga nhờ nhóm giải phóng lao động do Plê kha nốp đứng đầu, đây là
nhóm người Nga sống lưu vong ở nước ngoài có công lớn trong việc truyền
bá vào Nga, nhưng cuối đời ông Plê kha nốp lại sai lầm phê phán tư tưởng
cách mạng không ngừng. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trên thế giới và ở nga
xuất hiện trào lưu cơ hội xét lại núp dưới chiêu bài đổi mới mở rộng hiện đại
hoá phát triển chủ nghĩa Mác nhưng lại từ bỏ những nội dung quan trọng nhất
của chủ nghĩa Mác và tìm cách bổ sung nó bằng những biến tướng của chủ
nghĩa duy tâm. Khi Mác và Ph. Ăng-ghen qua đời thì những người như Cau

xky, Ăt Lơ theo chủ nghĩa cơ hội xét lại núp dưới chiêu bài và từ bỏ học


14

thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của Mác phủ nhận giai cấp vô sản, tuyên
truyền cho chủ nghĩa xã hội dân chủ. Thủ tiêu đấu tranh cách mạng xây dựng
đấu tranh nghị trường, gạt bỏ then chốt chủ nghĩa Mác mà còn biến tướng xây
dựng chủ nghĩa duy tâm. Những người theo chủ nghĩa Ma khơ cũng tăng
cường hoạt động lý luận, họ viện cớ “bảo vệ chủ nghĩa Mác”, nhưng thực chất
là xuyên tạc triết học mác xít. Chính vì lẽ đó trong tác phẩm chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán xuất bản năm 1909, Lênin không chỉ
phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Ma
khơ mà còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử dựa trên phân tích khái quát những thành tựu khoa học mới
nhất, trước hết là khoa học tự nhiênthời đó. Với định nghĩa của Lênin về vật
chấtvới tính cách là một phạm trù triết học, nhiều vấn đề căn bản của nhận
triết họcức luận mác xít đã được làm sâu sắc triết họcêm, được nâng lên một
trình độ mới. Phương pháp của Lênin trong việc phân tích cuộc khủng hoảng
vật lý có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triểncủ khoa học tự nhiên
hồi đó và cho đến cả ngày nay. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng
cũng đã giúp cho Lênin có những đống góp quan trọng vào kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác về triết học xã hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo
lực, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới…Luận điểm của Lênin về
khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, triết học thậm
chí ở một nước riêng lẻ, được rút ra từ sự phân tích quy luật phát triển không
đều của chủ nghĩa tư bản,đã có ảnh hưởng rất lớn với tiến trình cách mạng ở
nước Nga cũng như trên toàn thế giới.
Lê nin vừa lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ
nghiã xã hội ,vừa đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.

Lênin đã nêu lên những mẫu mực về sự thống nhất giữa tính đảng với yêu cầu
sáng tạo trong việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác. Lênin kịch liệt phê
phán những người nhân danh lý luận của Mác trên lời nói nhưng thực tế là


15

chủ nghĩa xét lại, hặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác. Đồng thời, Lênin
chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những thành
quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mácvà
Ph.Ăng ghen để lại.
2.1.2 Nhân tố chủ quan
Sinh trưởng trong một gia đình có sáu anh chi em, Bố là hiệu trưởng một
trường đại học, Mẹ có ý chí và tâm huyết nuôi dạy con cái. Lênin khi học phổ
thông luôn là học sinh giỏi, thầy giáo nhận xét khi ra trường là người có
tài,thường xuyên cố gắng cuối khoá được thưởng huy chương vàng. Khi học
đại học bị đuổi do tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, sau đó tự học
đại học luật trong một năm rưỡi học xong chương trình bốn năm thi tốt
nghiệp nhận bằng tốt nghiệp loại ưu. Bằng thiên tài trí tuệ Lênin đã chiếm
lĩnh được thành tựu văn hoá nhân loại có tư tưởng triết học tiến bộ, đã đọc và
tiếp thu tư tưởng triết học nhân loại, đặc biệt triết học Mác, kiên định lập
trường giai cấp triết lý theo nguyên tắc Mác và Ph.Ăng-ghen.lấy lợi ích giai
cấp công nhân và nhân lao động, Lênin đã lao vào hoạt động thực tiễn, nghiên
cứu lý luận,đấu tranh bảo vệ sáng tạo triết học Mác.
2.2. Những nội dung cơ bản Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác.
2.2.1. Lênin phê phán quan điểm duy tâm chủ nghĩa về lịch sử của bọn
dân tuý ở Nga vào những năm 90 của thế kỷ 19, Lênin bảo vệ chủ nghĩa Mác
khỏi sự xuyên tạc của những người dân tuý, đồng thời phát triển, làm phong
phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội
của Mác. Chủ nghĩa dân tuý là chủ nghiã theo lập trường tiểu tư sản, họ đã

phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản Nga, nó cho rằng chủ nghĩa tư
bản phát triển một cách ngẫu nhiên, giai cấp vô sản là con đẻ của chủi nghĩa
tư bản, giai cấp vô sản Nga không thể lãnh đạo cách mạng, lực lượng chính
cách mạng Nga là nông dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở công
xã nông dân công xã nông dân không có một cái gì của chủ nghĩa xã hội. Phủ


16

nhận vai trò của quần chúng, việc sáng tạo ra lịch sử là của anh hùng vĩ nhân,
quần chúng là lực lượng theo đuôi anh hùng vĩ nhân,không có anh hùng thức
tỉnh thì quần chúng chẳng là gì chúng cho rằng quần chúng như con số không.
Nó phủ nhận quy luật khách quan phát triển xã hội, phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Hay có một bộ phận rơi vào chủ nghĩa kinh tế, họ tuyệt đối hoá vấn đề kinh
tế, phủ nhận đấu tranh chính trị và đáu tranh tư tưởng, giai cấp tư sản chỉ cần
đấu tranh kinh tế. Từ đó Lênin đã viết các tác phẩm như những người bạn dân
là như thế nào, nội dung kinh tế của phái dân tuý, làm gì, hai sách lược của
đảng dân chủ….Trong các tác phẩm đã vừa chỉ ra công lao to lớn của Mác và
Ph. Ăng ghen trong việc sáng tạo học thuyết triết học có tính chất vạch thời
đại đấu tranh phê phán tính duy tâm, tính phiến diện của phái dân tuý, phái
kinh tế. Lênin đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội để phân tích một
số vấn đề lý luận quan trọng khác như kế thừa, dân tộc, xã hội hoávà vấn đề
hiện thực xã hội Nga.
2.2.2. Trước những phát minh khoa học có tính chất vạch thời đại vào
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhất là trong lĩnh vực vật lý học, chủ nghĩa Ma
khơ một thứ chủ nghiã duy tâm chủ quan tìm mọi cách tăng cường ảnh hưởng
của mình. Nhất là ở Nga sau cuộc cách mạng 1905-1907, chúng viện cớ phát
triển chủ nghiã Mác nhưng thực chất là để xuyên tạc chủ nghĩa Mác, chính vì
vậy Lê nin đã viết tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, đưa ra định nghĩa về vật chất với tính cách là một phạm trù triết học,

vận dụng phép biện chứng làm sâu sắc thêm nhiều vấn đề căn bản của nhận
thức. Phương pháp phân tích cuộc khủng hoảng vật lý có ý nghĩa to lớn thúc
đẩy sự phát triển tiếp tục của khoa học tự nhiên thời đó. Lê nin cho rằng
không phải vật chất bị tiêu tan, mà đó là khả năng nhận thức của con người đã
tiến sâu vào nhận thức những điều bí ẩn của thế giới.
2.2.3. Những vấn đề triết học được Lênin tập trung nghiên cứu vào
những năm chiến tranh thế giới thứ hai, đã góp phần đáp ứng yêu cầu nhận


17

thức sâu sắc hơn giai đoạn độc quyền nhà nước của chủ nghĩa tư bản và giải
quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn cách mạng vô sản . Lý luận về
phép biện chứng, nhất là tư tưởng biện chứng trong triết học Hê ghen,được Lê
nin đặc biệt lưu ý. Khai thác những hạt nhân hợp lý, làm giàu thêm phép biện
chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập. Đặc biệt là vấn đề về thực tiễn, nhất là thực tiễn đấu tranh cách mạng
ở Nga, và cách mạng vô sản.
2.2.4. Với tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng, Lênin đã có những
đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học xã
hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, lý luận về
Đảng kiểu mới. Luận điểm nổi bật của Lênin là khẳng định khả năng thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở một số nước, thậm chí ở một số nước riêng lẻ, dựa
trên sự phân tích quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã có ảnh
hưởng to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới.
2.2.5. Lênin tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển
chủ nghĩa Mác và triết học Mác. Thấm nhuần tính cách mạng và sáng tạo của
lý luận biện chứng mác xít. Lênin đã nêu tấm gương sáng về thái độ khoa
học và cách mạng, khi cần thiết cũng phải chấp nhận thay đổi chứ không thể
chấp nhận mọi thứ chủ nghĩ giáo điều hay bảo thủ nào.

Từ tính khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã trở thành thế
giới quan khoa học, phương pháp luận đúng đắn, thực sự là hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản và của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
3. Ý nghiã của sự ra đời triết học Mác- Lênin và sự phát triển của
nó trong tình hình hiện nay.
Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng ra đời
là yêu cầu bức thiết của lý luận và thực tiễn cách mạng, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng của giai cấp vô sản, là vũ khí
lý luận sắc bén của giai cấp công nhân, giác ngộ phong trào đấu tranh đấu


18

tranh của công nhân từ tự phát trở thành tự giác. Triết học Mác-Lênin ra đời
là một tất yếu khách quan. Là sản phẩm hợp tư tưởng lý luận nhân loại. đây
không phải là sự áp đặt chủ quan nào . Làn đầu tiên trong lịch sử triết học chủ
nghĩa duy vật đã được giải phóng khỏi tư duy siêu hình,thống nhất chủ nghĩa
duy vật với phép biện chứng. Giải phóng phép biện chứng khỏi tính siêu
hình , bảo thủ của nó,đem chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã
hội xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lần đầu tiên phong trào công
nhân có được lý luận cách mạng thực sự là công cụ nhận thức vĩ đại.
Trang bị cho chúng ta thế giới quan phươg pháp luận đúng đắn trong
xem xét và đánh giá thời cuộc, đánh giá tình hình hiện nay. Thấy rõ sự cần
thiết của việc đấu tranh chống chủ nghiã duy tâm, tôn giáo, khẳng định lập
trường duy vật biện chứng, không xa rời các nguyên tắc mác xít, tôn trọng
quy luật khách quan. Khẳng định triết học Mác-Lênin là thể thống nhất
không thể tách rời. Trong tình hình hiện nay chủ nghiã xã hội ở Liên xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã sụp đổ, việc bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin nói chung và triết học Mác Lênin nói riêng lại càng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với giai cấp vô sản và nhân dân yêu chuộng hoà

bình trên toàn thế giới. Việc nắm vững triết học Mác –Lênin giúp chúng ta tự
giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực tư duy
sáng tạo của mình. Đó là đòi hỏi cấp bách của sự ngiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội nói chung, công cuộc đổi mới hiện nay nói riêng. Với chức năng của
mình, triết học Mác –Lênin là cơ sở thế giới quan phương pháp luận chung
của toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin. Chỉ có quán triệt thế giới quan và phương
pháp luận khoa học của triết học Mác Lênin chúng ta mới có thể tiếp thu được
nhưngtx quan điểm kinh tế và chính trị-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin theo
tinh thần khoa học, tránh những sai lầm do chủ quan và phươpng pháp tư duy
siêu hình gây ra. Tuy nhiên chúng ta không được tuyệt đối hoá, chỉ cần nắm
được triết học Mác-Lênin thì lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ


19

thể do cuộc sống đặt ra. Triết học Mác không phải là một đơn thuốc vạn năng
chứa sẵn cách giải quyết mọi vấn đề trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn. Chính vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi mỗi chúng ta cần phát huy trí tuệ, nâng cao khả năng nhận thức cả
về tri thức lẫn kinh nghiệm trong cuộc sống đặt ra. Trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn, chứng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm, hoặc là xem
nhẹ thường triết học và do đó sa vào tình trạng mò mẫm, đễ bằng lòng với
những biện pháp ccụ thể nhất thời,đi đến mất phương hướng, thiếu nhìn xa
trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác, hoặc là tuyệt đối hoá
vai trò của triết học và do đó sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách
máy móc những nguyên lý, những quy luật chung vào từng trường hợp riêng
mà khôngtính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là
dễ bị vấp ngã, thất bại.
Từ tiếp thu nguyên lý chủ nghiã Mác-Lênin, Chủ Tịch Hồ Chí đã vận
dụng sáng tạo vào con đường cách mạng và giải phóng dân tộc ở nước ta, đã

trực tiếp cùng toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và
chủ nghĩa đế quốc, và các thế lực thù địch đưa nước ta đi theo con đường xã
hội chủ nghiã. Trong tình hình hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đang tìm mọi cách chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, đặc biệt
là việt nam chúng ta là một trọng điểm. Đảng và nhân dân ta lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho
hành động cách mạng. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù
để thực hiện được mục tiêu đó không phải một sớm một chiều, mà đây là quá
trình đấu tranh lâu dài và quyết liệt. Sau hơn 20 năm đổi mới của đất nước
chúng ta đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, tình hình kinh tế có bước phát
triển mạnh, an ninh quốc phòng ổn định, chính trị xã hội được giữ vững, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc, quan hệ đối ngoại dược mở rộng. Tuy nhiên
chúng ta cũng có những thách thức đó là những nguy cơ mà Đảng ta nhận


20

định tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, diễn biến hoà
bình, tệ quan liêu, tham nhũng. Những vấn đề đó đang là trở lực con đường
xây dựng của nước ta, cần phải nhận dạng rõ âm mưu của kẻ thù tránh bị bất
ngờ trước những diễn biến xảy ra. Với quan điểm thực hiện nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy nền kinh
tế năng động, tuy nhiên phải chấp hành đúng pháp luật. Thường xuyên đổi
mới xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là then chốt, phát huy và giữ vững
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại nhằm đẩy lùi những nguy cơ
và những thách thức đặt ra.
Là lực lượng nòng cốt bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập dân tộc, đấu tranh chống thế lực thù địch, chống
tệ tham nhũng, quan liêu, đòi hỏi chúng ta cần thấm nhuần lý luận chủ nghĩa

Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thường xuyên bổ sung vào kho tàng lý
luận, vận dụng đúng đắn vào thực tiễn của đất nước, luôn luôn đấu tranh trước
những sự chống phá của kẻ thù và các thế lực chống khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, chống con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luôn được xây
dựng vững mạnh về mọi mặt cả về chính trị ,quân sự , khoa học kỹ thuật, luôn
giáo dục bản lĩnh chính trị vững vàng cho mọi quân nhân, quán triệt quan
điểm chủ nghĩa duy vật mác xít, phát triển kinh tế, gắn đi đôi xây dựng tiềm
lực quân sự mạnh, chủ động xây dựng tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực
lượng vũ trang đủ mạnh để chống lại sự chống phá đáp ứng các tình huống
đặt ra. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng chính quy tinh nhuệ
từng bước hiện đại.


21



×