Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đánh giá các quy định trong bộ luật dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.33 KB, 17 trang )

Trang
MỤC LỤC………………………………………………………………………1

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS
BLDS 2005
BLDS 1995
NLHVDS

Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự năm 2005
Bộ luật dân sự năm 1995
Năng lực hành vi dân sự

1


Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng tiến bộ và phát triển đòi hỏi các
quyền dân chủ cho cá nhân ngày càng lớn, điều đó cũng kéo theo các giao lưu dân
sự cũng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt là trong nền kinh tế phát triển
thì các quan hệ dân sự ngày càng phổ biến. Lê-Nin từng nói: “ Con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội”. Để tồn tại,con người phải tham gia vào các quan hệ
xã hội,trong đó có quan hệ nhân thân và tài sản và để tham gia vào các quan quan
hệ dân sự thì cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự của mình.Vậy, khi nào
một cá nhân có đủ năng lực hành vi để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự?
Năng lực hành vi dân sự của năm 2005 có những quy định như thế nào? Vậy, để
tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “ Đánh giá các quy định trong
bộ luật dân sự năm 2005 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.” Để làm đề
tài cho bài tập lớn của mình lần này. Do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em
không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp và đánh


giá từ các thầy cô để bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

Giải quyết vấn đề
I. Một số vấn đề lí luận về năng lực hành vi dân sự của cá nhân năm 2005
1. Khái quát về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1.1 Năng lực chủ thể:
- Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”. Để tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói
riêng,cá nhân phải có tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây là
năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
- Có thể nói: năng lực chủ thể là điều kiện cần và đủ để xem xét một cá nhân có tư
cách chủ thể hay không? Chỉ những ai có năng lực chủ thể do nhà nước quy định
thì mới là chủ thể của các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật dân
sự nói riêng.
- Cấu thành năng lực chủ thể của cá nhân là năng lực chủ thể của cá nhân được tạo
thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự:
 Năng lực pháp luật dân sự ( giáo trình )
Năng lực pháp luật dân sự được quy định tại khoản 1 điều 14 BLDS năm
2005: “Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và
nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng, điều kiện, tiền để cần
2


thiết để cá nhân đó có quyền và nghĩa vụ, là thành phần không thể thiếu được của
cá nhân để được xem là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sư.
 Năng lực hành vi dân sự:
Năng lực hành vi dân sự có thể hiểu là khả năng của cá nhân trong việc
khiển hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và khả năng
tự chịu trách nhiệm do hành vi mình gây ra. Điều 17 BLDS năm 2005quy định:
“Năng lực hành vi là khả năng cá nhân bằng hành vi của minh xác lập,thực hiện

quyền, nghĩa vụ dân sự”. Mặt khác năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng
lực chịu trách nhiệm của cá nhân khi cá nhân đó vi phạm nghĩa vụ dân sự trước
chủ thể mang quyền.
Đặc điểm:
• Năng lực hành vi dân sự của cá nhân do pháp luật quy định . Nhà
nước quy định dựa trên độ tuổi,khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá
nhân. Việc quy định năng lực hành vic ủa cá nhân dựa trên độ tuổi,khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi như vậy là rất cần thiết,bởi quá trình hình thành nhân
cách phải trải qua một thời gia nhất định,chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định thì cá
nhân mới hoàn thiện,đủ khả năng kiểm soát hành vi của mình,chịu trách nhiệm
pháp lí hành vi do mình gây ra.
• NLHVDS cá nhân là không bình đẳng, các cá nhân khác nhau có
NLHVDS khác nhau. Nếu như năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng thì
ngược lại NLHVDS của cá nhân là không như nhau. Bởi ai cũng có cuộc sống
riêng,sinh ra và lớn lên ở môi trường khác nhau. Vì vậy,trong cuộc sống,việc nhận
thức và làm chủ hành vi phụ thuộc vào ý chí và lý chí của họ,cho nên người thì có
đầy đủ năng lực hành vi,người thì không có hay người bị hạn chế NLHVDS.
• Năng lực hành vi dân sự không xuất hiện từ khi sinh ra mà chỉ có khi
cá nhân đạt độ tuổi nhất định. Không giống như năng lực pháp luật dân sự : “có từ
khi người đó sinh ra và cấm dứt khi người đó chết”. Một người khi sinh ra là đã có
năng lực pháp luật,pháp luật quy định cho họ có quyền khai sinh,quyền đối với
họ,tên,quyền có quốc tịch..Nhưng lúc sinh ra, năng lực hành vi chưa được hình
thành mà phải khi đạt đến một độ tuổi nhất định mới có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Như vậy,người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người có năng lực hành vi
nếu như họ không bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự.
1.2 Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân:
- Giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Những chủ thể có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì không trực
tiếp trở thành chủ thể trong giao dịch dân sự,tức là không thể trực tiếp trở thành
3



chủ thể trong giao dịch dân sự nói riêng,quan hệ pháp luật nói chung. Ta thấy
năng lực pháp luật là tiền đề cho năng lực hành vi. Muốn trở thành chủ thể của
quan hệ pháp luật thì bên cạnh năng lực pháp luật phải có năng lực hành vi. Năng
lực pháp luật chính là điều kiện cần còn năng lực hành vi là điều kiện đủ để tạo tư
cách chủ thể cho cá nhân tham gia trong giao dịch dân sự.
2. Khái quát những quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân
2.1 Pháp luật phong kiến và những quy định về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân( từ thế kỉ XV đến 1858).
Khi nhắc đến pháp luật phong kiến Việt Nam không thể không nhắc đến bộ
luật Hồng Đức-một trong những bộ luật phong kiến tiến bộ trong lịch sử pháp luật
Việt Nam(dưới thời nhà Lê). Luật Hồng đức (1843) chưa có sự phân biệt giữa
năng lực pháp luật và năng lực hành vi mà các nhà làm luật chỉ quy định năng lực
chủ thể nói chung. Chẳng hạn như trong chế định thừa kế,pháp luật quy định:khi
con cái chưa trưởng thành,còn ở cung cha,mẹ thì chưa có quyền có tài sản riêng.
Khi sống cùng cha mẹ,con cái không có quyền quyết định về tài sản vì theo pháp
luật tài sản đó thuộc quyền sở hữu của cha mẹ. Ngược lại nếu con cái có tài sản
riêng thì cha mẹ cũng phải tôn trọng: “ khi chồng chết,con còn nhỏ ,mẹ đi cải giá
mà bán điền sản của con thì bị xử phạt 50 roi,trả lại tiền cho người mua,trả lại đất
cho con”.
Một bộ luật nữa cũng có thể nói là nổi tiếng trong triều đại nhà Nguyễn đó
là Hoàng Việt luật lê(Luật Gia Long) năm 1815. Bộ luật dài 398 điều nhưng
không có riêng một điều luật cụ thể nào nói về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân. Pháp luật bấy giờ chưa phân biệt rõ nét giữa dân sự với hình sự. Còn năng
lưc chủ thể cũng có vài điều luật có đề cập đến khả năng chịu trách nhiệm của chủ
thể trong xã hội.
Như vậy, trong pháp luật phong kiến không có một quy định cụ thể nào về
năng lực hành vi dân sự của cá nhân mà nó chỉ thể hiện trong một số những chế

định cụ thể.
2.2 Pháp luật thời Pháp thuộc và những quy định về năng lực hành vi dân sự của
cá nhân( từ 1858 đến 1954)
Gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ,Việt Nam chịu sự chi phối của ba Bộ
luật dân sự mà chính quyền thực dân lần lượt ban hành. Và đặc biệt là ở cả ba Bộ
luật này cũng chưa có một quy định cụ thể nào nói rõ về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân nhưng trong môt số chế định,nó cũng thể hiện khá rõ nét.Chẳng hạn
như trong chế định về khế ước,“về nguyên tắc bất cứ người nào không bị pháp
4


luật tuyên bố là vô tư cách đều có thể giao ước được”. 1 Pháp luật cũng quy định
người vô tư cách gồm: “người vị thành niên,người bị cấm quyền,đàn bà có chồng
và một số người khác bị pháp luậy cấm,người vị thành niên là người chưa đủ 21
tuổi tròn”2 Ngoài ra ở chế định Hôn nhân và gia đình,chế định về thừa kế cũng có
đề cập về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Pháp luật thời kì này tuy chưa có những quy định rõ về năng lực hành vi
dân sự của cá nhân nhưng so với thời kì phong kiến thì có sự cụ thể hơn.
2.3 Pháp luật và những quy định về NLHVDS của cá nhân từ 1955 đến 1995.
Bộ luật dân sự 2005 là sự kế thừa và hoàn thiện pháp luật của đất nước
trong điều kiện mới của đất nước. Đây là bộ luật mang tính pháp điển hóa cao,tập
hợp hầu hết các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực dân sự,định ra các chuẩn
mực pháp lí về cách xử xự của các chủ thể bao gồm cá nhân,pháp nhân và các chủ
thể khác khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. Đặc biệt,bộ luật đã dành
riêng một phần để quy định về NLHVDS của cá nhân (điều 19 đến điều 25).
3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Thứ nhất: Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ
pháp luật dân sự. Với các quy định trong Bộ lật dân sự hiện hành sẽ là công cụ để
bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân. Đảm bảo trật tự,công nằng xã hội cho các
chủ thể.

Thứ hai: Góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bên khi tham
gia kí kết hợp đồng. Chỉ những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì mới
được tham gia giao dịch với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật đó. Còn
những người không có năng lực hành vi dân sự,bị mất hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự muốn tham gia giao dịch phải có người đại diện.Cho nên khi muốn kí
kết hợp đồng với một cá nhân thì phải xem người đó có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự hay không. Điều này là rất quan trọng.
Thứ ba: góp phần ngăn chặn,răn đe các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư: Nó là cơ sở pháp lí để giải quyết tranh chấp khi có vụ việc dân sự
liên quan đến năng lực hành vi dân sự. Vơi những quy định về năng lực hành vi
dân sự, BLDS hiện hành là cơ sở pháp lí quan trọng để giải quyết các tranh chấp
dân sự liên quan đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Trên cơ sở đó để bảo
vệ quyền và lợi ích cho các cá nhân,tổ chức liên quan.
II. Quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân năm 2005
1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1
2

Xem điều 670, Bộ dân luật Bắc kì.
Xem điều 221,Bộ dân luật Bắc kì

5


Khi xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân,độ tuổi chỉ là
điều kiện cần mà không phải là điều kiện đủ.Tiêu chí độ tuổi cá nhân chỉ cho
chúng ta phân biệt năng lực hành vi dân sự của người thành niên và người chưa
thành niên. Bên cạnh độ tuổi,khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cũng là
tiêu chí đề phân biệt mức độ năng lực hành vi của cá nhân. Do vậy để phân biệt thì
người ta thương dựa vào độ tuổi,khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá

nhân đó. Thông thường,khi phát triển tới độ tuổi nhất định,con người sẽ có sự phát
triển toàn diện về thể chất và tinh thần, đủ để có thể nhận thức và điều khiển hành
vi của mình.
Tuy nhiên có những trường hợp đặc biệt,dù đã đến tuổi trưởng thành nhưng
nhận thức của họ không phát triển,trí não của họ không bình thường như người
khác. Nghĩa là cá nhân đó không nằm trong ba tiêu chí nêu trên cho nên Bộ luật
dân sự có quy định nếu cá nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không làm
chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan.
Tòa án sẽ tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự với người đó. Hay nếu họ nghiện
ma túy hoặc chất kích thích khác thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên
quan của cá nhân,tổ chức khác, Tòa án sẽ tuyên bố hạn chế năng lực hành vi đối
với họ.
Việc xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân có vai trò rất
quan trọng. Ở mỗi mức độ, cá nhân sẽ có quyền tham gia giao dịch dân sự ở các
mức tương ứng.
2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Điều 17 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ
dân sự. Năng lực hành vi dân sự được Bộ luật dân sự quy định cụ thể như sau:
*Năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Điều 19 BLDS có quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên”. Vậy người thành niên là những người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ,vcó thể tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách chủ thể độc lập. Như điều
19 quy định: “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,trừ trường hợp
quy định tại điều 22 và 23 cuả bộ luật này”. Qua đó ta có thể thấy không phải tất
cả những ai đã là thành niên sẽ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Có người đã là
thành niên nhưng không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đó là trường hợp bị
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự(điều 22) và hạn chế năng lực hành vi dân sự
(điều 23) của Bộ luật dân sự.
6



Người từ đủ mười tám tuổi trở lên theo Bộ luật dân sự thì mới được xem là
người thành niên. Liên hệ thực tế với các nước khác quy định về có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ. Chẳng hạn như quy định về tuổi thành niên ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài loan là 20 tuôỉ; Ấn Độ,Anh,Mỹ,Canada là 18 tuổi tuy nhiên cũng có
một số nước xác định tuổi trưởng thành thấp hơn… Bộ luật dân sự nước ta chỉ quy
định duy nhất trường hợp có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đó là đủ mười tám
tuổi,không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự ngoài ra không quy định trường hợp ngoại lệ nào.
Những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự sẽ được tham gia giao dịch
dân sự,nhân danh chính mình tự chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã thực
hiện . Ví dụ,người có năng lực hành vi dân sự sẽ có quyền định đoạt đối với tài
sản của minh(mua,bán,cho…) Những người từ đủ mười tám tuổi được xác định là
người có năng lực hanh vi dân sự đầy đủ.
*Năng lực hành vi dân sự một phần: Điều 20 Bộ luật dân sự quy định:
1. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập,thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định
khác.
2. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài
sản riêng,bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự minh xác lập,thực hiện giao
dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật,trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, cá nhân từ đủ sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi là những người có
năng lực hành vi một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải
chịu những nghĩa vụ khi khi tham gia các giao dịch để thỏa mãn những nhu cầu
thiết yếu hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người có năng lực hành vi một phần hay còn gọi là năng lực hành vi không
đầy đủ là những người vẫn sẽ được tham gia các giao dịch dân sự,nhưng pháp luật

chỉ cho họ một giới hạn nhất định và họ chỉ đưoực thực hiện,xác lập quyền, nghiã
vụ trong giai đoạn ấy, những giao dịch được coi là trong giới hạn hành vi mà
người đại diện cho phép thực hiện mà không cần trực tiếp hỏi ý kiến của người đại
diện.
Những người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có thể tự mình
xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần
sự đồng ý của người đại diện. Sơ dĩ người đủ mười lăm tuổi trở lên được quyền
xác lập, định đoạt quyền, nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản của minh bởi theo
7


quy định của pháp luật lao động ,họ là chủ thể của một số hoạt động lao động
được phép cụ thể họ có tài sản và thu nhập riêng,được sử dụng,chi tiêu vì lợi ích
của mình. Chẳng hạn như A mới chỉ có mười sáu tuổi nhưng có tài sản riêng là
15.000.000 đồng( do được hưởng thừa kế từ ông nội) A dung số tiền này mua một
chiếc xe đạp điện để phục vụ cho việc đi lại thuận tiện. Mặc dù chưa đủ mười tám
tuổi nhưng giao dịch này của A vấn không bị tuyên bố là vô hiệu vì không có sự
đồng ý của người đại diện,bởi đó là tài sản riêng của A,A được sử dụng tài sản đó
theo quy định tại khoản 2 nêu trên.
* Người không có năng lực hành vi dân sự.
Cá nhân không có năng lực hành vi dân sự theo BLDS được quy định tại
điều 21: “Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch
dân sự của nguời chưa đủ sáu tuôỉ phải do đại diện theo pháp luật xác lập,thực
hiện”. Ở độ tuổi này,trẻ chỉ hành động theo bản năng,theo phản xạ chứ không phải
theo ý chí và lí trí. Do vậy,ở tuổi này,trẻ chỉ có năng lực pháp luật chứ chưa có
năng lực hành vi.
Người chưa đủ sáu tuổi là người chưa có khả năng nhận thức hành vi và hậu
quả hành vi do mình gây ra nhưng khi đạt đến độ tuổi nhất định,năng lực hành vi
sẽ được hình thành. Điều 21 BLDS có tên “người không có năng lực hành vi dân
sự” là chưa chính xác bởi vì người dưới sáu tuổi mắc bệnh tâm thần hoặc các

bệnh khác không nhận thức và làm chủ được hành vi” thì mới được coi là không
có năng lực hành vi còn đối với những người bình thường,khi họ lớn lên thì năng
lực hành vi cũng xuất hiện. Cho nên sáu tuổi là chưa có năng lực hành vi nhưng
sau này sẽ có năng lực hành vi. Do vậy,quy định về “chưa có” và “không có” năng
lực hành vi là không đồng nhất. Vì thế cho nên,người chưa đủ sáu tuổi là người
chưa có năng lực hành vi,cho nên mọi giao dịch của người này đều do người đại
diện xác lập hoặc thực hiện.
* Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự
a) Mất năng lực hành vi dân sự
Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại,đang co môt hiện
tượng,một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng,sự vật đó nữa. Mất năng lực
hành vi dân sự được hiểu một cách đơn giản là một người đã có năng lực hành vi
dân sự nhưng vì một lí do nào đó mà năng lực hành vi dân sự của họ không còn
nữa.Thông thường,năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ mất đi khi người đó
chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Hay cũng có những trường hợp là cá nhân
đó vẫn còn tồn tại,là người thành niên nhưng bị Tòa án tuyên bố là mất năng lực
hành vi khi hội tụ đầy đủ các hành vi trong điều 22 BLDS: “Khi một người do bị
8


bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không làm chủ được nhận thức,lam chủ
được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan,Tòa
án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ
chức giám định…”
Người mất năng lực hành vi dân sự nên họ cũng không có khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi nên mọi giao dịch của người mất năng lực hành vi đều do
người đại diện xác lập và thực hiện. Tuy nhiên,trường hợp vì một lí do nào đó mà
một người bị mất năng lực hành vi dân sự nhưng nay lí do đó không còn nữa thì: “
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền,lợi ích liên quan,Tòa án ra

quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự”. Ví dụ như
anh A do gặp phải một cú sốc lớn nên đã bị mắc bệnh tâm thần,gia đình anh đã
yêu cầu Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi đối với anh A. Nhưng sau một thời
gian điều trị,anh A đã dần phục hồi và sức khỏe trở lại bình thường.Anh A và
những người có lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự đối với anh A.
b) Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Trường hợp hạn chế NLHVDS được quy định tại điều 23 của BLDS:
“ Người nghiện ma túy,nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan,cơ quan tổi
chức,Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự.
Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
và phạm vi đại diện do Tòa án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật.
Khi không có căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan,cơ qun,tổ chứ hữu
quan,Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi
dân sự.”
Năng lực hành vi trong trường hợp này hoàn toàn khác so với trường hợp
người có năng lực hành vi một phần. Ngươi có năng lực hành vi một phần là do họ
chưa đạt đến tuổi mà pháp luật quy định là có đầy đủ năng lực hành vi. Còn người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải tuân theo trình tự do pháp luật quy
định và áp dụng đối với người “nghiện ma túy,nghiện các chất kich thích khác dẫn
đến phá tán tài sản của gia đình”.
9


Lần đầu tiên vấn đề hạn chế năng lực hành vi dân sự được đề cập trong

BLDS. Quy định này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội,đặc biệt có tác dụng sâu sắc
trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Việc áp dụng quy định này thông qua
Tòa án sẽ tác động mạnh mẽ đến những người vô trách nhiệm với gia đình và xã
hội.
3. NLHVDS của cá nhân trong một số quan hệ pháp luật dân sự
BLDS đã quy định các mức độ năng lực hành vi khác nhau giúp chúng ta có
thể biết được chủ thể nào được phép tham gia vào giao dich dân sự,tham gia với
mức độ nào. NLHVDS của cá nhân trong một số giao dịch thể hiện như thế nào?
3.1 Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
Vấn đề này được quy định tại điều 606 BLDS. Như vậy,theo quy định thì
người đã thành niên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hành vi do
mình gây ra. Còn người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại thì người có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là cha mẹ,người giám hộ. Còn người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi là người có năng lực hành vi một phần nên họ cũng phải bồi thường thiệt hại
bằng tài sản của mình,nếu không đủ thì cha mẹ sẽ phải bồi thường phần còn thiếu
của tài sản chưa đủ. Người chưa thành niên,mất NLHVDS gây thiệt hại khi đang
chịu sự quản lí của trường học,bệnh viện,các tổ chức khác thì những tổ chức đó
phải bồi thường. Còn nếu các tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi
trong quản lí thì sẽ không phải bồi thường (điều 621 BLDS).
NQ 03/2006/NQ-HĐTP quy định:
• Trường hợp quy định tại khoản1 điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là
bị đơn dân sự,trừ khi họ bị mất năng lực hành vi dân sự.
• Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 điều 606 BLDS thì cha mẹ
của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự
• Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 điều 606 BLDS thì người
gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha mẹ của người gây thiệt hại có
quyền,nghĩa vụ liên quan.
• Trong trường hợp quy định tại khoản 3 điều 606 BLDS thì cá nhân,tổ chức
giám hộ là bị đơn dân sự.
Hành vi pháp lí đơn phương.

* Năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc lập di chúc:
Lập di chúc là một trong những hình thức định đoạt quyền sở hữu tài sản
của cá nhâ,vì thế người lập di chúc phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ. Khoản 1 điều 647 BLDS có quy định: “Người đã thành niên có quyền lập di
chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
10


nhận thức và làm chủ hành vi của mình”. Như vậy, chỉ những người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ mới có quyền lập di chúc, còn những người mắc bệnh tâm
thần hoặc những bệnh khác không làm chủ được hành vi thì không được lập di
chúc. Quy định như vây là hoàn toàn hợp lí bơỉ những người mất năng lực hành vi
dân sự rõ ràng không thể thể hiện được ý chí, nguyện vọng của mình trong giao
dịch. Với những người có NLHVDS một phần,pháp luật cũng có trương hợp
ngoại lệ quy định tại khoản 2 điều 647: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
18 tuổi có thể lập di chúc,nếu được cha,mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”.Như
vậy,những người này tuy họ chỉ mới có năng lực hành vi dân sự một phần nhưng
họ cũng đã có sự nhận thức nhất định và pháp luật cũng phải thừa nhận quyền
được định đoạt tài sản của họ. Theo quy định của BLDS thì cá nhân có năng lực
hành vi dân sự một phần chỉ được lập di chúc bằng văn bản chứ không công nhận
hình thức di chúc miệng. Như vậy, sự đồng ý của cha mẹ, hoặc người giám hộ đối
với việc lập di chúc là rất cần thiết bởi vì bản di chúc của người chưa thành niên
chỉ có giá trị pháp lí khi có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ. Nếu cha
mẹ còn sống thì phải có sự đồng ý của cha mẹ,nếu chỉ còn lại một người thì phải
có sự đồng ý của người đó.
* Năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong hứa thưởng, có giải.
Hứa thưởng, có giải là hành vi pháp lí đơn phương có nhiều chủ thể cùng
tham gia vào một bên giao dịch. Trong nhiều trường hợp,hành vi pháp lí đơn
phương chỉ phát sinh hậu quả khi có những người khác đáp ứng những điều kiện
nhất định do người xác lập giao dịch đưa ra và những người tham gia phải đáp

ứng điều kiện đó. Hứa thưởng,có giải là hành vi pháp lí đơn phương thể hiện ý chí
của một bên(bên hứa thưởng) làm phát sinh,thay đổi,chấm dứt quyền,nghĩa vụ dân
sự. Do đó,bên hứa thưởng,có giải phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,có khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi thì mới thể hiện được ý chí của mình. Để
hứa thưởng có giải có hiệu lực thì nội dung và hình thức phải phù hợp với điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại điều 22 BLDS. Và chỉ những
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì mới được tham gia vào giao dịch hứa
thưởng, có giải.
3.3 Trong quan hệ giám hộ:
Những người được giám hộ được quy định tại điều 58 của BLDS. Theo đó
thì ta có thể thấy:
Thứ nhất, những người bắt buộc phải có người giám hộ bao gồm: người mất
năng lực hành vi dân sự,người dưới mười lăm tuổi không còn cha mẹ,không xác
định được cha mẹ hoặc cha mẹ đều mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS.
11


Thứ hai,người được giám hộ theo yêu cầu của cha mẹ khi cha mẹ không có
điều kiện chăm sóc,giáo dục người chưa thành niên.
Thứ ba,những người từ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi không bắt
buộc phải có người giám hộ nếu như họ phát triển bình thường về thể chất.
- Đối với cá nhân có NLHVDS một phần: người giám hộ với tư cách là
người đại diện sẽ kiểm soát việc thực hiện các giao dịch cho người được thực hiện
dưới hình thức đồng ý việc thực hiện giao dịch. Người giám hộ có quyền yêu cầu
tuyên bố giao dịch dân sự do người được giám hộ thực hiện là vô hiệu nếu chưa
có sự đồng ý của người giám hộ.
- Đối với người chưa có năng lực, mất NLHVDS: Với tư cách là đại
diện,người giám hộ tự mình thực hiện các giao dịch vì lợi ích của người được
giám hộ.
Chế định giám hộ sẽ khắc phục được tình trạng của người có năng lực hành

vi dân sự nhưng không thể bằng hành vi của mình mà có thể tự mình xác lập,thực
hện quyền và nghĩa vụ của họ vì họ là những người không có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
3. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân có yếu tố nước ngoài
NLHVDS của người nước ngoài đươc xác định theo pháp luật của nước mà
nguời đó là công dân,trừ trường hợp pháp luật của Viêt Nam có quy định khác.
Theo quy định của tại Điều 7 Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 thì trong
trường hợp người nước ngoài xác lập,thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam,thì
năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo quy định tại các
điều từ 19 đến điều 25 của BLDS Việt Nam.
NLHVDS của người không quốc tịch được xác định theo pháp luật của
nước nơi người đó cư trú,nếu không có nơi thường trú thì xác định theo pháp luật
Việt Nam. NLHVDS của người nước ngoài có từ hai quốc tịch nước ngoài trở lên
được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và thường trú tại
thời điểm phát sinh quan hệ dân sự. Còn nếu người đó không cư trú tại một trong
các nước mà người đó có quốc tịch thì xác định theo pháp luật của nước mà người
đó có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất về mặt nhân thân hoặc tài sản.
III. Áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam năm 2005 về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân
1.Thực trạng pháp luật và áp dụng luật trong thực tiễn
a) Thực trạng pháp luật:
Trong nhiều năm thực hiện và áp dụng BLDS năm 2005,chúng ta cũng đã
thấy được những ưu điểm đáng kể của pháp luật thế nhưng thực tiễn áp dụng pháp
12


luật cho thấy một số quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân vẫn còn nhiều điểm bất hợp lí. Cụ thể như sau:
Thứ nhất,quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa đủ sáu tuổi thì
Điều 21 BLDS có quy định: Người chưa đủ sáu tuổi không có NLHVDS. Giao

dịch của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập thực
hiện”. Như vậy là có phần chưa hợp lí vì những người này chỉ chưa đủ tuổi do
pháp luật quy định, lúc này họ chưa có năng lực hành vi nhưng sau này họ sẽ có
chứ không phải là không có như luật định do vậy đây là một điểm chưa hợp lí.
Thứ hai,quy định về người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Như đã phân
tích ở trên thì điều 19 BLDS cần sửa đổi theo hướng quy định người chưa thành
niên nếu có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi là người có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ. Như vậy,vừa loại trừ được trường hợp quy định tại điều 22 và
điều 23 của BLDS lại vừa loại trừ được trường hợp người đã thành niên nhưng
mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng
chưa bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi hay bị hạn chế NLHVDS đầy đủ.
Trong điều 22 và điều 23 BLDS có quy định: “ người bị mắc bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác…”, “người nghiện ma túy,nghiện các chất kích thích
khác…”. Như vậy,quy định ở đây còn chung chung nên việc áp dụng pháp luật sẽ
gặp khó khăn. Do vậy,cần bổ sung “các bệnh khác”, “các chất kích thích” là bệnh
gì,chất kích thích nào?
b) Áp dụng luật trong thực tiễn:
“ Tai biến mạch máu não có được coi là hạn chế năng lực hành vi dân
sự hay không?”
Nội dung vụ việc cụ thể như sau: Ngày 29/09/2011,bà Nguyễn Thị Phương
sinh năm 1959 ở số 12/43 Lê Đại Hành,phường Hoàng Văn Thụ,quận Hồng
Bàng,TP Hải Phòng có đơn yêu cầu tòa án tuyên bố : Bà Bùi Thị Mai sinh năm
1937 ở thôn Trang Quan,xã An Đồng,huyện An Dương,TP Hải Phòng bị hạn chế
NLHVDS từ tháng 3/2008 đến trước ngày 20/6/2011 và hiện tại bố mất năng lực
hành vi dân sự.
Bà Phương trình bày: Năm 1965 mẹ đẻ bà là bà Nguyễn Thị Đức mất,bố đẻ
là ông Nguyễn Đức Bình sống với bà Bùi Thị Mai. Kể từ đó,bà Mai chung sống
và nuôi dạy các con của ông Bình trưởng thành tại xã An Đồng.
Năm 2005 do tuổi cao sức yếu nên bà Nụ bị tai biến mạch máu não lần một
được điều trị tại bệnh viện một thời gian. Đến tháng 3/2008,bà Nụ bị tái phát lần

hai dẫn đến liệt nửa người,lẩn thẩn,không minh mẫn. Ngày 7/9/2009 bà Nụ lại tái
phát bệnh tai biến lần thứ ba,điều trị một thời gian bệnh viện trả về.Thời điểm đó
13


hoàn toàn không nhận thức được cũng như điều khiển hành vi của mình. Tất cả
sinh hoạt đều do các con chăm sóc,bản than bà Mai cũng không biết ăn biết
uống,hỏi không nói,không trả lời được. Tại thời điểm hiện nay,bà Mai cũng không
nhận thức hay điều khiển hành vi của bản than.
Tại kết luận giám định pháp y ngày 14/7/2011 của trung tâm pháp y Hải
Phòng kết luận: Bà Bùi Thị Mai đã bị tai biến mạch máu não do tăng huyết áp
nhiều lần,kèm theo có teo não người già,bệnh tiến triển ngày càng nặng lên.
Ngày 01/11/2011bà Phương có đơn rút một phần yêu cầu,đề nghi Tòa án
nhân dân huyện An Dương quyết định tuyên bố bà Mai bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự từ tháng 3/2008 đồng thời xác định người đại diện theo pháp luật cho bà
Mai.
Sau khi diễn ra vụ việc trên đã có nhiều các quan điểm khác nhau:
- Quan điểm thứ nhất: theo quy định tại khoản 1 Điều 22, khoản 1 Điều 23
BLDS và khoản 1 Điều 319 Bộ luật tố tụng dân sự thì người có quyền,lợi
ích liên quan,cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Điều
23 BLDS không quy định việc hạn chế năng lực hành vi của người bị bệnh
não nhưng nếu có kết luận giám định của cơ quan chuyên môn về việc
người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì kết luận giám định của cơ
quan chuyên môn là căn cứ để Tòa án tuyên bố một người bị mất năng lực
hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Quan điểm thứ hai: Việc bà Mai bị tai biến máu não đã có kết luận của cơ
quan chuyên môn vào tháng 3/2008 đến 20/6/2011 là hạn chế năng lực hành
vi dân sự và từ 20/06/2011 trở đi bà Mai mất hoàn toàn khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi. Theo quy định tại Điều 22 thì trường hợp này đủ căn

cứ tuyên bố bà Mai mất năng lực hành vi dân sự nhưng trường hợp này thì
bà Phương lại chỉ yêu cầu Tòa án tuyên bố bà Mai bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Tuy nhiên với yêu cầu trên của bà Phương thì không có căn cứ
pháp luật để tuyên bố bà Mai hạn chế năng lực hành vi dân sự. Bởi theo quy
định tại Điều 23 BLDS năm 2005 thì những người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự phải là người nghiện ma túy,nghiện các chất kích thích dẫn đến
phá tan tài sản của người khác thì theo yêu cầu có quyền,lợi ích lien
quan,cơ quan,tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bô là
người hạn chế NLHVDS. Trong trường hợp này, Tòa án bác yêu cầu tuyên
bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự của bà Phương.
14


- Theo tác giả của bài viết này, đối với bất kì ai được xem là có bệnh hay
không bệnh,bệnh nặng hay bệnh nhẹ …đều phải nghe kết quả chẩn đoán của
bác sĩ, của cơ quan có chuyên môn. Trong trường hợp này, bà Mai với những
triệu chứng lẩn thẩn,không minh mẫn,tỉnh táo đã nhiều lần điều trị tại các bệnh
viện nhưng không có kết quả tiến triển lâm vào tình trạng hạn chế NLHVDS
như trung tâm giám định pháp y thành phố Hải Phòng đã kết luận là có cơ sở.
Điều 22,23 BLDS không quy định trường hợp tai biến mạch máu não như trên
là hạn chế năng lực hành vi dân sự đã vô trình trở thành sợi dây trói buộc đối
với tất cả những ai như bà Mai sẽ chỉ có thể chờ đến lúc mất NLHVDS mới
được Tòa án tuyên bố mất năng lực.
Như vậy,theo ý kiến của em thì các nhà làm luật cần sửa đổi, bổ sung rõ hơn
“ các bệnh khác” ở Điều 22, 23 của BLDS ở đây là bệnh gì. Việc quy định còn rất
chung chung nên gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật và dễ dẫn đến việc
có những quan điểm đối lập nhau.
2. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân
- Một là : đề ra phương hướng sửa đổi,bổ sung,hoàn thiện pháp luật về năng lực

hàh vi dân sự của cá nhân và tạo tiền đề cho các hoạt động áp dụng pháp luật được
tiến hành một cách dễ dàng,thuận tiện,đạt hiệu quả.
- Hai là : nâng cao hiệu quả công tác xét xử các vụ án dân sự liên quan tới năng
lực hành vi dân sự của cá nhân
- Ba là : cần nâng cao công tác tuyên truyền,phổ biến pháp luật trong quần chúng
nhân dân,giúp họ nhận thức được và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình,của các tổ chức,của nhà nước nhằm chống lại hành vi xâm phạm tới quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
- Bốn là : BLDS cần quy định thêm về trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với người mất năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện.
- Năm là : giải pháp áp dụng pháp luật. Bên cạnh việc thực hiện các quy định của
pháp luật thì một giải pháp không thể thiếu là nâng cao trình độ chuyên môn,kĩ
năng hành nghề của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử. Việc áp dụng đúng hay
sai phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ này.Từ đó các quy định của BLDS nói
riêng,quy định của pháp luật nói chung có thể đi vào thực tiễn,đảm bảo được công
bằng xã hội.

15


KẾT LUẬN
Qua bài làm trên, chúng ta thấy rằng : việc hoàn thiện các chế định pháp
luật ngày càng trở thành một yêu cầu khách quan trong xã hội ngày nay. Đặc biệt
về vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự
luôn là vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm. Việc quy định đầy đủ về năng lực
hành vi của cá nhân trong pháp luật hiện hành góp phần đưa xã hội ngày càng tiến
bộ và trình độ dân trí ngày càng đi lên.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao
động, Hà Nội,2013;
2. Bộ Luật dân sự năm 2005;
3. Trường đại học luật Hà Nội,Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập
I( Chương 2 phần B), Nxb.CAND, Hà Nội,2013;
4. TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang, Hướng dẫn môn học Luật dân
sự, Nxb Lao động;
5. 400 câu hỏi đáp về Bộ luật dân sự Việt Nam và bình luận khoa học bộ luật
dân sự Việt Nam.
6. Lê Đình Nghị( chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,tập I, NxB.Giáo
dục, Hà Nội,2009;
7. Đặng Thị Thắm, Khóa luận tốt nghiệp,năng lực hành vi dân sự của cá nhân
trong Bộ luật dân sự năm 2005, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội,2011;
8. Bộ Tư pháp- Viện Khoa học pháp lí, Một số vấn đề về pháp luật dân sự
Việt Nam từ thế kỉ XV đến thời Pháp thuộc,Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1998;
9. Các trang web:
/> /> />
17



×