Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học một số NGUYÊN tắc PHƯƠNG PHÁP LUẬN của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG đổi mới tư DUY bảo vệ tổ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.95 KB, 14 trang )

1

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
ĐỔI MỚI TƯ DUY BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY

Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất
của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là một trong ba
hình thức cơ bản của phép biện chứng, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng
vào giữa thế kỷ XIX, được V.I.Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển trong
điều kiện lịch sử mới. Phép biện chứng duy vật đã kế thừa có chọn lọc, có
sự phê phán các học thuyết triết học trong lịch sử và sử dụng khá triệt để
các thành tựu của khoa học đương thời. Thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ trong phép
biện chứng đấy. Ngay từ khi ra đời đã khắc phục được những hạn chế của
phép biện chứng chất phát thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện
chứng duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những
quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Nội dung của phép biện chứng duy vật hết sức phong phú, song nội
dung khái quát của nó là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển của thế giới hiện thực. Nội dung đó được thể hiện ở các nguyên lý cơ
bản, các cặp phạm trù cơ bản và các quy luật cơ bản được sắp xếp một
cách lôgíc, hệ thống. Trong đó các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật là những yếu tố đầu tiên có tính chất phổ quát nhất, định hướng
toàn bộ nội dung, đồng thời xác định những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản của cả hệ thống.


2


Phép biện chứng duy vật giữ vai trò chức năng phương pháp luận
chung nhất và thế giới quan chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực
tiễn; là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; là vũ khí tinh thần, tư tưởng
của giai cấp công nhân về nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Do đó, khi xem xét các sự vật, hiện tượng
cần vận dụng tổng hợp hệ thống nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ
hai nguyên lý và từ toàn bộ phép biện chứng duy vật. Vậy, hệ thống các
nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là gì? Sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong xác định nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế
nào?
Trên cơ sở phân tích, luận giải hệ thống phép biện chứng duy vật,
đặc biệt là hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật (nguyên lý
về mới liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), các nhà kinh điển
đã khai quát nên các nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là:
toàn diện, lịch sử - cụ thể và toàn diện.
Quan điểm toàn diện là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất
của phương pháp biện chứng mácxít trong nhận thức, phân tích hiện thực
và hoạt động thực tiễn.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng đều tồn tại trong mối
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong
phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm
toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi, trong việc nhận thức các sự vật hiện
tượng, để có được nhận thức đúng đắn về nó chúng ta phải xem xét nó trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau
của chính sự vật, hiện tượng đó; phải tính toán đến các điều kiện không


3


gian, thời gian; phải nghiên cứu cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nó;
phải xem xét trong mối liên hệ giữa nó với với các sự vật khác (kể cả trực
tiếp và gián tiếp) trong một chỉnh thể. Đề cập đến nội dung này, V.I. Lênin
từng viết: muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó.
Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện
tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con
người. Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch
sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu
hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là
tương đối, không đầy đủ không trọn vẹn. Có ý thức được điều này chúng ta
mới tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh
xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể
phát triển. Để nhận thức được sự vật, hiện tượng cần phải nghiên cứu tất cả
các mối liên hệ, phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng khỏi phạm sai
lầm và sự cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện không phải là xem xét một cách bình quân, ngang
bằng mọi mối liên hệ mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mối
liên hệ, từng vấn đề. Có như thế chúng ta mới nắm được thực chất sự vật,
vấn đề cần nghiên cứu và mới có quyết sách đúng đắn. Mặt khác, để nhận
thức được bản chất của sự vật, vấn đề cần xem xét có trọng tâm, trọng
điểm. Quan điểm toàn diện đặt ra đối với chúng ta là luôn phải chống quan
điểm siêu hình, xem xét sự vật một cách phiến diện, phân tích mọi vấn đề
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.


4

Quán triệt quan điểm toàn diện trong xem xét, nhận thức và hành
động, giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện tượng

làm cơ sở cho việc xác định đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu một cách đúng
đắn, chỉ ra được nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản lâu dài và cũng như trước mắt;
phối hợp chặt chẽ mọi hành động trong quá trình thực hiện, thúc đẩy sự
vật, hiện tượng phát triển hợp quy luật, điều kiện và khả năng khách quan.
Quan điểm lịch sử - cụ thể là một trong những nguyên tắc quan trọng
của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói
riêng nhằm chỉ đạo con người trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới vật chất.
V.I.Lênin từng nhận xét rằng “trong thế giới không có gì ngoài vật
chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu
ngoài không gian và thời gian” 1. Như vậy, các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất đều có một lịch sử tồn tại vận động, biến đổi và phát triển
không ngừng. Hơn nữa, chúng tồn tại trong các mối quan hệ, tác động ràng
buộc lẫn nhau, và trong những không gian và thời gian khác nhau thì
những mối quan hệ đó cũng biểu hiện khác nhau. Do vậy, khi xem xét các
sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất luôn quán triệt quan điểm lịch sử
- cụ thể. Quán triệt phương pháp xem xét lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa
Mác, V.I.Lênin đã khẳng định: “Bản chất linh hồn sống của chủ nghĩa Mác
là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” .
Quan điểm lịch sử - cụ thể chỉ ra rằng, khi xem xét sự vật, hiện tượng
cần phải đặt sự vật, hiện tượng đó trong một không gian và thời gian xác
định, phải xuất phát từ hiện thực khách quan, từ phương thức tồn tại cụ thể,
trong hoàn cảnh lịch sử nhất định để nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện


5

tượng. Phải luôn luôn lấy sự vật, hiện tượng cụ thể làm đối tượng nghiên
cứu và cải tạo, không được xuất phát từ những công thức có sẵn, từ ý muốn
chủ quan hoặc từ bên ngoài để áp đặt vào sự vật, hiện tượng. Đồng thời

phải đảm bảo tính khách quan trong quá trình xem xét, nghiên cứu và cải
tạo sự vật, hiện tượng. Phải kết hợp phân tích cho được những nhân tố bên
trong, những mối liên hệ cơ bản và những mâu thuẫn chủ yếu tồn tại trong
mỗi sự vật, hiện tượng với những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, với
một quá trình lịch sử đã và đang diễn ra của bản thân mỗi sự vật, hiện
tượng. Không được xuất phát từ những ảo tưởng xa xôi, viển vông hão
huyền và xa rời hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của mỗi sự vật, hiện tượng.
Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, trong hoạt động nhận thức, con
người sẽ nhận thức được đúng đắn tình hình, hoàn cảnh lịch sử của sự vận
động và phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng, nhận thức được cái bản chất,
quy luật và các quá trình phát triển của chúng trong thế giới vật chất. Từ
đó con người có thể đánh giá, phân tích được tình hình, hoàn cảnh hiện tại,
dự kiến được sự vận động, phát triển trong tương lai. Từ đó, trong hoạt
động thực tiễn, con người có thể đề ra được những chủ trương, biện pháp
đúng đắn và thật sự khoa học để góp phần cải tạo thế giới vật chất. Nếu
phủ nhận quan điểm lịch sử - cụ thể thì con người sẽ đi đến chỗ bế tắc
trong cải tạo thực tiễn, những giải pháp đưa ra sẽ trở lên giáo điều, kinh
viện, duy tâm và siêu hình, từ đó gây cản trở, thậm chí kéo lùi quá trình
vận động phát triển của thế giới vật chất, cũng như sự phát triển của xã hội
loài người.
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển
không ngừng, bản chất khách quan đó của hiện thực đòi hỏi trong nhận


6

thức và hoạt động của bản thân, chúng ta phải có quan điểm phát triển.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Điều kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa
học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản, là xem xét mỗi vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch

sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ
yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay
nó đã trở thành như thế nào” 1.
Quan điểm phát triển - một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng- đòi hỏi chúng ta không chỉ thấy sự vật như là
cái đang có, mà còn phải nắm được sự vận động, khuynh hướng phát triển
tương lai của nó; không chỉ thống kê được những khuynh hướng vận động
phức tạp của nó, mà còn phải khái quát và làm sáng tỏ được xu hướng vận
động, biến đổi, chuyển hóa và phát triển chủ đạo của nó.
Theo đó, việc phát hiện và ủng hộ cái mới và loại trừ cái cũ đều là
công việc hết sức cần thiết trong quá trình phát triển của sự vật. Điều này
hết sức quan trọng trong thực tiễn xã hội. Vấn đề có tính quy luật là đi liền
với cái mới, bao giờ cũng có cái cũ, cái cũ có lúc nhiều hơn, mạnh hơn,
thậm chí còn được che giấu. Vì thế, chỉ có niềm tin vào sự tất thắng của cái
mới chưa đủ mà phải tỉnh táo, sắc sảo phân biệt cái mới với cái cũ, với cái
giả danh là mới; phải thông qua hành động thực tiễn làm chuyển biến
tương quan lực lượng giữa cái cũ và cái mới, làm cho cái mới mạnh lên,
cái cũ suy yếu dần đi trong quá trình phát triển của sự vật.
Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là một quá trình
biện chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính chất
quanh co, phức tạp của mọi quá trình phát triển. Thiếu quan điểm khoa học

1


7

như trên, người ta rất dễ bi quan, dao động khi tạm thời gặp khó khăn trắc
trở trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản

Việt Nam đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
nói chung, hệ thống các nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật
nói riêng trong nhận định, đánh giá thời cuộc để hoạch định chiến lược,
sách lược trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong đó, vấn đề bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện một cách sinh động sự vận
dụng đó của Đảng ta.
Thực chất của sự vận dụng hệ thống các nguyên tắc cơ bản của phép
biện chứng duy vật trong đổi mới tư duy bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay của Đảng ta là sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản của
phép biện chứng duy vật (toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển) trong xem
xét, nhận thức và giải quyết vấn đề bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trên cơ sở đó, định ra đường lối, chiến lược, sách lược đúng đắn đối với
vấn đề bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đồng thời đấu tranh chống những quan
điểm rập khuôn, máy móc, phiến diện, duy ý chí trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn đối với vấn đề này.
Bảo vệ Tổ quốc luôn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhất là từ khi tiến hành công cuộc
đổi mới đến nay, Đảng ta không ngừng phát triển và hoàn chỉnh tư duy
chiến lược bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm toàn
diện, lịch sử - cụ thể, phát triển.
Về nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong một thời gian dài cho đến những năm cuối thập niên 80 của
thế kỷ XX, bảo vệ Tổ quốc vẫn chủ yếu gắn với nội dung bảo vệ chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bằng các phương thức đấu tranh quân sự - vũ


8

trang là chính. Trước thực trạng nhiều biến động của thời cuộc: “chiến

tranh lạnh” kết thức với sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu; xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa; thủ đoạn chống phá của thế lực
thù địch đối với cách mạng nước nhà có nhiều thay đổi; yêu cầu toàn diện
hơn về vấn đề Tổ quốc với tính cách là một chỉnh thể kết hợp chặc chẽ hai
yếu tố tự nhiên và xã hội…Vận dụng quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể,
phát triển trong xem xét thời cuộc, Đảng ta đã có sự đổi mới căn bản trong
tư duy bảo vệ Tổ quốc mang tính chất toàn diện hơn. Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã khẳng định:
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn
định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển mục
tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ nghĩa là: bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lónh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhõn dõn và
chế độ xó hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chớnh trị, trật tự, an toàn xó hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phỏ của cỏc thế lực thù
địch và sẵn sàng ứng phú với cỏc mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tớnh
toàn cầu, không để bị động bất ngờ trong mọi tỡnh huống.
Trước đây, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta thường chỳ trọng đến bảo
vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lónh thổ, chống lại sự xâm lược từ bờn ngoài. Tư
duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay gắn mục tiờu trờn với nhiệm vụ bảo
vệ Đảng, nhõn dõn và bảo vệ chế độ xó hội chủ nghĩa. Trong tỡnh hỡnh mới, nhằm
bảo đảm vững chắc an ninh sinh tồn và an ninh phỏt triển của Tổ quốc xó hội chủ
nghĩa, Đảng ta khẳng định, khụng chỉ bảo vệ độc lập dõn tộc, thống nhất đất nước và
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lónh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, mà cũn là bảo
vệ nhõn dõn, giữ gỡn và phỏt huy văn hóa dân tộc, bảo vệ thành quả cỏch mạng;



9

chống kẻ thù xâm lược từ bờn ngoài và bọn phản động bờn trong cấu kết với nhau;
“diễn biến hũa bỡnh” của chủ nghĩa đế quốc, chống “tự diễn biến” trong nội bộ ta.
Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm lược, giải phúng Tổ
quốc, tư duy chiến lược của chỳng ta về bảo vệ Tổ quốc thiờn về dựng vũ trang
chống lại sự tấn cụng từ bờn ngoài là chủ yếu. Ngày nay, trong điều kiện rất mới
của quốc tế và trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần
thiết để giữ vững hũa bỡnh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của cỏc thế
lực thù địch trong mọi tỡnh huống; mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc nhấn mạnh sức mạnh và cỏc biện phỏp phi vũ trang để giữ vững được độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lónh thổ, an ninh chớnh trị, trật tự an toàn xó hội mà
khụng phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh, phỏt
triển đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xó hội chủ nghĩa.
Với tư duy đó, nội dung bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta đó phản ảnh được bản
chất của thuật ngữ “Tổ quốc” và “Tổ quốc xó hội chủ nghĩa” một cách đúng đắn và
toàn diện nhất. Quan điểm trờn của Đảng ta đó nờu bật những vấn đề cốt lừi của
chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ nghĩa: là bảo vệ Tổ quốc xó hội
chủ nghĩa với tớnh cỏch một quốc gia cú chủ quyền, với một cộng đồng dõn tộc cú
nền văn hoá lâu đời được quốc tế cụng nhận, là thành viờn của Liờn hợp quốc và
nhiều tổ chức quốc tế khỏc; là bảo vệ Tổ quốc xó hội chủ nghĩa với tớnh cỏch một
quan hệ chớnh trị, một thể chế chớnh trị - xó hội - xó hội chủ nghĩa được Bỏc Hồ
và toàn dõn lựa chọn, và là một xó hội phự hợp sự phỏt triển khỏch quan của tiến
trỡnh lịch sử; là bảo vệ Tổ quốc xó hội chủ nghĩa với tớnh cỏch một quốc gia đang
trong thời kỳ quá độ lờn chủ nghĩa xó hội, đang chuyển đổi và đang chủ động, tớch
cực hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ớch quốc gia, giữ vững độc lập dõn tộc.
Nội dung bảo vệ Tổ quốc là toàn diện, song khụng cú sự cào bằng, bỡnh
quõn, cũng khụng cú sự tuyệt đối hóa đối với nội dung nào. Tùy trong điều kiện
lịch sử cụ thể, Đảng ta xác định nội dung trọng tâm cho từng giai đạo cách mạng,
và nó đặt trong một chỉnh thể thống nhất các nội dung. Thực tế, trong tỡnh hỡnh

hiện nay, xuất phỏt từ đánh giá tổng hợp vai trũ của Đảng, Nhà nước và nhân dân,


10

quán triệt quan điểm quyền dân tộc tự quyết của chủ nghĩa Mác – Lê nin, cũng như
thực tiễn Liên Xô, Đông Âu và Việt Nam, Đảng ta xác định Bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xó hội chủ nghĩa là nội quan trọng nhất, mang tính cấp
thiết hiện nay. Đảng ta từng khẳng định: “Nếu dao động, mơ hồ, hạ thấp hoặc
buông lỏng sự lónh đạo của Đảng thỡ đất nước đị chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xó
hội; và khi Đảng mất vai trũ lónh đạo thỡ chủ nghĩa xó hội khụng cũn, đất nước
ngó sang con đường tư bản chủ nghĩa” 3.
Quan niệm trờn là một bước tiến mới phản ảnh sự phỏt triển trong tư duy lý
luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tỡnh hỡnh mới, khụng chỉ là sự tổng kết
thực tiễn quỏ khứ mà cũn là dự bỏo chớnh xỏc những vấn đề của tương lai trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Về trỏch nhiệm của cỏc lực lượng trong bảo vệ Tổ quốc, đó là là sự nghiệp
của Đảng, Nhà nước và toàn dân, toàn quõn ta.
Trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn luôn có quan điểm đúng đắn
về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xó hội, chỳng ta khụng một chỳt lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Tuy
nhiên, trong thời gian dài cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, bảo
vệ Tổ quốc vẫn chủ yếu gắn với nội dung bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lónh thổ quốc
gia và bằng cỏc phương thức đấu tranh quõn sự- vũ trang là chớnh. Do đó, trong
xó hội dần hỡnh thành nhận thức: lực lượng vũ trang mà trực tiếp là quân đội - Bộ
Quốc phũng là chủ thể bảo vệ Tổ quốc.
Với quan điểm toàn diện về nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ
nghĩa, cỏch nhỡn biện chứng và phỏt triển về vị trớ vai trũ của cỏc lực lượng trong
hệ thống chớnh trị xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng ta đó cú một bước
tiến mới trong xác định trỏch nhiệm của cỏc lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ

bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và Văn kiện Đại hội
X, XI, Đảng ta đó khẳng định: Tăng cường quốc phũng, giữ vững an ninh quốc gia
và toàn vẹn lónh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và


11

của toàn dân. Văn kiện Đại hội XI Đảng ta đó khẳng định: “Sức mạnh của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tỡnh hỡnh mới chớnh là sức mạnh tổng hợp. Trong
đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch
đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định”.
Luận điểm trên đó chỉ rừ vai trũ chủ thể trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc với
cơ chế: Đảng lónh đạo, Nhà nước quản lý, nhõn dõn làm chủ; bảo vệ Tổ quốc là sử
dụng sức mạnh tổng hợp của đất nước, là kết quả của việc phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mọi nguồn lực của nhân dân. Tuy nhiờn, vai trũ
cỏc lực lượng không ngang bằng nhau, trong đó quân đội nhân dân và công an
nhân dân là lực lượng nũng cốt, chủ yếu. Đú là nhận thức mới, toàn diện, lịch sử cụ thể và phỏt triển hơn về cơ chế bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ nghĩa
trong thời kỳ mới, trong những thập niờn đầu của thế kỷ XXI.
Về xác định đối tượng và đối tỏc.
Đảng ta đó cú cỏch nhỡn nhận rất mới, cú tư duy đúng về đối tượng và đối
tác trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thể hiện cách nhỡn
nhận, xem xột, đánh giá biện chứng các yếu tố trong một chủ thể gắn kết chặc chẽ
với điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là kết quả sự quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng
tạo quan điển toàn diện, lịch sử - cụ thể trong chủ trương đối ngoại là vừa giữ vững
nguyên tắc, vừa linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược. Đảng ta cho rằng, những ai có
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, muốn mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp
tỏc, bỡnh đẳng, cùng có lợi với Việt Nam chúng ta đều được coi là đối tác; cũn bất
kỳ thế lực nào cú õm mưu và hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc ta đều là đối tượng phải đấu tranh. Thống nhất về nhận thức vấn đề này,
chúng ta mới có thể phấn đấu tranh thủ mọi điều kiện và thời cơ thuận lợi, mở rộng

quan hệ đối tác phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định
hướng xó hội chủ nghĩa, mặt khỏc khắc phục khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong tỡnh hỡnh rất phức tạp hiện nay.


12

Về mối quan hệ giữa xõy dựng chủ nghĩa xó hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xó hội chủ nghĩa.
Trong tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta, vấn đề này được giải
quyết một cách biện chứng, phản ảnh mối quan hệ qua lại giữa hai nhiệm vụ. Đó là
sự nhận thức sâu sắc quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước - quy luật tồn tại và
phát triển của dân tộc ta trong lịch sử và càng rừ nột trong giai đoạn cách mạng
hiện nay. Trong quỏ trỡnh lónh đạo cách mạng xó hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng
ta về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không ngừng được phát triển.
Ngày nay, tư duy ấy được nâng lên tầm cao mới: xây dựng và bảo vệ hoà quyện
với nhau, làm điều kiện cho nhau. Xây dựng đất nước giàu mạnh theo con đường
xó hội chủ nghĩa tạo ra khả năng bảo vệ tốt nhất. Bởi lẽ, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc
là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xó hội, văn hoá, quốc phũng,
an ninh, đối ngoại, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của hệ thống
chính trị do Đảng ta lónh đạo. Sức mạnh tổng hợp đó chỉ có được và ngày càng
nhân lên thông qua công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xó hội chủ
nghĩa. Trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và Văn kiện Đại hội X, XI Đảng ta
đó khẳng định kết hợp phát triển kinh tế - xó hội với quốc phũng và an ninh là một
nội dung của đường lối kinh tế, là một trong năm quan điểm phát triển kinh tế - xó
hội và là một trong những nguồn lực của sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xó hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội X của Đảng lại nhấn mạnh: “kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phũng, an ninh; quốc phũng, an ninh với kinh tế trong
từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội;chỳ trọng vựng
sõu, vựng xa, biờn giới, hải đảo.” 4

Ngày nay, bảo vệ Tổ quốc đó trở thành cụng việc thường xuyên và gắn liền
với xây dựng. Mối quan hệ đó chặt chẽ đến mức trở thành một chỉnh thể thống
nhất, là hai mặt của một quá trỡnh đổi mới vỡ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội.
Bảo vệ trở thành tự bảo vệ trong quỏ trỡnh xõy dựng; những người xây dựng đất
nước phải tự nhận thức, có ý chớ, kiến thức và kỹ năng bảo vệ công cuộc xây
dựng, bảo vệ các bộ phận cấu thành của Tổ quốc và chế độ xó hội chủ nghĩa.


13

Những thành tựu cách mạng nước ta mấy chục năm qua cũng như những
thành công to lớn của công cuộc đổi mới những năm gần đây dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh rằng cách mạng nước ta đang đi
đúng quy luật của sự phát triển, tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc là
đúng đắn. Khẳng định sự vận dụng các nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng
duy vật của Đảng ta trong xem xét, đánh giá vấn đề bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay là khoa học và hợp quy luật.
Mỗi cán bộ trong lực lượng vũ trang nhân dân cần quán triệt, nhận thức
đúng vai trò của hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép
biện chứng duy vật, vận dụng vào nhận thức các hiện tượng quân sự, quốc
phòng và bảo vệ Tổ quốc. Để trên cơ sở đó có hành động đúng đắn trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong hoạt động thực tiễn quân sự. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng, vì nó cho phép chúng ta luôn nắm chắc tình hình mọi mặt, luôn
luôn làm chủ tình hình trước mọi diễn biến, dù phức tạp khó khăn đến đâu. Hệ
thống các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy
vật cũng đòi hỏi chúng ta phải chống cả hai khuynh hướng “tả” và “hữu” trong
nhận thức và trong thực tiễn quân sự. Thói quen cứng nhắc, bảo thủ trì trệ, chủ
nghĩa kinh nghiệm cực đoan và sự nôn nóng chủ quan, đổi mới không có
nguyên tắc, lầm lẫn cái mới tất yếu với những cái gọi là mới… đều nguy hiểm
như nhau và đều là lực cản trong quá trình xây dựng và phát triển của lực lượng

vũ trang.

Chú thích:
1. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 18, tr. 209-210
2. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, t. 29, tr. 78


14

3. Báo cáo tổng kết xd Đảng TK 1975-1995, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 161
4. Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr. 234



×