Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Phân tích môi trường đầu tư chứng khoán việt nam hiện nay nhằm thu hút nguồn vốn FPI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.04 KB, 39 trang )

Trường Đại học Ngoại thương
Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế


TIỂU LUẬN
ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Đề tài: “Phân tích môi trường đầu tư chứng khoán

Việt Nam hiện nay nhằm thu hút nguồn vốn FPI”
Lớp
Nhóm
GV hướng dẫn
Thành viên

:
:
:
:

DTU308(1/1-1415).1_LT
7
PGS. TS. Vũ Thị Kim Oanh
Nguyễn Vũ Hải Yến (0165.277.6419)
Trần Hải Đăng (0979.999.005)
Vũ Đức Dũng
Đinh Thị Hạnh
Nguyễn Thị Thu Huyền
Phùng Mạnh Linh
Nguyễn Thị Nhung

Hà Nội, Tháng 12, Năm 2014




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................................5
1.1 Đầu tư chứng khoán nước ngoài FPI ......................................................................5
1.1.1 Khái niệm ...........................................................................................................5
1.1.2 Các hình thức đầu tư chứng khoán nước ngoài .................................................5
1.1.3 Các giai đoạn phát triển của đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam ....5
1.2 Môi trường đầu tư chứng khoán ..............................................................................7
1.2.1 Khái niệm ...........................................................................................................7
1.2.2 Các yếu tố cấu thành nên môi trường đầu tư chứng khoán của một quốc gia ..7
1.3 Mô hình phân tích SWOT .......................................................................................8
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM ..............................................................................................10
2.1 Điểm mạnh của môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam .........10
2.1.1 Tỷ lệ lạm phát giảm ..........................................................................................10
2.1.2 Lãi suất có xu hướng hạ ...................................................................................11
2.1.3 Tỷ giá hối đoái ổn định ....................................................................................12
2.1.4 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ..............................................................13
2.1.5 Các điểm mạnh khác (chính trị, tăng trưởng, dân số…) .................................14
2.2 Điểm yếu của môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam ............16
2.2.1 Luật Đầu tư còn nhiều hạn chế ........................................................................16
2.2.2 Thị trường chứng khoán còn tiềm ẩn nhiều rủi ro ...........................................18
2.2.3 Sự can thiệp của bàn tay nhà nước ..................................................................19
2.2.4 Thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé .........................................20
2.3 Cơ hội đối với môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam ...........21
2.3.1 Xu hướng chuyển dịch của dòng vốn đầu tư gián tiếp .....................................21
2.3.2 Khả năng tăng trưởng của khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng 21
2.3.3 Việt Nam nâng hạng mức tín nhiệm trên thế giới ............................................23

2.3.4 Niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam...............23
1


2.4 Thách thức đối với môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam ....24
2.4.1 Tình trạng tham nhũng, tham ô ở mức cao ......................................................24
2.4.2 Quy mô nguồn vốn FPI tăng trưởng quá nhanh ..............................................25
2.4.3 Xuất hiện các hình thức nghiệp vụ đầu tư mới ................................................25
2.4.4 Cạnh tranh bình đẳng với các nhà đầu tư quốc tế ...........................................26
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ.................................................28
3.1 Giải pháp khắc phục điểm yếu ..............................................................................28
3.1.1 Đối với những bất cập trong luật .....................................................................28
3.1.2 Đối với rủi ro trên thị trường chứng khoán .....................................................29
3.1.3 Sự can thiệp của bàn tay nhà nước ..................................................................30
3.1.4 Thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé .........................................30
3.2 Giải pháp hạn chế thách thức ................................................................................31
3.2.1 Tình trạng tham nhũng, tham ô ........................................................................31
3.2.2 Quy mô nguồn vốn FPI tăng trưởng quá nhanh ..............................................32
3.2.3 Xuất hiện các hình thức nghiệp vụ đầu tư mới ................................................33
3.2.4 Cạnh tranh bình đẳng với các nhà đầu tư quốc tế ...........................................35
KẾT LUẬN ...................................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................37
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC .............................................................................38

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn đầu tư
gián tiếp (FPI). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất thì FPI

lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả
hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch, tạo điều kiện cho Doanh nghiệp
trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới, nâng cao vai trò quản lý nhà nước và
chất lượng quản lí doanh nghiệp, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh
tế. FPI đã hình thành và phát triển từ lâu ở Mỹ và các nước châu Âu, nơi có thị trường
tài chính phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, loại hình này đã mở ra cho các doanh
nghiệp cách thức tiếp cận với các nguồn vốn mới bên cạnh các nguồn vốn truyền thống,
góp phần vào việc thúc đẩy một xu thế mới.
Với dấu mốc quan trọng là sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài (1987), Việt Nam
đã bắt đầu quá trình mở cửa hội nhập, và tiếp nhận dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
như một yếu tố bổ sung quan trọng cho sự thiếu hụt vốn đầu tư trong nước. Kể từ đó,
dòng vốn FDI vào Việt Nam tăng lên đáng kể cả về chất và lượng. Tuy nhiên, khác với
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) (là
hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu
tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư) mà cụ thể là đầu tư chứng khoán gián tiếp
nước ngoài chỉ thực sự thể hiện được vai trò và tầm quan trọng của mình kể từ năm
2006, khi mà nền kinh tế nước ta thực sự mở cửa, thị trường tài chính bắt đầu phát triển
theo hướng quốc tế hóa và hội nhập với thị trường tài chính thế giới.
Chúng ta thấy rằng, trong quá trình đầu tư để tạo sự tăng trưởng và phát triển thì
vốn là yếu tố có tính tiền đề và không thề thiếu được. Song thị trường vốn thế giới đang
ở trạng thái quốc tế hoá mạnh mẽ, do đó gây không ít trở ngại cho Việt Nam nhất là về
khả năng cạnh tranh. Trong khi đó thị trường chứng khoán và các chính sách thu hút,
quản lý vốn của Việt Nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết và bất cập. Thực trạng của vấn
đề này tuy chỉ mới được thể hiện rất sơ lược trong đề tài nhưng đã cho thấy sự yếu kém
của Việt Nam trong việc “kéo” các nguồn vốn nước ngoài vào đầu tư trong nước thông
qua thị trường chứng khoán . Tuy nhiên, Việt Nam không thể đứng ngoài vòng hội nhập
– hội nhập để tận dụng những ưu thế của thế giới, tận dụng nguồn vốn, tránh xa tụt hậu,
chứ không thể xuôi theo kiểu lý luận “người yếu thì không nên ra gió”. Nhưng để có thể
ra gió mà không ngã bệnh và vẫn hoạt động tốt thì Việt Nam phải nhanh chóng có những

điều chỉnh hợp lý và các chính sách cụ thể cho thị trường chứng khoán . Nhận thức được
vấn đề này, tiểu luận đã tập trung nghiên cứu và phát triển hệ thống lý luận về vốn đầu
tư nước ngoài, thị trường chứng khoán và kinh nghiệm của các nước để đề ra những giải
pháp hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán, nâng cao hiệu quả thu hút và quản
lý vốn nước ngoài, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế nước nhà.
3


Chính bởi những lý do trên mà nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài “Phân
tích môi trường đầu tư chứng khoán Việt Nam hiện nay nhằm thu hút nguồn vốn
FPI” để không chỉ làm rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư này, mà còn nêu
lên thực trạng, điểm mạnh, điểm yếu cũng như những cơ hội, thách thức đối với nước
ta trước nguồn vốn đầu tư đầy tiềm năng này. Qua những nghiên cứu phân tích đó, nhóm
chúng em cũng xin đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình đầu tư chứng khoán
gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên do khả năng cũng như các công cụ nghiên
cứu còn có nhiều hạn chế nên nhóm chúng em rất mong có được sự góp ý chỉnh sửa từ
phía thầy cô cũng như các bạn để có thể hoàn hiện bài nghiên cứu hơn.
Cụ thể, nội dung chính của bài tiểu luận gồm các phần như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Phân tích môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị

4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Đầu tư chứng khoán nước ngoài FPI
1.1.1 Khái niệm
Khoản 3 điều 3 Luật đầu tư quy định “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông
qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và

thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham
gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Như vậy, theo đó, đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment, hay
thường được viết tắt là FPI) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các
hoạt động mua tài sản tài chính của nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này
không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy, trong hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhà
đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp phát hành chứng khoán hoặc các
hoạt động quản lý nói chung của cơ quan phát hành chứng khoán. Theo đó, nhà đầu tư
đầu tư nhưng không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công nghệ, đào tạo
lao động và kinh nghiệm quản lý. Một cách đơn giản hơn, FPI là đầu tư tài chính thuần
túy trên thị trường tài chính.
1.1.2 Các hình thức đầu tư chứng khoán nước ngoài
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào cổ phiếu:
Là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cách mua cổ phiếu
của các công ty, các tổ chức phát hành của một nước khác ở mức khống chế nhất định
để thu lợi nhuận mà các chủ đầu tư không nắm quyền kiểm soát trực tiếp đối với tổ chức
phát hành cổ phiếu.
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào trái phiếu:
Là hình thức nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tiền tệ ra mua trái phiếu kiếm lời, bao
gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình và trái phiếu công ty. Trái phiếu là một
loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho
người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong
những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi đáo hạn.
1.1.3 Các giai đoạn phát triển của đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam
- Giai đoạn 1 (1988-1997)
Là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn FPI vào Việt Nam. Trong giai đoạn này, Việt
Nam có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng
400 triệu USD.


5


- Giai đoạn 2 (1998-2002)
Đây là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. 5 Quỹ
đầu tư nước ngoài rút khỏi Việt Nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ, chỉ còn duy
nhất Quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund được thành lập 7/1995 với quy mô vốn
35 triệu USD, nhỏ nhất trong số 7 quỹ.
- Giai đoạn 3 (2003-2006)
Là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào Việt Nam. Thành lập sàn giao
dịch chứng khoán ở TP Hồ Chí Minh 7/2000 và TTGDCK Hà Nội 3/2005, nới lỏng tỷ
lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài (từ 30% lên 49%).
- Giai đoạn 4 (2007 đến nay)
Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu bước ngoặt
lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các dòng vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào Việt Nam tăng đột biến, đặc biệt là FDI, nguồn vốn FPI có sự biến động
mạnh. Theo đánh giá các chỉ số chứng khoán chính trên thế giới của trang web
indexq.org, chỉ số chứng khoán của Việt Nam tăng 34,67% và nằm trong nhóm những
chỉ số tăng mạnh nhất trên thế giới trong 6 tháng đầu năm 2009. Năm 2010 do chịu tác
động từ những bất ổn vĩ mô và khó khăn của nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến dòng tiền
vào thị trường chứng khoán sụt giảm. Giai đoạn 2011 Thị trường chứng khoán (TTCK)
vừa trải qua một năm đầy khó khăn. Vốn huy động qua phát hành TPCP và Chính phủ
bảo lãnh đạt 81,5 nghìn tỷ đồng nhưng tổng giá trị vốn huy động qua phát hành cổ phiếu,
đấu giá cổ phần hóa chỉ đạt khoảng 17,5 nghìn tỷ đồng, giảm 78% so với năm 2010. Năm
2014, Cùng với việc Fitch nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên một bậc (từ
B+ lên BB-) và Moody (từ B2 lên B1) Bộ Tài chính đã phát hành thành công trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn 10 năm ra thị trường vốn quốc tế với tổng khối lượng 1 tỷ Đô la Mỹ
theo hình thức 144A/Quy chế S, đạt mức lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp hơn mức dự
kiến là 5,125%/năm, đây là mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành từ trước đến
nay (lần lượt là 6,875%/năm và 6,755/năm đối với trái phiếu phát hành năm 2005 và

2010).
Như vậy trong thời gian gần đây đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam có
nhiều biến động. Cùng với việc thăng hạng mức tín nhiệm và sự thành công của Bộ Tài
chính trong việc phát hành 1 tỷ đô la trái phiếu chính phủ, Việt Nam đang hứa hẹn là
một thị trường vô cùng tiềm năng cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư quốc tế.
Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào giai đoạn 4, cụ thể là thời kì từ 2012 – 2014,
khi nền kinh tế nước ta đang dần phục hồi sau khủng khoảng và đẩy mạnh thu hút vốn
đầu tư. Những số liệu từ 2012 trở về trước sẽ được sử dụng và trích dẫn như căn cứ để
đánh giá tình hình hiện tại và dự báo cho tương lai.

6


1.2 Môi trường đầu tư chứng khoán
1.2.1 Khái niệm
Theo định nghĩa thì “Môi trường đầu tư” là tổng hòa các yếu tố bên ngoài liên quan
đến hoạt động đầu tư như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, tài chính, cơ sở
hạ tầng, năng lực thị trường, lợi thế của một quốc gia có tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động của nhà đầu tư.
Như vậy, môi trường đầu tư chứng khoán của một quốc gia bao gồm những yếu tố
bên ngoài như chính trị, kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng, năng lực thị trường hay lợi thế
của quốc gia đang xem xét ảnh hưởng đến những quyết định đầu tư của các nhà đầu tư,
mà ở đây chúng ta đang xem xét đối tượng là các nhà đầu tư quốc tế thông qua nguồn
vốn FPI.
1.2.2 Các yếu tố cấu thành nên môi trường đầu tư chứng khoán của một quốc gia
Các yếu tố cấu thành nên môi trường đầu tư chứng khoán bao gồm 3 nhóm yếu tố
cơ bản sau:
- Khung chính sách về đầu tư chứng khoán
Khung chính sách bao gồm hệ thống các quy định hành chính, luật pháp và chiến
lược của nhà nước để trên cơ sở đó chính phủ, các cơ quan thuộc chính phủ quản lý các

hoạt động trên thị trường chứng khoán nhằm đạt được mục tiêu xây dựng môi trường
đầu tư lành mạnh, hấp dẫn, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thu hút nguồn vốn đầu
tư FPI trên thế giới.
Điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu tư vào một quốc gia
là khung chính sách bởi vì khung chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh
lời của vốn đầu tư, dưới các khía cạnh khác nhau như:
+ Tốc độ tăng trưởng của thị trường.
+ Tỷ lệ nắm giữ tối đa cổ phiếu của một doanh nghiệp niêm yết đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
+ Hệ thống kiểm toán kế toán đối với các doanh nghiệp, tính minh bạch của thông
tin, luật công bố thông tin…
- Các yếu tố kinh tế
Nhóm các yếu tố kinh tế là tổng thể các nhân tố hữu hình và vô hình, có sẵn và tạo
ra cấu thành của một thị trường chứng khoán và cũng đánh giá “tầm vóc” của thị trường
chứng khoán của quốc gia đó. Yếu tố kinh tế là mục tiêu nghiên cứu, là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ nhà đầu tư nào.

7


Với mục tiêu là tạo ra lợi nhuận tối thượng cho nhà đầu tư, các yếu tố sau đây cần
được quan tâm tìm hiểu:
+ Sự đa dạng hóa các công cụ, các sản phẩm đầu tư trên thị trường chứng khoán.
+ Cơ sở vật chất, hệ thống thông tin của các sàn chứng khoán phục vụ nhà đầu tư.
+ Số lượng các mã cổ phiếu, giá trị các doanh nghiệp niêm yết.
- Yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư FPI
Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư FPI là các biện pháp mà
chính phủ hỗ trợ cho hoạt động đầu tư FPI của các nhà đầu tư quốc tế gồm:
+ Hoạt động xúc tiến đầu tư: quảng bá ra bên ngoài hình ảnh, chính sách, lợi thế,
tiềm năng của nước nhận đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn FPI; dịch vụ tư vấn, phổ biến,

hướng dẫn các bước khác nhau của quá trình mở tài khoản, tiến hành giao dịch…
+ Các biện pháp khuyến khích đầu tư: các hình thức hỗ trợ tài chính như tín dụng
trợ cấp, đồn bẩy tài chính…
+ Các biện pháp làm giảm tiêu cực phí: minh bạch và đơn giản thủ tục hành chính,
tăng hiệu quả công tác quản lý, giảm và loại trừ tham nhũng…
1.3 Mô hình phân tích SWOT
Mô hình phân tích SWOT được Albert Humphrey phát triển vào những năm 19601970. Đây là kết quả của một dự án nghiên cứu do đại học Standford, Mỹ thực hiện. Dự
án này sử dụng dữ liệu từ 500 công ty có doanh thu lớn nhất nước Mỹ (Fortune 500)
nhằm tìm ra nguyên nhân thất bại trong việc lập kế hoạch của các doanh nghiệp này.
Albert cùng các cộng sự của mình ban đầu đã cho ra mô hình phân tích có tên gọi SOFT:
Thỏa mãn (Satisfactory) - Điều tốt trong hiện tại, Cơ hội (Opportunity) – Điều tốt trong
tương lai, Lỗi (Fault) – Điều xấu trong hiện tại; Nguy cơ (Threat) – Điều xấu trong tương
lai. Tuy nhiên, cho đến năm 1964, sau khi mô hình này được giới thiệu cho Urick vàd
Orr tại Zurich Thuỵ Sĩ, họ đã đổi F (Fault) thành W (Weakness) và SWOT ra đời từ đó.
Mô hình SWOT là một công cụ hữu dụng nhằm hiểu rõ Điểm mạnh (Strengths),
Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities), Nguy cơ (Threats). Cụ thể như sau:
-

Điểm mạnh chỉ những yếu tố phát sinh từ nội bộ mang tính tích cực, cần phải
được duy trì, sử dụng làm nền tảng và đòn bẩy;

-

Điểm yếu chỉ những yếu tố phát sinh từ nội bộ mang tính tiêu cực, cần được
sửa chữa, thay đổi hoặc chấm dứt;

-

Cơ hội chỉ những yếu tố có lợi tới từ môi trường xung quanh, cần được tận
dụng, ưu tiên, nắm bắt kịp thời, xây dựng và phát triển trên những cơ hội này;

8


-

Nguy cơ chỉ những yếu tố gây hại tới từ môi trường xung quanh, cần đưa vào
kế hoạch nhằm đề ra phương án phòng bị, giải quyết và quản lí.

Ngày nay, SWOT được sử dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực như: tài chính,
kinh doanh, marketing,… Bài phân tích này cũng sẽ ứng dụng mô hình SWOT ở khía
cạnh vĩ mô, dựa trên những số liệu thực tế, để nhìn nhận và đánh giá môi trường đầu tư
chứng khoán nước ngoài của Việt Nam. Những điểm mạnh và điểm yếu được đề cập là
những yếu tố tích cực/tiêu cực mà nhà đầu tư khi vào thị trường Việt Nam sẽ gặp phải.
Trong khi đó, những thuận lợi và khó khăn lại là những yếu tố có lợi/có hại mà chính
nước ta đang phải đối mặt – tận dụng hoặc giải quyết - nhằm thu hút nguồn vốn trong
môi trường đầy cạnh tranh.

9


CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1 Điểm mạnh của môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam
Từ năm 2006 đến nay, thế giới đã trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế của nhiều quốc gia, không ngoại trừ Việt Nam. Mặc dù về
mức độ ảnh hưởng, Việt Nam nằm trong nhóm nước chịu ảnh hưởng nhỏ nhất của cuộc
khủng hoảng tài chính này, nhưng nó cũng đã mang lại nhiều hậu quả nặng nề, đặc biệt
trong giai đoạn 2008 – 2011. Từ năm 2012, Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn
hậu khủng hoảng, tái thiết nền kinh tế và thực sự đạt được nhiều thành tích đáng kể. Sau
nhiều thất bại trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá trong các năm trước thì đến

ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp
chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nền
kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển biến lạc quan. Chính phủ chủ trương chuyển từ
mục tiêu chú trọng tăng trưởng kinh tế sang mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và cho đến
nay mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được coi trọng hàng đầu dù Việt Nam đang trên
đà phục hồi sau khủng hoảng.
2.1.1 Tỷ lệ lạm phát giảm
Để kiểm soát lạm phát, Chính phủ đã thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa thắt chặt. Về chính sách tiền tệ, chính phủ yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng
trưởng tín dụng, kiểm soát dòng vốn: ưu tiên vốn vay cho khu vực sản xuất, nông nghiệp,
xuất khẩu và hạn chế cho vay khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng
khoán. Bên cạnh đó là điều hành chủ động, linh hoạt công cụ lãi suất và lượng cung tiền,
tăng cường quản lý ngoại hối bằng can thiệp kỹ thuật và các mệnh lệnh hành chính;
kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ. Về chính sách tài khóa, chính
phủ chủ trương giảm chi tiêu công, tiết kiệm trong chi ngân sách nhà nước ở tất cả các
cấp, tập trung vào các dự án trọng điểm, rà soát và chủ động ngừng cũng như loại bỏ
các dự án ít quan trọng, gây ứ đọng vốn nhà nước. Cùng với đó là việc tăng cường rà
soát, thu hồi các khoản thuế nộp chậm, tích cực kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai
thuế, thu thuế. Việc phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đã đem lại các
kết quả khả quan.

10


(Nguồn: World Bank)
Nhờ những hành động quyết liệt của chính phủ cùng với ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế tác động lên đời sống người dân, lạm phát đã giảm mạnh từ năm 2012 và
đến năm 2013 là 6,6%, năm 2014 theo dự tính là khoảng 5%. Cùng với việc tỷ lệ lạm
phát giảm, các cam kết cùng với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ Việt Nam
sẽ làm củng cố niềm tin của doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

2.1.2 Lãi suất có xu hướng hạ
So với thế giới, lãi suất ở Việt Nam khá cao. Điều này có thể hiểu do lạm phát
trong nước cao trong các năm trước. Tuy nhiên, sau khi bong bóng bất động sản vỡ cùng
với một loạt động thái của chính phủ nhằm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý nợ
xấu, lãi suất đang có xu hướng giảm dần.

11


(Nguồn: World Bank)
Đỉnh điểm của cuộc chạy đua lãi suất là vào năm 2011 khi thị trường bất động sản
đang sốt ảo, lãi suất cho vay trung bình năm 2011 là 17%. Đây thực sự là một con số
quá cao. Tuy nhiên, sau hàng loạt sự can thiệp mang tính mệnh lệnh hành chính của
ngân hàng nhà nước thì lãi suất cho vay đã hạ, đến năm 2013 trung bình ở mức 10,37%.
Vừa qua, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất huy động xuống còn 5%, hứa hẹn lãi suất
cho vay sẽ tiếp tục giảm. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng. Với việc giảm lãi suất,
doanh nghiệp sẽ có khả năng vay vốn với chi phí thấp hơn, tạo lợi nhuận và cứu những
doanh nghiệp đang cần vay nhưng vì lãi suất cao nên không có khả năng vay. Mặt khác,
dòng tiền trong dân thay vì chảy vào ngân hàng do lãi suất huy động cao giờ đây có thể
chảy trực tiếp vào các lĩnh vực đầu tư như chứng khoán. Điều này tác động tích cực đến
cả nhà đầu tư và thị trường tài chính.
2.1.3 Tỷ giá hối đoái ổn định
Để ổn định tỷ giá hối đoái, chính phủ ban hành các mệnh lệnh hành chính kiểm
soát việc buôn bán USD, yêu cầu các doanh nghiệp phải bán USD cho ngân hàng và chỉ
mua khi có nhu cầu hợp lý nhằm điều chỉnh cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó là các chính
sách nhằm kiểm soát nhập siêu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu
nhằm mục đích tăng dự trữ ngoại hối, đảm bảo điều tiết tốt tỷ giá hối đoái.

12



(Nguồn: usforex.com)
Kể từ năm 2012, tỷ giá hối đoái Việt Nam – USD đã có xu hướng ổn định, có một
thời gian dài giữ vững ở mức 21.100 VND/USD. Trên đồ thị cho thấy tỷ giá hối đoái
của Việt Nam giai đoạn 2012 đến nay khá ổn định, gần như nằm trên một đường thẳng,
cho thấy chính sách ổn định tỷ giá của ngân hàng nhà nước đã thành công. Theo số liệu
thống đốc Nguyễn Văn Bình công bố, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện nay đã là hơn
35 tỷ USD (28/04/2014) tăng vọt so với cuối năm 2012 là 23 tỷ USD. Cùng với việc cải
thiện cán cân thương mại do sự gia tăng giá trị xuất khẩu đến từ các doanh nghiệp FDI
và các doanh nghiệp trong nước (năm 2014 các doanh nghiệp trong nước ước tính tăng
18% giá trị xuất khẩu so với năm trước), các nhà đầu tư hoàn toàn có thể tin tưởng vào
khả năng ổn định tỷ giá của ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay.
2.1.4 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Theo nhiều chuyên gia kinh tế, trên thế giới, không có một nền kinh tế thị trường
nào mà DNNN chiếm một tỷ lệ lớn như Việt Nam. Tại Việt Nam, số lượng DNNN đang
chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế quốc dân, khoảng 28% GDP. Quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1990. Thống kê cho thấy, sau
hơn 20 năm đổi mới, sắp xếp lại hệ thống DNNN, số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
giảm từ 12.000 DN xuống còn 5.655 DN vào năm 2000, đến năm 2013 còn 1.309 DN,
đa phần có quy mô vừa và lớn. Mục tiêu của chính phủ giai đoạn 2014 – 2015 tiến hành
cổ phần hóa 432 DN. Mặc dù thực tế cho thấy DNNN từ trước đến nay kinh doanh
không hiệu quả, chỉ số ICOR cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp nhưng điều này
phần nhiều do trình độ quản trị không hiệu quả cùng cơ chế xin cho làm trì trệ hoạt động
của doanh nghiệp. Thực tế cũng cho thấy, sau cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất của doanh
13


nghiệp tăng cao, đóng góp một phần không nhỏ vào thuế cho nhà nước. Qua đó, ta có
thể nhận ra tiềm năng lớn khi đầu tư vào các doanh nghiệp này bởi chúng có kinh nghiệm
kinh doanh, nhân lực có kinh nghiệm hoạt động trong thời gian dài, sau cổ phần hóa có

thêm vốn nâng cao năng lực của doanh nghiệp và có khả năng cải thiện tốt hơn năng lực
quản trị trong doanh nghiệp.
2.1.5 Các điểm mạnh khác (chính trị, tăng trưởng, dân số…)
Cuộc khủng hoảng tài chính 2007 đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của các
nước trên thế giới. Giai đoạn này là thời kỳ phục hồi kinh tế mà đầu tàu chính là các
nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Trong khi các nước phương Tây có tăng
trưởng rất chậm (GDP 1 – 2%/năm), có quốc gia còn tăng trưởng âm, châu Phi vẫn là
khu vực kinh tế kém phát triển nay lại chịu ảnh hưởng của khủng hoảng và dịch Ebola
nên kinh tế đang thụt lùi thì chính khu vực Đông Nam Á với tốc độ tăng trưởng GDP
trong và sau khủng hoảng vẫn giữ ở mức 6 – 7%/năm được cho là đầu tàu kéo nền kinh
tế thế giới đi lên.
So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có rất nhiều lợi thế cho
phát triển kinh tế đáng để các nhà đầu tư lưu tâm.
Chính trị xã hội ổn định:
Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một trong số các quốc gia có tình hình
chính trị xã hội ổn định. Thái Lan liên tiếp có các cuộc biểu tình, đảo chính; Myanma
sau khi trải qua cuộc nội chiến đến nay mới tạm ổn định; Indonesia dù là nền kinh tế lớn
nhưng luôn có nguy cơ xung đột tôn giáo, lãnh thổ phân cách về mặt địa lý (quốc gia
vạn đảo) cũng là trở ngại lớn cho việc kiểm soát chính trị xã hội; Philippines về mặt
chính trị ổn định nhưng thường xuyên phải hứng chịu thiên tai, bão lũ ảnh hưởng lớn
đến đời sống nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế ổn định:
STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9

Quốc gia
Việt Nam
Lào
Campuchia
Thái Lan
Philippines
Indonesia
Singapore
Brunei
Malaysia

2009
5,397898
7,501775
0,086697
-2,32985
1,14833
4,628872
-0,60339
-1,76454
-1,51368

2010
6,423238
8,526906
5,963079
7,810512

7,632264
6,223854
15,24038
2,598966
7,425006

2011
6,240303
8,038653
7,06957
0,077087
3,638681
6,485633
6,056872
3,429818
5,127731

2012
5,247367
8,197312
7,313346
7,667174
6,814541
6,263671
2,503729
0,948355
5,639832

2013
5,422049

8,146251
7,45967
1,766354
7,162874
5,781224
3,851064
1,751961
4,687612

Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm (%) của 9 nước Đông Nam Á
(Nguồn: World Bank)
14


Biểu đồ: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm (%) của 9 nước Đông Nam Á
(Nguồn: World Bank)
Từ đồ thị có thể thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam, Indonexia, Lào khá ổn định
trong khi đó các nước khác có tăng trưởng GDP biến động lớn. Tốc độ tăng trưởng ổn
định là một trong những yếu tố giúp các nhà đầu tư tránh rủi ro về tài chính.
Dân số cũng là một yếu tố có lợi cho việc phát triển kinh tế cho dù ngày nay biên
giới giữa các quốc gia chỉ còn ý nghĩa nhiều hơn về mặt địa lý. Quốc gia có dân số đông
là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước (tính cả về thị trường
lao động và thị trường tiêu thụ hàng hóa).
Nước

Dân số

Việt Nam
Lào
Campuchia

Thái Lan
Myanmar

89.708.900
6.769.727
15.135.169
67.010.502
53.259.018

Nước
Philippines
Indonesia
Singapore
Brunei
Malaysia

Dân số
98.393.574
249.865.631
5.399.200
417.784
29.716.965

Bảng: Tình hình dân số các nước Đông Nam Á (2013)
(Nguồn: World Bank)
Việt Nam có dân số đông thứ 3 trong khu vực và đứng thứ 14 trên thế giới chính
là một thị trường cực kỳ tiềm năng cho các doanh nghiệp. Với cơ cấu dân số vàng, Việt
Nam đang có điều kiện tốt nhất về dân số để có được sự phát triển tốt nhất về kinh tế.
15



So sánh với các nước trong khu vực:
Quốc gia
Việt Nam
Lào
Campuchia
Thái Lan
Myanmar
Philipines
Indonesia
Singapore
Brunei
Malaysia

Dân số (2013)

Tăng trưởng ổn định

Chính trị xã hội ổn định

89.708.900
6.769.727
15.135.169
67.010.502
53.259.018
98.393.574
249.865.631
5.399.200
417.784
29.716.965




Không
Không
Không
Không

Không
Không
Không




Không
Không
Không
Không




Bảng: So sánh tình hình kinh tế và dân số các nước Đông Nam Á (2013)
Từ bảng so sánh trên có thể thấy lợi thế rõ rệt của Việt Nam so với các quốc gia
khác trong khu vực Đông Nam Á – một khu vực kinh tế năng động, là đầu tàu trong
công cuộc khôi phục kinh tế sau khủng hoảng của thế giới. Đây chính là điểm mạnh mà
các nhà đầu tư nước ngoài nên cân nhắc trước khi quyết định đầu tư vào khu vực Đông
Nam Á.
2.2 Điểm yếu của môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam

2.2.1 Luật Đầu tư còn nhiều hạn chế
Năm 2005, Luật Đầu tư ra đời, đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình thu hút
đầu tư của Việt Nam. Bộ luật này đã xóa bỏ phân biệt đối xử, tạo sân chơi bình đẳng
cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích, ưu đãi và quản
lý hữu hiệu các hoạt động đầu tư kinh doanh, bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư. Tuy nhiên, sau gần 9 năm hoạt động, Luật Đầu tư đã bộc lộ nhiều bất cập.
Thứ nhất, lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư còn dàn trải, thiếu tính thống
nhất và chưa thật sự hướng mạnh vào việc thu hút các dự án đầu tư với chất lượng cao,
hiệu quả.
Điều 27 trong Luật Đầu tư quy định các lĩnh vực ưu đãi đầu tư như sau:
1. Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo.
2. Nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản; làm muối; sản xuất giống nhân tạo,
giống cây trồng và giống vật nuôi mới.
3. Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên
cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao.
4. Sử dụng nhiều lao động.
16


5. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án quan trọng, có quy mô lớn.
6. Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn hóa dân tộc.
7. Phát triển ngành, nghề truyền thống.
8. Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích.
Có thể thấy, mặc dù đã được quy định thành điều luật, tuy nhiên các mục này vẫn
còn khá chung chung và đặt ra nhiều câu hỏi không lời giải cho nhà đầu tư. Trong 8 lĩnh
vực ưu đãi, lĩnh vực nào là trọng tâm, lĩnh vực nào cần chú trọng hàng đầu? Lĩnh vực
“sử dụng nhiều lao động”, “sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích” là như thế nào?
Ngành, nghề truyền thống là những ngành nghề ra sao? Việc phân loại các hạng mục
cũng không dựa trên một tiêu chí thống nhất. Nếu như mục 1. và 2. phân loại dựa trên

tính chất ngành nghề như: sản xuất vật liệu, sản xuất nông sản,…; thì mục 3. và 4. lại
phân loại theo hàm lượng lao động/công nghệ sử dụng. Việc đặt ra những quy định dàn
trải, thiếu chặt chẽ thể hiện sự không chắc chắn trong định hướng phát triển của Chính
phủ và khiến cho các nhà đầu tư cảm thấy mơ hồ - không biết đầu tư vào lĩnh vực nào
sẽ được hưởng ưu đãi hay thu được lợi nhuận cao nhất.
Thứ hai, ưu đãi trong luật quy định chưa rõ ràng. Theo Điều 38. Thủ tục thực hiện
ưu đãi đầu tư: “Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng điều kiện được hưởng
ưu đãi, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào Giấy chứng nhận đầu tư”.
Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định này chưa đáp ứng được tính minh bạch, chưa làm
rõ thủ tục để nhà đầu tư được hưởng các ưu đãi này. Thông thường, các ưu đãi về chuyển
lỗ hay về khấu hao tài sản không được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư. Do đó, rất
nhiều nhà đầu tư thắc mắc không biết có được hưởng ưu đãi trên, có cần xin thêm chấp
thuận từ Bộ Tài chính hay Sở Tài chính để được hưởng ưu đãi không. Kể cả với ưu đãi
được ghi trên giấy chứng nhận đầu tư, doanh nghiệp cũng không được tự động hưởng
mà lại phải thông qua một quá trình thủ tục xin phép, thẩm tra, phê chuẩn của các bộ,
ngành liên quan như cơ quan thuế, hải quan… Vì vậy, thay vì doanh nghiệp được hưởng
nhiều ưu đãi nhưng thực tế lại khó có thể được. Nếu có, doanh nghiệp cũng phải mất
nhiều thời gian và chi phí để thực hiện nhiều thủ tục với nhiều cơ quan khác nhau.
Thứ ba, những quy định về hoạt động đầu tư gián tiếp vẫn còn rất hạn chế trong
Luật Đầu tư 2005. Chỉ có duy nhất Điều 26. là quy định riêng về các hình thức đầu tư
gián tiếp. Trong khi đó, Luật Đầu tư lại dành hẳn một chương (Chương VI) cho hoạt
động đầu tư trực tiếp với đầy đủ các mục: thủ tục đăng ký, thẩm tra,… Ngay cả khi tra
cứu trong “Luật Chứng khoán” ban hành năm 2006, các thủ tục đối với đầu tư gián tiếp
(cụ thể là đầu tư chứng khoán nước ngoài) cũng không được đề cập. Sự thiếu cân đối
trong bộ luật khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài có ý định đầu tư chứng khoán vào
nước ta thiếu cơ sở pháp lý để làm căn cứ đánh giá, cũng như không được bảo vệ nếu
như thực hiện đầu tư.
Mới đây, Luật Đầu tư nước ta đã được chỉnh sửa lại, song, những vấn đề nêu trên
vẫn chưa được khắc phục.
17



2.2.2 Thị trường chứng khoán còn tiềm ẩn nhiều rủi ro
 Lừa đảo trên thị trường
Hiện tượng lừa đảo trên các thị trường chứng khoán tồn tại ở nhiều dạng khác nhau
như: làm giả các số liệu tài chính, đánh bóng công ty; che giấu không cho nhà đầu tư
biết các rủi ro hay các tin xấu; rút ruột công ty; trò Ponzi (rút tiền của các nhà đầu tư
mới để trả cho các nhà đầu tư cũ và một phần bỏ túi, chứ doanh nghiệp không tạo lợi
nhuận thật sự); lũng đoạn giá chứng khoán trên thị trường; giao dịch nội gián,…
Trong tất cả các vụ lừa đảo như vậy, người bị thiệt hại là các nhà đầu tư. Một khi
các nhà đầu tư đã bị lừa đảo mất tiền thì rất ít khả năng đòi lại được số tiền bị mất đó.
Một ví dụ là vào năm 2011, thị trường chứng khoán tiếp đà sụt giảm mạnh cả về
giá các loại cổ phiếu cũng như số lượng nhà đầu tư. Trước tình thế khó khăn, để thu hút
đầu tư, một số công ty chứng khoán đã cố tình vi phạm các quy định của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước như “làm giá” một số cổ phiếu, ứng khống trước cổ phiếu cho một số
nhà đầu tư “ruột”, bảo lãnh khống cho một số nhà đầu tư vay tiền ngân hàng. Đồng thời,
một số nhà đầu tư đã có hành vi tung tin thất thiệt tạo sốt ảo một số cổ phiếu, thao túng
giá cổ phiếu nhằm trục lợi, tiêu biểu là sự kiện Tổng Giám đốc Công ty Dược Viễn Đông
thao túng giá cổ phiếu Dược Hà Tây, khai khống, tạo doanh thu ảo cho công ty. Công
ty đã phải chấm dứt hoạt động vào cuối tháng 9/2011 và bị xử lí hình sự.
 Rủi ro về thông tin
Vấn đề thông tin bất cân xứng là vấn đề trong giới đầu tư chứng khoán tại Việt
Nam. Rất khó khăn để biết được tình trạng kinh doanh thực sự của doanh nghiệp, bởi
các thông tin trên báo cáo tài chính thường thiếu tin cậy. Hơn nữa, một số “tay trong”
nắm được thông tin tốt hơn và sớm hơn, mua bán dựa trên các thông tin đó, còn những
người khác không hề nhận được thông tin, hoặc chỉ nhận được khi đã muộn. Điều này
khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài khó có thể đưa ra lựa chọn chính xác cũng như khó
xâm nhập được thị trường.
 Rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp
Đây là rủi ro rất phổ biến hiện nay do ảnh hưởng từ những bất ổn kinh tế trên toàn

cầu. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thậm chí phá sản. Nếu nhà đầu tư đang
nắm giữ cổ phiếu của những doanh nghiệp này thì sẽ đứng trước nguy cơ mất trắng. Tại
nước ta, số lượng doanh nghiệp phải đóng cửa và ngừng hoạt động có xu hướng tăng
dần theo các năm. Theo Tổng cục Thống kê, ước tính năm 2013, tổng số doanh nghiệp
gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động là 60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9%
so với năm 2012. Trong số đó, số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng
4,9%; số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 doanh nghiệp, tăng
35,7%; số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116 doanh nghiệp,
tăng 8.6%. Những con số này ít nhiều khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy dè
chừng khi đưa nguồn vốn vào Việt Nam.
18


 Rủi ro đầu cơ
Nhà đầu tư Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng lớn của “tập tính bầy đàn”, dễ bị kích
động theo xu hướng thị trường chung của thị trường. các nhà đầu tư trong nước chưa có
kiến thức và kinh nghiệm nhiều, nhiều nhà “đầu cơ ngắn hạn” khiến thị trường tăng
nhanh nhưng cũng giảm nhanh, rất biến động; các nhà đàu tư theo giao dịch quán tính,
tâm lý bầy đàn, ko tin vào kết quả định giá và theo hiệu ứng đám đông làm bóp méo thị
trường, dẫn đến xu hướng đầu cơ lớn hơn. Tâm lý này không chỉ ảnh hưởng tới các nhà
đầu tư nhỏ lẻ mà còn ảnh hưởng đến các quỹ đầu tư và doanh nghiệp lớn, tăng tính rủi
ro đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2.3 Sự can thiệp của bàn tay nhà nước
Đối với Việt Nam hiện nay, nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài đầu tư vào TTCK được
điều chỉnh trực tiếp bởi Quyết định 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/09/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam (thay thế quyết
định số 146/2003/QĐ-TTg ngày 17/07/2003). Thông tư số 90/2005/QĐ-TTg ngày
17/10/2005 của Bộ tài chính hướng dẫn quyết định số 238/2005/QĐ-TTg, Quyết định
số 1550/2004/QĐ-NHNN ngày 6/12/2004 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quản
lý ngoại hối đối với việc mua, bán chứng khoán của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại

TTGDCK (thay thế Quyết định 998/2002/QĐ-NHNN ngày 13/9/2002), và Quyết định
36/2003/QĐ-TTg ngày 11/03/2003 về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của
các NĐT nước ngoài.
Các văn bản pháp luật chứng khoán của Việt Nam đã cho thấy, tỷ lệ chứng khoán
nắm giữ của các NĐT nước ngoài liên tục được điều chỉnh và ngày càng được nới lỏng
hơn. Trước năm 2003, NĐT nước ngoài chỉ được nắm giữu 20% cổ phiếu đang lưu
hành của một công ty đang niêm yết , trong đó một thể chế được nắm giữ tối đa 7% và
một các nhân được nắm giữ tối đa 3%. Đến năm 2003, tỷ lệ nắm giữ của các NĐT nước
ngoài tăng lên tối đa là 30%. Năm 2005, Quyết định 238/2005/QĐ-TTg quy định các
NĐT nước ngoài nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết của doanh nghiệp.
Tuy đã có sự nới lỏng hơn đối với các NĐT nước ngoài trong quy định tỷ lệ nắm
giữ cổ phiếu, cho đến nay mức tỷ lệ 49% vẫn còn là một rào cản khiến cho TTCK Việt
Nam kem hấp dẫn so với những nước trong khu vực. Các nước như Indonesia, Malaisia,
Thái Lan, Singapore đều nới lỏng tỷ lệ lên đến 100%.

19


2.2.4 Thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, song, do mới chỉ hình thành hơn chục
năm trở lại đây nên quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các
nước khác. Tại Hội nghị phát triển thị trường chứng khoán năm 2014 tại Hà Nội vừa
qua, một báo cáo cho thấy giá trị giao dịch trung bình trên thị trường chứng khoán Việt
Nam chỉ đạt khoảng 88 triệu USD/ngày. Đây được xem là mức thấp nhất trong khu vực
Đông Nam Á khi con số này tại một số thị trường khác như Thái Lan là 1,5 tỷ USD/ngày,
Malaysia là 625 triệu USD/ngày, Indonesia là 528 triệu USD/ngày, Philippines là 426
triệu USD/ngày.
Theo số liệu Bloomberg công bố cuối năm 2012, giá trị vốn hóa của thị trường
Việt Nam cũng không cao chỉ khoảng 45 tỷ USD tổng cộng cả 2 sàn. Số liệu này nhỏ
hơn nhiều so với các thị trường chứng khoán trong khu vực như Thái Lan 460 tỷ USD,

Indonesia 427 tỷ USD, Philippines 186 tỷ USD.
Quy mô lớn nhất của công ty Việt Nam hiện tại cũng chưa vượt được 5 tỷ USD,
trong khi đó quy mô của công ty lớn trong khu vực đã vào khoảng 30 tỷ USD. Số lượng
các công ty có vốn hóa lớn hơn 1 tỷ USD niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ
Chí Minh HSX là 8 công ty, trong khi tại Thái Lan có 23 công ty với giá trị giao dịch
hàng ngày bình quân trên 10 triệu USD. Điều này cho thấy, quy mô thị trường chứng
khoán của Việt Nam vẫn rất nhỏ đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Các chuyên gia cũng nhìn nhận thị trường chứng khoán Việt Nam hiện còn khá
đơn điệu và thiếu nhiều loại sản phẩm hấp dẫn nhà đầu tư. Hàng hóa trên thị trường còn
rất căn bản. Hiện nay, thị trường chứng khoán vẫn chỉ có cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ. Mặc dù, đây là những hàng hóa cơ bản trên thị trường cơ sở nhưng vẫn rất cần thiết
có những loại sản phẩm phái sinh, sản phẩm phụ trợ để phục vụ cho nhiều mục đích đầu
tư, giao dịch khác nhau. Quy mô nhỏ hẹp, thanh khoản trên thị trường thấp đã dẫn đến
quá trình hình thành giá dễ bị ảnh hưởng nếu có những giao dịch lớn xảy ra. Ngoài ra,
rất nhiều vấn đề trong cấu trúc thị trường cũng làm cho thị trường chứng khoán Việt
Nam kém hấp dẫn trong con mắt của nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh 4 điểm yếu trên, thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà – đặc biệt trong
việc mở tài khoản – cũng là một nguyên nhân khiến cho môi trường đầu tư chứng khoán
Việt Nam mất điểm trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Theo quy định, phải mất gần
6 tháng mới được mở tài khoản, trong khi ở hầu hết các nước khác chỉ mất một tuần.
Quy định phải có lý lịch tư pháp và xác nhận không có tiền án của nước xuất xứ đối với
người mở tài khoản gây mất thời gian và tốn kém. Quy định này cần được thay thế bằng
cơ chế đơn giản như công chứng hộ chiếu hợp lệ. Bằng cách này sẽ thu hút được thêm
nhà đầu tư nước ngoài, và quan trọng nhất là nguồn vốn cho thị trường chứng khoán.

20


2.3 Cơ hội đối với môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam
2.3.1 Xu hướng chuyển dịch của dòng vốn đầu tư gián tiếp

Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy, vào năm 2001 lợi nhuận từ
vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4 năm, đầu tư gián tiếp toàn cầu
đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5%, tiếp đó là
Anh chiếm 10%. Dòng vốn FPI đang trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính
1997 và đang chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia đang phát triển có tiềm năng,
nhằm hạn chế các rủi ro đầu tư.
Theo đánh giá của Dealmarket, một trang điện tử dành riêng cho các quỹ đầu tư tư
nhân, không chỉ riêng Việt Nam, hiện nhiều quỹ đầu tư tư nhân còn nhìn tổng thể khu
vực Đông Nam Á như một điểm đến đầy hứa hẹn mới mà trong đó, ngoài Việt Nam thì
Myanmar, Thái Lan và Philippines cũng thu hút nhiều sự chú ý của các quỹ này.
Làn sóng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam thập kỉ qua có xu hướng tăng
mạnh, nhất là từ thời điểm những thàng cuối năm 2006 và sáu tháng đầu năm 2007, khi
Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Kết thúc năm 2006, Việt Nam thu hút được khoảng
500 triệu USD vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, bằng 1/3 tổng số vốn Việt Nam thu hút
được từ trước tới nay.
Xét riêng đầu tư gián tiếp nước ngoài qua chứng khoán, số liệu mới nhất cho thấy,
chỉ trong tháng 1 năm 2014 đã có tới 70 triệu USD từ các quỹ nước ngoài đổ vào thị
trường chứng khoán. Năm 2013, dòng vốn đạt 325 triệu USD – chỉ tính lượng mua trên
sàn, chưa tính dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực đầu tư tư nhân và các thương vụ M&A
ngoài sàn. Trước đó, vào năm 2012, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường
này là 300 triệu USD, tăng 25% so với 2011. Điều này chứng tỏ làn sóng đầu tư gián
tiếp vẫn chưa có dấu hiệu suy yếu, và chúng ta vẫn hoàn toàn có thể tận dụng thời cơ
của mình.
2.3.2 Khả năng tăng trưởng của khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng
Theo Báo cáo cập nhật kinh tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương được Ngân
hàng thế giới (WB) công bố ngày 06 – 10 - 2014 các nước đang phát triển khu vực Đông
Á – Thái Bình Dương vẫn tiếp tục có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với các khu vực
khác trên thế giới, ở mức 6,9% trong năm 2014 và 2015, giảm so với mức 7,2% năm
2013. Tại Trung Quốc, tăng trưởng sẽ giảm nhẹ xuống còn 7,4% trong năm nay và 7,2%
trong năm 2015, khi nước này thực hiện những cải cách về cơ cấu nhằm giải quyết

những yếu kém về tài chính và những điểm nghẽn mang tính cơ cấu của nền kinh tế.
Theo Báo cáo, Việt Nam nằm trong nhóm các nước đã định vị tốt và sẽ hưởng lợi từ
xuất khẩu gia tăng khi kinh tế thế giới hồi phục. Điều này phản ánh sự hội nhập sâu rộng
vào kinh tế toàn cầu và chuỗi giá trị của khu vực – những nhân tố đã điều chỉnh thương
mại toàn cầu trong suốt 20 năm qua. WB nhận định kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã ổn
định hơn trong năm 2014 với lạm phát ở mức thấp và các cán cân được củng cố. Tăng
21


trưởng kinh tế chậm hơn đã hối thúc Chính phủ nới lỏng chính sách tiền tệ, nhưng tăng
trưởng tín dụng vẫn bị hạn chế bởi sức khỏe của các ngân hàng và nhu cầu của khu vực
tư nhân. WB dự báo GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng lần lượt 5,4%, 5,5% và 5,8%
trong năm 2014, 2015, 2016; tỷ lệ lạm phát vẫn sẽ được kiềm chế ở mức một con số. Tỷ
lệ lạm phát của các năm nói trên lượt ở mức 4,5%, 5% và 5%.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái sản xuất
hàng hóa, dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nơi này sang nơi khác, nhằm phát huy
lợi thế so sánh của mỗi quốc gia thông qua các cam kết mở cửa thị trường. Việt Nam
đang nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh
vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam
còn là một quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động,
thị trường, tài nguyên… Hơn nữa, Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm
quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự quan tâm của khu vực
và thế giới tới Việt Nam, đặc biệt là thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, cộng với sự
thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Các thể chế của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn; Việt Nam đã gia nhập
WTO và đã tạo ra một làn sóng đầu tư mới sau khi tổ chức thành công hội nghị APEC
vào tháng 11 năm 2006; đồng thời Việt Nam đang tiến hành đẩy nhanh lộ trình cổ phần
hoá các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trong lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, điện
lực và bưu chính viễn thông. Việc cổ phần hoá này sẽ cung cấp lượng cổ phiếu hàng tỷ

USD ra thị trường. Bên cạnh đó, các nghị định và chính sách về cổ phần hoá và luật
doanh nghiệp đã chín muồi và bắt đầu phát huy hiệu quả sau một thời gian thử nghiệm
như việc bãi bỏ hạn chế tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh
nghiệp Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu của sự
phát triển. Đây cũng là thời điểm nở rộ các công ty chứng khoán thành lập mới trong
nước.
Nhiều công ty chứng khoán nước ngoài đã bắt đầu đến Việt Nam bằng việc thành
lập các văn phòng đại diện, xây dựng vốn, kinh nghiệm và nắm bắt thị trường để sẵn
sàng nhập cuộc ngay khi các rào cản được xóa bỏ. Nhờ có sự tham gia thị trường của
các công ty chứng khoán sẽ làm thị trường sôi động hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia
ngày càng nhiều các công ty chứng khoán nước ngoài với vai trò là định chế trung gian
trên thị trường sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời
tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên môn, góp phần thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán trong nước. Sức ép cạnh tranh lớn
cũng buộc các công ty chứng khoán trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và
chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo lợi thế
với công ty nước ngoài.
22


2.3.3 Việt Nam nâng hạng mức tín nhiệm trên thế giới
Từ tháng 9/2014 tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức tín nhiệm đối
với Việt Nam từ B2 lên B1 và đánh giá triển vọng ổn định. Fitch nâng hạng mức tín
nhiệm của VN từ B+ lên BB-, nhưng thực chất BBB- mới là mức tín nhiệm trung bình
mà các nhà đầu tư đáng bỏ tiền. Tuy nhiên, gần đây Bộ Tài chính đã phát hành thành
công trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ra thị trường vốn quốc tế với tổng khối lượng
1 tỷ Đô la Mỹ theo hình thức 144A/Quy chế S, đạt mức lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp
hơn mức dự kiến là 5,125%/năm, đây là mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành
từ trước đến nay (lần lượt là 6,875%/năm và 6,755/năm đối với trái phiếu phát hành năm

2005 và 2010). Điều đó chứng tỏ các nhà đầu tư quốc tế ngày càng có xu hướng chấp
nhận rủi ro cao hơn và đã chấp nhận mạo hiểm hơn khi đầu tư vào thị trường Việt Nam.
2.3.4 Niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam
Tổng vốn đầu tư xã hội và của từng thành phần kinh tế ở Việt Nam đã tăng trưởng
trở lại, niềm tin của giới đầu tư đang dần phục hồi.
Sự xuất hiện của dòng tiền lớn vào thị trường chắc chắn là một dấu hiệu tốt thể
hiện sự quan tâm trở lại của các nhà đầu tư tới chứng khoán và quan trọng hơn niềm tin
của các nhà đầu tư đã lớn hơn rất nhiều. Theo Quỹ Đầu tư Dragon Capital, giá trị dòng
vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 15/8/2014 đã lên tới 416
triệu USD, một mức tăng đáng kể so với con số 326 triệu USD giá trị mua ròng của cả
năm ngoái. Kết quả này là một minh chứng phản ánh khá rõ xu hướng nhà đầu tư nước
ngoài đang tích cực hơn trong việc trở lại tìm kiếm các cơ hội kinh doanh tại Việt Nam,
trong bối cảnh các điều kiện vĩ mô đã ổn định hơn nhiều so với cách đây 3 năm. Lạm
phát được kiềm chế ở mức thấp, tỉ giá ổn định trong khi Việt Nam vẫn đang tiếp tục quá
trình chuyển đổi sang một mô hình tăng trưởng mới bền vững hơn. Điều này sẽ mang
lại nhiều cơ hội cho nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ vào những tháng cuối năm 2006 và
đầu 2007, sau những sự kiện nổi bật là Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao
APEC tháng 11/2006, và ngay sau đó là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính
thức Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cùng với kết quả tăng trưởng kinh tế trong
nhiều năm qua, những sự kiện dồn dập này mang lại niềm hứng khởi cho các nhà đầu
tư trong nước về triển vọng đầu tư. Tính đến tháng 12/2006, số lượng tài khoản giao
dịch của các nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán là trên 120.000, gấp 3 lần cuối
năm 2005 và hơn 30 lần so với năm đầu mở thị trường. Trong quí 1 năm 2007 đã có
khoảng 60 ngàn tài khoản được mở, bằng số lượng của cả giai đoạn 5 năm đầu (20002005).
Như vậy, nằm trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh nhất thế giới trong những năm gần đây, Việt Nam đang được đánh giá là
một trong những điểm nóng về môi trường đầu tư kinh doanh trên bản đồ thế giới.
23



2.4 Thách thức đối với môi trường đầu tư chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam
2.4.1 Tình trạng tham nhũng, tham ô ở mức cao
Vấn nạn tham nhũng, tham ô đang đặt nước ta trước nguy cơ bị mất lợi thế so với
các nước khác trong việc thu hút đầu tư.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để
gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân; tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy
cắp của công. Đây đều là những hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lí
kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực.
Tại Việt Nam, tham nhũng và tham ô là vấn đề nóng trong suốt nhiều năm qua
nhưng nhà nước vẫn chưa tìm được cách giải quyết triệt để. Nó gây ra nhiều ảnh hưởng
tiêu cực tới hiệu quả đầu tư nói chung. Đặc biệt, nạn tham nhũng cộng với việc ban quản
lý doanh nghiệp không công bố thông tin đầy đủ và kịp thời cho cổ đông còn làm suy
giảm lòng tin của công chúng đầu tư nước ngoài. Qua nhiều vụ việc xảy ra, các nhà đầu
tư nước ngoài ngày càng e ngại việc Ban lãnh đạo công ty có thể bòn rút đồng vốn đầu
tư của họ và lợi nhuận của công ty để sử dụng vào mục đích không bình thường.
Ngày nay, khi xu hướng tự do hóa đầu tư đang ngày càng mở rộng, chúng ta phải
đối mặt với rất nhiều đối thủ để có thể nhận được nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên,
tham nhũng, tham ô là một trong những yếu tố chính khiến cho môi trường đầu tư nói
chung và môi trường đầu tư chứng khoán nói riêng của Việt Nam mất đi lợi thế trong
mắt các nhà đầu tư và giảm dần độ hấp dẫn so với các nước láng giềng khác.
Xếp hạng
Quốc gia
Điểm
Nhìn vào bảng bên, có thể thấy: so với
các quốc gia như Singapore, Brunei,
Singapore
91.3
1
Malaysia và Thái Lan, tình trạng tham nhũng

Brunei
70.7
2
của Việt Nam năm 2013 ở mức trầm trọng
Malaysia
56.2
3
hơn hẳn với số điểm có sự cách biệt khá lớn
Thái Lan
48.6
4
(1/2 so với Brunei và ~1/3 so với Singapore).
Philippines
36.4
5
Việt Nam được xếp vào nửa sau với các nước
Việt Nam
34.4
như Indonesia, Campuchia, Myanmar và
6
Lào. Tuy nhiên, cách biệt không nhiều dự
Indonesia
33.1
7
báo rằng các nước còn lại đó có thể vươn lên
Campuchia
29.6
8
vượt chúng ta bất cứ lúc nào. Như vậy, xét
Myanmar

29.3
9
nguyên về khía cạnh tham nhũng, khi các
Lào
28.0
10
nhà đầu tư lớn thâm nhập vào thị trường
Đông Nam Á, họ sẽ bị thu hút bởi các môi
trường trong sạch, tính minh bạch cao hơn. Bảng: Đánh giá tình trạng tham nhũng
của một vài quốc gia Đông Nam Á 2013
Việt Nam khi ấy hầu như sẽ chỉ được nhận
nguồn vốn từ các nhà đầu tư đến chậm – (Asia Pacific Investment Climate Index – 2013)
thường là quy mô nhỏ và thích rủi ro.
24


×