Tải bản đầy đủ (.pdf) (328 trang)

Nghiên cứu bào chế và đánh giá tương đương sinh học viên phóng thích kéo dài chứa hoạt chất natri valproat và acid valproic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.44 MB, 328 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHÙNG CHẤT

NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ ĐÁNH GIÁ TƯƠNG
ĐƯƠNG SINH HỌC VIÊN PHÓNG THÍCH KÉO DÀI
CHỨA ACID VALPROIC VÀ NATRI VALPROAT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2017


iii

MỤC LỤC
Trang phụ bìa .............................................................................................................. i
Lời cam đoan .............................................................................................................. ii
Mục lục ...................................................................................................................... iii
Danh mục các chữ viết tắt ......................................................................................... iv
Danh mục các bảng .....................................................................................................v
Danh mục các hình và sơ đồ .......................................................................................x
Danh mục các biểu đồ ............................................................................................... xi
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................3
1.1. Hệ thống trị liệu phóng thích kéo dài đường uống ..............................................3
1.2 . Thuốc phóng thích kéo dài dạng khung matrix...................................................5


1.3. Acid valproic và natri valproat ...........................................................................13
1.4. Đánh giá sinh khả dụng và tương đương sinh học .............................................24
CHƯƠNG 2: NGUYÊN VẬT LIỆU, TRANG THIẾT BỊ, ĐỐI TƯỢNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..........................................................................29
2.1. Nguyên vật liệu, thiết bị & đối tượng nghiên cứu .............................................29
2.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................68
3.1. XÂY DỰNG CÔNG THỨC, QUY TRÌNH BÀO CHẾ VIÊN PTKD
CHỨA AV VÀ NV Ở QUI MÔ PHÒNG THÍ NGHIỆM....................................68
3.2. Nghiên cứu nâng cấp cỡ lô, xây dựng tiêu chuẩn và theo dõi độ ổn định .........91
3.3. Nghiên cứu tương đương sinh học in vivo ...................................................... 118
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ................................................................................... 133
4.1. Xây dựng tiêu chuẩn và thẩm định ................................................................. 133
4.2. Kỹ thuật bào chế.............................................................................................. 135
4.3. Sinh khả dụng và tương đương sinh học ......................................................... 141
4.4. Độ ổn định và tuổi thọ ..................................................................................... 145
KẾT LUẬN………………………………………………………………………147
KIẾN NGHỊ…………………………………………………………………...…149
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Acid valproic (AV) và natri valproat (NV) đã được sử dụng rộng rãi trong
điều trị các thể động kinh đơn giản và phức tạp. Có nhiều dạng bào chế khác nhau
của hoạt chất này được lưu hành ngoài thị trường như viên bao tan trong ruột, viên

nang cứng, viên nang mềm, thuốc tiêm, thuốc đặt, dung dịch uống... Các dạng bào
chế cổ điển của AV và NV đều có thời gian bán thải tương đối ngắn (từ 5-20 giờ)
2. Các đặc điểm dược động nêu trên đưa đến hệ quả là phải sử dụng thuốc nhiều
lần trong ngày, gây bất lợi trong việc tuân thủ liệu trình điều trị, cũng như tạo nên
những phản ứng phụ và độc tính trong quá trình sử dụng, nhất là trên hệ tiêu hóa và
độc tính trên gan.
Trong khi đó, dạng bào chế phóng thích kéo dài (PTKD) chứa hoạt chất này
đã giúp khắc phục hầu hết các nhược điểm vốn có của các dạng bào chế truyền
thống. Nhờ sự duy trì kéo dài nồng độ thuốc trong máu, sẽ giúp giảm liều dùng,
tăng hiệu quả điều trị. Chính nhờ những ưu điểm nổi trội đó mà dạng viên phóng
thích kéo dài của AV và NV đã được các Thầy thuốc chỉ định nhiều trong các phác
đồ điều trị chống động kinh và rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Thuốc hiện đã được đưa
vào thông tư số 40/TT-BYT (Danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của quỹ
bảo hiểm y tế) 1. Theo thống kê kết quả trúng thầu của các Bệnh viện tuyến Tỉnh
và Thành phố trực thuộc trung ương được công bố trên website của Cục Quản lý
dược Việt Nam, doanh thu các năm 2014 và 2015 của riêng các sản phẩm dạng viên
PTKD chứa AV và NV hàm lượng tương đương 500 mg natri valproat đạt được
tương ứng là 7,43 tỷ và 16,35 tỷ đồng. Nhu cầu điều trị trong nước hiện tại lệ thuộc
hoàn toàn vào nguồn nhập khẩu, vừa có giá thành cao và không ổn định, ảnh hưởng
đến chi phí điều trị của bệnh nhân (Depakine Chrono 500 mg có giá biến động từ
6.972 đồng - 7.300 đồng/1viên; Encorate Chrono 500 mg có giá từ 2.500 đồng–
3.000 đồng/1viên).
AV có độ tan thấp (1,27 mg/ml nước) 40, 58, quá trình hòa tan do bị ion
hóa thành valproat khi xuống ruột. Vì vậy, sự hấp thu phụ thuộc vào pH của môi
trường tiêu hóa. Trong khi đó, NV dễ tan trong nước (2,5g/ml nước) 40, 58, quá


2
trình hòa tan và hấp thu diễn ra nhanh chóng khi thuốc tiếp xúc với môi trường dịch
thể. Việc dùng kết hợp 2 thành phần có độ tan và tốc độ hấp thu khác nhau của cùng

một dược chất (NV hấp thu nhanh, AV hấp thu chậm hơn do quá trình hòa tan phụ
thuộc vào pH) có thể giúp thuốc nhanh đạt được nồng độ trị liệu trong huyết tương,
đồng thời có thể duy trì kéo dài nồng độ dược chất trong khoảng trị liệu. Chính vì
vậy, trong dạng viên PTKD, thường phối hợp đồng thời 2 dược chất này dưới dạng
phức hợp hoặc hỗn hợp (theo các tỷ lệ mol là 2: 1 hoặc 1:1) để thiết kế sản phẩm.
Tuy nhiên, do những tính chất đặc biệt của từng dược chất (AV có dạng lỏng; NV
có dạng rắn nhưng rất háo ẩm) nên việc đưa vào bào chế dạng thuốc viên từ 2 thành
phần trên quả là một thách thức cho các nhà bào chế, đòi hỏi phải đầu tư nghiên cứu
kỹ càng và linh hoạt vận dụng sáng tạo các kỹ thuật bào chế trong quá trình nghiên
cứu sản phẩm. Có lẽ do những khó khăn đó, nên hiện tại chưa có nơi nào trong
nước sản xuất được dạng viên phối hợp 2 thành phần này.
Nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, cũng như góp phần phát triển dạng thuốc
PTKD, đề tài “Nghiên cứu bào chế và đánh giá tương đương sinh học viên
phóng thích kéo dài chứa hoạt chất natri valproat và acid valproic” đã được lựa
chọn để thực hiện với các mục tiêu nghiên cứu như sau :
1. Xây dựng công thức, quy trình bào chế viên phóng thích kéo dài chứa acid
valproic và natri valproat tương đương natri valproat 500 mg ở qui mô phòng thí
nghiệm.
2. Nâng cấp lên qui mô sản xuất lô 20.000 viên, xây dựng tiêu chuẩn chất
lượng và theo dõi độ ổn định sản phẩm.
3. Đánh giá tương đương sinh học so với thuốc đối chiếu Depakine Chrono
500 mg (thành phần chứa 145 mg acid valproic và 333 mg natri valproat, tương
đương với 500 mg natri valproat).


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. HỆ THỐNG TRỊ LIỆU PHÓNG THÍCH KÉO DÀI ĐƯỜNG UỐNG
Hệ thống trị liệu phóng thích kéo dài (PTKD) với đặc điểm kéo dài quá trình

giải phóng và hấp thu dược chất từ dạng thuốc, duy trì nồng độ dược chất trong
vùng điều trị trong một thời gian đủ dài. Nhờ đó, giảm số lần dùng thuốc, giảm tác
dụng phụ và độc tính, tạo sự thuận tiện cho bệnh nhân trong sử dụng và nâng cao
hiệu quả trị liệu, tạo ra đáp ứng lâm sàng ổn định, giúp kiểm soát tình trạng bệnh và
giảm chi phí điều trị cho bệnh nhân.
Hệ thống trị liệu PTKD có thể được phân loại dựa trên đặc điểm cấu trúc và
cơ chế giải phóng hoạt chất (GPHC) khác nhau, bao gồm: hệ PTKD theo cơ chế
khuếch tán (theo cấu trúc khung khuếch tán hoặc cấu trúc màng bao); hệ PTKD
theo cơ chế hòa tan (cấu trúc dạng khung hòa tan hoặc dạng màng bao hòa tan); hệ
PTKD theo cơ chế bơm thẩm thấu (qua màng xốp hoặc màng khoan lỗ); hệ PTKD
theo cơ chế nhựa trao đổi ion.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật về hiệu quả trị liệu, hệ thống PTKD vẫn còn
có một số điểm lưu ý trong quá trình sản xuất cũng như sử dụng. Dạng thuốc này
đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật công nghệ cao và các trang thiết bị sản xuất hiện
đại. Việc chọn lựa dược chất để bào chế đòi hỏi phải có sự chọn lọc, quá trình dùng
thuốc phải thận trọng và thông tin hướng dẫn sử dụng phải thật rõ ràng. Khi có
những sai sót trong kỹ thuật bào chế hoặc sử dụng có thể sẽ dẫn đến những thất bại
trong đáp ứng lâm sàng so với ý đồ thiết kế ban đầu 17.
1.1.1. Các tính chất hóa lý và sinh học của dược chất trong hệ PTKD
1.1.1.1.Yếu tố sinh học
Thời gian bán thải sinh học
Khi đạt nồng độ ổn định trong máu, tốc độ hấp thu thuốc bằng với tốc độ thải
trừ. Tốc độ thải trừ được ước lượng thông qua thời gian bán thải (t1/2), các dược chất
có thời gian bán thải ngắn (2 giờ - 8 giờ) thường là sự lựa chọn tốt nhất để thiết kế
dạng phóng thích kéo dài, do làm giảm số lần dùng thuốc. Các dược chất có thời
gian bán thải dài thường không phù hợp cho thiết kế dạng phóng thích kéo dài, do


4
bản thân dược chất đã có tác dụng kéo dài 60.

Đặc tính hấp thu
Đặc tính hấp thu của dược chất bao gồm tốc độ, mức độ và sự đồng nhất trong
hấp thu là những yếu tố quan trọng khi lựa chọn thiết kế dạng PTKD. Để đạt được
sinh khả dụng mong muốn, quá trình hấp thu của dược chất cần phải đạt được sự
đồng nhất trên toàn bộ chiều dài của hệ tiêu hóa. Như vậy, các trường hợp dược
chất có tốc độ hấp thu chậm, hoặc có đặc tính hấp thu đặc biệt như hấp thu theo cơ
chế chủ động, hoặc sự hấp thu chỉ xảy ra ở một vùng đặc biệt trong hệ tràng vị thì
sẽ không thích hợp để thiết kế các da ̣ng PTKD 17
1.1.1.2. Yếu tố hóa lý
Hệ số phân bố
Hệ số phân bố dầu/nước là yếu tố quyết định khả năng thấm qua màng sinh
học của dược chất (màng phospholipid), do đó có ảnh hưởng đến sinh khả dụng của
thuốc. Các chất có hệ số phân bố quá cao (thân dầu), có xu hướng bị giữ lại trong
lớp lipid khi thấm vào màng. Ngược lại, các chất có hệ số phân bố thấp (thân nước)
sẽ bị giữ lại lâu hơn trong pha nước tại điểm hấp thu, trong cả 2 trường hợp trên,
dược chất sẽ không thích hợp để thiết kế thuốc PTKD. Giá trị hệ số phân bố được
cho là lý tưởng của dược chất để thiết kế dạng PTKD là khoảng 1000 : 1 92. Hệ số
phân bố còn liên quan đến khả năng khuếch tán của dược chất từ hệ thống kiểu
khung và bể chứa ra môi trường ngoài.
Cỡ liều
Cỡ liều cùng với độ tan có ảnh hưởng đáng kể đến động học GPHC. Sự ảnh
hưởng của liều khởi đầu lên động học GPHC là phức tạp hơn đối với các trường
hợp hoạt chất kém tan. Các thuốc PTKD thường có cỡ liều lớn hơn dạng qui ước,
thông thường đối với các thuốc có cỡ liều lớn (>200 mg) thường không thuận lợi
khi điều chế dạng PTKD vì thể tích thuốc quá lớn, gây khó khăn cho bệnh nhân khi
uống hoặc tiêm bắp 17, 60
Độ ổn định của dược chất
Các dược chất kém bền trong dạ dày là đối tượng phù hợp để thiết kế hệ



5
PTKD. Ngược lại, các dược chất kém ổn định trong ruột non khi thiết kế dạng
PTKD sẽ có nguy cơ làm giảm sinh khả dụng của thuốc 34.
Hằng số pKa và độ tan trong nước
Hầu hết các dược chất làm thuốc có bản chất là các acid hoặc base yếu và để
được hấp thu, hoạt chất cần phải được hòa tan trong dịch tràng vị. Vì vậy, độ tan,
tốc độ hòa tan và hằng số pKa của dược chất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự hấp thu.
Thông thường, dạng PTKD được thiết kế với dược chất có độ tan có độ tan trung
bình và hơi khó tan. Các dược chất có độ tan trong nước từ 0,1 mg/ml trở lên tương
đối phù hợp 60.
Kích thước phân tử và khả năng khuếch tán qua màng
Sự khuếch tán của dược chất qua màng polyme hoặc khung matrix giúp kiểm
soát sự GPHC trong hệ PTKD. Khả năng khuếch tán dược chất được đánh giá bằng
hệ số khuếch tán, kích thước phân tử dược chất, kích thước và hình dạng các ống
mao dẫn trên màng. Các dược chất có kích thước phân tử trung bình từ 100 – 400
Daltons có khả năng khuếch tán linh hoạt trong hầu hết các polyme. Ngược lại, các
dược chất có kích thước trên 500 Daltons lại có hệ số khuếch tán trong nhiều
polyme rất nhỏ (nhỏ hơn 10-12 cm2/ giây) 88.
Sự liên kết protein huyết tương
Tác dụng trị liệu của thuốc được quyết định bởi nồng độ thuốc tự do trong
máu. Các dược chất liên kết mạnh với protein huyết tương có khuynh hướng kéo
dài thời gian bán thải sẽ không thích hợp cho thiết kế hệ PTKD 29.
1.2 . THUỐC PHÓNG THÍCH KÉO DÀI DẠNG KHUNG MATRIX
Khung matrix là hỗn hợp phân tán đồng nhất của dược chất và tá dược, trongđó
polyme tạo khung kiểm soát sự GPHC. Phương trình cơ bản mô tả động học GPHC
dạng khung matrix được phát triển lần đầu tiên bởi Higuchi 38.
Trong số các dạng thuốc PTKD dùng đường uống phổ biến trên thị trường
hiện nay, dạng thuốc viên có cấu trúc khung đang được quan tâm phát triển nhiều
nhất, bởi sự linh động, tính đa dạng trong thiết kế, đặc biệt là phương pháp bào chế
đơn giản, chủ yếu vận dụng các thiết bị sản xuất và kỹ thuật bào chế đơn giản như



6
tạo hạt, dập viên,…Cấu trúc của viên nén loại này được gọi là dạng khung để phân
biệt với các cấu trúc dạng viên khác là bể chứa, thẩm thấu,…
Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, đã có nhiều công trình nghiên
cứu dạng thuốc viên PTKD khung matrix đã được công bố, có thể kể đến các công
trình nghiên cứu trên các hoạt chất như metformin hydrochlorid 6, 21; gliclazid
7; ibuprofen 8; trimetazidin hydrochlorid 9; indapamid 10; propranolol 11;
cefaclor 13; verapamil hydroclorid 18; vitamin C 19; glipizid 20...
1.2.1. Cấu trúc và cơ chế GPHC của thuốc PTKD dạng khung
Viên nén dạng khung có thể được phân loại dựa theo tính chất vật lý của
khung (khung trương nở; khung ăn mòn), hoặc theo cơ chế phóng thích dược
chất,...Với cách phân loại theo cơ chế phóng thích, dạng khung được chia thành 2
loại là khung trơ khuếch tán (sự phóng thích theo cơ chế khuếch tán) và khung hòa
tan - ăn mòn (sự giải phóng theo cơ chế hòa tan). Tuy nhiên, cách phân loại này
cũng chưa hoàn toàn đúng, nhất là đối với dạng khung hòa tan - ăn mòn, có thể sự
GPHC được kiểm soát bằng hỗn hợp cơ chế là khuếch tán và hòa tan - ăn mòn 16,
17, 73, 118.
1.2.1.1. Thuốc PTKD dạng khung trơ khuếch tán
Cấu tạo
Về cấu tạo, khung trơ khuếch tán tạo thành bởi các polyme không tan hoặc hợp
các chất thân dầu. Dược chất dạng hòa tan hay tiểu phân rắn được phân tán đồng nhất
trong khối polyme 29, 56, hoặc sự phân tán có thể được thực hiện bởi khối polyme
nung chảy hoặc hòa tan trong dung môi dễ bay hơi. Sau khi để nguội hoặc bốc hơi
dung môi, khối rắn thu được có thể xát hạt, dập viên hoặc đóng nang 113.

Hình 1. 1. Cấu trúc hệ thống khung trơ khuếch tán.



7
Tá dược tạo khung
Tá dược sử dụng chủ yếu trong tạo khung trơ khuếch tán là các polyme không
tan trong nước hoặc nhóm hợp chất thân dầu.
- Nhóm các polyme không tan gồm: các acrylat copolyme (Eudragit RL,
Eudragit RS), ethyl cellulose (Ethocel), polyvinyl acetat (Kollidon SR). Tỉ lệ sử
dụng tạo khung thay đổi từ 10 – 50 % , thậm chí có thể đạt đến 80 % tùy theo độ
tan của dược chất 69, 89. Có thể dùng phối hợp các polyme cùng nhóm hoặc với
các polyme thân nước, hoặc với các tá dược khác (tá dược độn, chất diện hoạt, chất
thay đổi pH,…) để tạo thành nhiều loại khung có cơ chế kiểm soát khuếch tán hay
kết hợp cả 2 cơ chế khuếch tán và hòa tan - ăn mòn 46, 106.
- Nhóm sáp và tá dược thân dầu : gồm các loại sáp (sáp carnauba, sáp thầu dầu,
sáp ong,…), các chất béo cao phân tử (stearyl alcohol, acid stearic,…), polyethylen
glycol monostearat, các dẫn chất triglycerid cũng được sử dụng khá phổ biến trong
tạo khung kiểm soát giải phóng kéo dài (Compritol ATO 888, Precirol ATO 5,…)
22, 43 . Nhóm hợp chất thân dầu có cơ chế hoạt động là tạo khung trơ không tan,
dược chất khuếch tán qua các lỗ, ống mao quản của khung xốp.
Kỹ thuật bào chế chủ yếu theo phương pháp đun chảy tạo khung 113. Một
điều thuận lợi là hầu hết các tá dược thân dầu sử dụng phổ biến đều khá bền với
nhiệt: sáp thầu dầu không bị biến tính ở nhiệt độ 150oC, stearyl alcohol là 100oC và
sáp carnauba là 160oC 36, 50. Trong quá trình sản xuất viên nén với khung trơ
thân dầu, khả năng trơn chảy của hạt bị hạn chế và dễ gây dính chày khi nén viên.
Vì vậy, cần thêm các tá dược trơn, chống dính vào hạt theo các tỷ lệ phù hợp (talc,
silicon dioxyd) và phải nén viên trong môi trường có nhiệt độ thấp. Trong quá trình
nén viên, các sáp tan chảy tạo một màng mỏng bao quanh tiểu phần viên, có tác
dụng như một màng bao hoạt chất 12.
Cũng như các nhóm polyme khác, tá dược nhóm thân dầu có thể dùng phối
hợp cùng hoặc khác nhóm, tạo ra các loại khung trơ có đặc tính kiểm soát dược chất
khác nhau như hỗn hợp sáp carnauba - stearyl alcohol (1:1); Sáp carnauba – acid
stearic (1:1),…Hoặc có thể linh động phối hợp với các polyme thân nước (HPMC,



8
HPC, alginat, gôm xanthan) 78, 80, hoặc polyme sơ nước (Eudragit, Kollidone
SR hoặc ethylcellulose) 52, 59, 86 để điều chế nhiều dạng khung có đặc tính
phóng thích thay đổi, phù hợp với nhiều loại dược chất khác nhau. Ngoài ra, để cải
thiện tính chất thân nước của bề mặt khung trơ, tùy theo độ tan của dược chất và tốc
độ phóng thích mong muốn, có thể thêm các tá dược thân nước vào thành phần cấu
tạo khung như natri clorid, chất diện hoạt, các polyol, polyme thân nước,…Các tá
dược này ngoài vai trò tạo ra các kênh khuếch tán trên bề mặt khung, còn có thể
giúp khung bị bào mòn dần trong đường tiêu hóa 83.
Cơ chế kiểm soát GPHC
Về cơ chế GPHC, khung trơ khuếch tán kiểm soát theo cơ chế khuếch tán như
sau: Sau khi uống thuốc vào cơ thể, bề mặt của thuốc bị hydrat hóa bởi dịch tiêu
hóa tạo thành lớp gel bao lấy viên thuốc, hoạt chất trên bề mặt viên sẽ được khuếch
tán ra ngoài. Nước càng thấm sâu vào trong nhân, sẽ làm tăng bề dày lớp gel, dược
chất sẽ tiếp tục được khuếch tán ra bên ngoài qua các ống mao quản tạo bởi lớp gel
polyme. Khi hết dược chất, khung trơ sẽ đào thải theo phân ra ngoài. Đối với khung
trơ khuếch tán, dược chất phải có độ tan thích hợp.
1.2.1.2. Thuốc PTKD dạng khung hòa tan – ăn mòn
Cấu tạo
Thuốc PTKD dạng khung hòa tan – ăn mòn chủ yếu được bào chế từ các
polyme thân nước. Khung có thể được điều chế bằng cách phân tán đồng nhất dược
chất (dạng hòa tan hoặc tiểu phân rắn) trong khối polyme và các chất tạo khung
khác trước khi đem nén viên trực tiếp hoặc xát hạt trước khi dập viên 29, 56.

Hình 1. 2. Cấu tạo hệ khung hòa tan – ăn mòn


9

Tá dược tạo khung
Tá dược sử dụng nhiều nhất trong thiết kế tạo khung hòa tan - ăn mòn là nhóm
polymer thân nước, gồm:
- Các polyme thiên nhiên và bán tổng hợp được sử dụng như natri alginat,
gôm xanthan, gôm guar, chitosan,…33.
- Các polyme tổng hợp như poly (acrylat) với tên thương mại là Carbopol,
polyethylene oxid, poly (vinyl alcohol), poly (hydroxyethylmethacrylate). Trong số
này, Carbopol được dùng phổ biến hơn để tạo khung kiểm soát sự GPHC. Carbopol
có nhiều dạng khác nhau dựa trên mức độ liên kết chéo trong cấu tạo (Carbopol
934; Carbopol 971; Carbopol 71G). Tùy theo độ tan của dược chất, tỷ lệ sử dụng
Carbopol thay đổi từ 10 - 20 %. So với các cellulose ether ở cùng nồng độ sử dụng,
Carbopol cho hiệu quả kiểm soát GPHC kéo dài hơn 35, 74.
- Các polyme tổng hợp thuộc nhóm dẫn chất của cellulose ether như HPMC,
Hydroxypropyl cellulose, natri carboxymethylcellulose. Trong đó, HPMC là
polyme được dùng phổ biến nhất bởi các ưu điểm như sau: không độc và trơ về hóa
học, được chấp nhận trên toàn cầu, dễ sử dụng với kỹ thuật bào chế thông thường,
không ion hóa nên ít bị tác động bởi yếu tố bên ngoài như môi trường acid, base hay
hệ thống điện giải trong đường tiêu hóa, dễ phối hợp được với nhiều loại tá dược
khác nhau trong bào chế 32.
HPMC sử dụng trong tạo khung hòa tan - ăn mòn, đa dạng với kích thước
phân tử và độ nhớt khác nhau. Các loại sử dụng trong các công thức giải phóng có
kiểm soát thông thường có độ nhớt thay đổi từ 50 – 100000 mPas ở 200C.
Về cấu trúc, HPMC chứa 2 nhóm thế là methyl và hydroxypropyl (hình 1.3).

Hình 1. 3. Công thức cấu tạo của HPMC.


10
HPMC được kí hiệu bằng một số gồm 4 chữ số, hai chữ số đầu chỉ phần trăm
nhóm methoxy (-OCH3), hai chữ số sau chỉ phần trăm nhóm hydroxypropoxy (OCH2CHOHCH3). Nhóm hydroxypropoxy là phần thân nước, nhóm methoxy là

phần sơ nước. Tỷ lệ giữa hai nhóm thế này có ảnh hưởng đến độ thân nước và khả
năng hydrat hóa của polyme, do đó ảnh hưởng đến kiểm soát sự GPHC. HPMC
chứa thành phần hydroxypropoxy cao hơn sẽ hydrat hóa tạo gel nhanh hơn.
Methocel (Dow Chemical) hay Metolose SR (Shint Etshu) là tên thương mại
của các loại HPMC được sử dụng rộng rãi hiện nay, các Methocel khác nhau về tỷ
lệ thành phần giữa nhóm thế methoxy và hydroxypropoxy. Các Methocel

E

(hypromellose 2910, USP) và Methocel K (hypromellose 2208, USP) là hai nhóm
thường được sử dụng trong thuốc PTKD, do có tỷ lệ nhóm hydroxypropoxy cao
hơn 95, 102, 114.
Độ nhớt của HPMC (đơn vị cps hoặc mPas) là yếu tố quan trọng, quyết định
sự bền vững của lớp gel. HPMC có độ nhớt càng cao, tạo lớp gel càng bền, tốc độ
khuếch tán qua lớp gel càng chậm và lớp gel càng khó bị ăn mòn 41.
HPMC được sử dụng rất đa dạng trong tạo khung hòa tan - ăn mòn kiểm soát
sự hòa tan và GPHC. Nồng độ và độ nhớt của HPMC là những yếu tố chính điều
khiển tốc độ hòa tan và GPHC của khung matrix theo cơ chế khuếch tán [99], [106].
Tùy theo độ tan của dược chất và tốc độ phóng thích mong muốn, tỷ lệ sử
dụng của HPMC thay đổi từ 10 – 80 %. Với những dược chất có độ tan cao, khi tỷ
lệ sử dụng đạt một ngưỡng nhất định, cần cân nhắc thêm yếu tố độ nhớt của polyme
để kiểm soát tốt tốc độ GPHC.
Những loại HPMC thích hợp cho các hoạt chất dễ tan gồm các loại có trọng
lượng phân tử và độ nhớt cao như 4.000 mPas (K 4M), 15.000 mPas (K 15M) và
100.000 mPas (K 100 M). Những HPMC có độ nhớt thấp hơn 100 mPas (K 100) và
50 mPas (E 50 LV) thường thích hợp cho những hoạt chất khó tan do cơ chế chính
của quá trình phóng thích là sự ăn mòn [106] .
HPMC K 15 M
Đây là polyme có trọng lượng phân tử và độ nhớt cao (độ nhớt 15.000 mPas).



11
Trên thị trường hiện có 2 thương phẩm là Methocel K15M Premium CR (Dow
Chemical , Hoa Kỳ) và Metolose 90SH 15000 SR (Shin Etshu, Nhật bản).
Trong bào chế viên PTKD dạng khung, HPMC K15M thường dùng để tạo
khung thân nước với tỷ lệ sử dụng thay đổi tùy theo độ tan của dược chất. Ví dụ,
với propranolol hydroclorid (nhóm I bảng phân loại sinh dược học) tỷ lệ sử dụng
của K 15M có thể đạt đến 40 % so với khối lượng viên để thiết kế được viên GPHC
kéo dài đến 12 giờ [90]. Ngoài ra, HPMC K15M có thể kết hợp với các polyme thân
nước khác để linh hoạt tạo ra các khung PTKD cho một số dược chất [63], [75].
HPMC 615
Polyme có trọng lượng phân tử và độ nhớt thấp (15 mPas). Thông thường
polyme này hay được dùng trong bao phim (kết hợp với HPMC 606). Tuy nhiên,
trong một số nghiên cứu bào chế dạng viên phóng thích kéo dài, HPMC 615 có thể
được dùng phối hợp với các polyme có độ nhớt cao hơn để thiết kế các loại khung
thân nước hòa tan - ăn mòn, phù hợp với độ tan của một số dược chất [91].
Bảng 1. 1. Độ nhớt của dung dịch 2 % (kl/kl) ở 20oC của một số HPMC.
Loại HPMC

JP/PhEur/USP

Độ nhớt (mPas)

Methocel K100 Premium LVEP

2208

100

Methcel K4M Premium


2208

4000

Methocel K15M Premium

2208

15000

Methocel K100M Premium

2208

100000

Methocel E15 Premium LV

2910

15

Methocel E50 Premium LV

2910

50

Methocel E4M Premium


2910

4000

Methocel E10M Premium CR

2910

10000

Methocel F50 Premium

2906

50

Methocel F4M Premium

2906

4000

Metolose 60 SH

2910

50, 4000, 10000

Metolose 65 SH


2906

50, 400, 1500, 4000

Metolose 90 SH

2208

100, 400, 4000, 15000


12
Cơ chế kiểm soát GPHC
Cơ chế kiểm soát GPHC từ khung hòa tan - ăn mòn thường là hỗn hợp các cơ
chế ăn mòn và khuếch tán và tùy thuộc vào độ tan của dược chất. Khi thuốc tiếp xúc
với môi trường, polyme bị hydrat hóa hình thành lớp gel bao quanh hoạt chất. Dịch
càng thấm sâu vào trong, quá trình hydrat hóa tiếp diễn và tạo lớp gel càng lúc dày
hơn để kiểm soát sự GPHC. Khi quá trình hydrat hóa hoàn tất, các chuỗi polyme trở
nên lỏng lẻo, dẫn đến ăn mòn bề mặt khung. Quá trình thấm dịch vào khung, sự
hydrat hóa tạo gel, sự ăn mòn dần khung và hòa tan dược chất từ các lớp ngoài vào
trong theo thời gian cứ thế tiếp diễn cho đến khi khung bị ăn mòn hoàn toàn.
Việc chọn cấu trúc thiết kế cho mỗi chế phẩm phải dựa trên độ tan của dược
chất. Với các dược chất ít hoặc không tan, quá trình GPHC không thể xảy ra theo cơ
chế khuếch tán, mà chủ yếu là do khung hòa tan hoặc ăn mòn. Ngược lại, các dược
chất có độ tan cao hơn, quá trình GPHC là do sự hòa tan và/hoặc khuếch tán của
dược chất ra khỏi khung. Do đó, có thể lựa chọn cả 2 dạng thiết kế phù hợp cho
trường hợp này là khung trơ khuếch tán hoặc khung hòa tan - ăn mòn.
Động học GPHC từ khung polyme thân nước phụ thuộc vào tính chất hóa lý
của lớp gel (tốc độ trương nở, bề dày và tính ổn định của lớp gel), độ tan trong nước

của dược chất, sự ăn mòn của khung trong môi trường thử. Các HPMC có phân tử
lượng càng lớn, trương nở càng chậm, hình thành lớp gel ổn định, giúp kiểm soát
kéo dài sự GPHC. Ngược lại, các HPMC phân tử lượng thấp có ưu điểm hydrat hóa
nhanh, tạo lớp gel kiểm soát GPHC ở các thời điểm đầu. Đã có nhiều nghiên cứu sử
dụng phối hợp 2 polyme thân nước có phân tử lượng cao, thấp trong tạo khung cho
các dược chất khác nhau, giúp kiểm soát sự GPHC ổn định và kéo dài 61, 116.
Trong phối hợp polyme tạo khung, cần lưu ý thêm đến độ nhớt của hỗn hợp.
Công thức xác định độ nhớt của hỗn hợp polyme được trình bày ở công thức (1.1):
1/8 = F1*11/8 + F2*21/8
Trong đó :


là độ nhớt của hỗn hợp 2 % trong nước tại 200C.

1, 2 là độ nhớt của từng thành phần polyme 2 % trong nước tại 200C.

(1.1)


13
F1, F2 là thành phần của từng polyme trong hỗn hợp [96].
HPMC cũng có thể sử dụng phối hợp với các polyme không tan 66, 105
hoặc hợp chất thân dầu 42, 78 để thiết kế các khung có bề mặt thân nước ở nhiều
mức độ khác nhau, cho phép kiểm soát hiệu quả hơn sự GPHC.
Bên cạnh phối hợp với các polyme và hợp chất thân dầu. Các HPMC còn có
thể linh động phối hợp với các loại tá dược khác trong thiết kế tạo khung (tá dược
độn, tá dược trơn bóng, chất diện hoạt, chất điều chỉnh pH,…), đặc biệt là các tá
dược độn vô cơ (dicanxi phosphat), cho phép làm thay đổi đáng kể tốc độ GPHC,
bởi do tá dược độn thường chiếm tỷ lệ khá cao trong công thức 14, 15, 115.
1.3. ACID VALPROIC VÀ NATRI VALPROAT

1.3.1.Tính chất lý hóa
Acid valproic
Tên gọi khác: acid valproic, acid 2-propylvaleric, acid di-n-propylacetic.
Tên khoa học: 2 - propylpentanoic acid.
Công thức phân tử: C8H16O2 (M = 144,2 g/mol).
Công thức cấu tạo:

Tính chất: chất lỏng, không màu đến vàng nhạt, hơi nhớt, có mùi đặc trưng, rất
bền vững với nhiệt, ánh sáng, dung dịch acid hay kiềm mạnh. Có độ tan thấp (1,27
mg/ml nước), tính thấm cao, hệ số pKa = 4,8, hệ số phân bố log P = 2,75 [40], [58].
Trong môi trường dạ dày, AV có độ tan thấp, bị hòa tan và ion hóa thành
valproat khi xuống môi trường ruột non. Do vậy, tốc độ hòa tan của AV trên đường
tiêu hóa sẽ quyết định tốc độ hấp thu của dược chất.
Natri valproat

Tên gọi khác: natri valproat, natri 2-propylvalerat, natri dipropylacetat.
Tên khoa học: natri 2-propylpentanoat.
Công thức phân tử: C8H15O2Na (M = 166,19 g/mol).


14
Công thức cấu tạo:

Tính chất : Tinh thể trắng, rất háo ẩm, bền với nhiệt, ánh sáng, dung dịch acid
hay kiềm mạnh. Tan tốt trong nước (2,5 g/ml), dễ tan trong cồn (0,67 g/ml), không
tan trong các dung môi hữu cơ như ether, cloroform, benzen, n-heptan [40], [58].
NV có độ tan và tính thấm cao (nhóm I bảng phân loại sinh dược học). Trong
môi trường dạ dày, NV chuyển thành AV có độ tan thấp. Khi xuống ruột, valproat
hòa tan và hấp thu nhanh chóng để đạt được nồng độ trị liệu. Do có độ tan cao nên
NV không thích hợp để bào chế dạng viên PTKD, thường được thiết kế dưới các

dạng thông thường như viên bao tan trong ruột, siro hay thuốc tiêm. Tuy nhiên, do
hấp thu nhanh và thời gian bán thải ngắn nên các thuốc dạng thông thường phải
dùng nhiều lần trong ngày.
1.3.2. Tính chất sinh học và tác dụng trị liệu
Dược động học
AV (hay NV) được hấp thu tốt qua đường uống, sinh khả dụng đạt gần 100 %.
AV chuyển thành ion valproat, hòa tan và hấp thu khi thuốc được đẩy xuống ruột.
Thức ăn có thể làm chậm quá trình hấp thu, nhưng không ảnh hưởng đến sinh khả
dụng của thuốc. Các thuốc kháng acid khi dùng chung có thể làm tăng AUC của
AV (tăng khoảng 12 %). Thuốc đạt nồng độ đỉnh trong máu 1 - 4 giờ sau khi uống.
Khoảng nồng độ trị liệu trong huyết tương của AV đạt trung bình từ 40 -100 mg/l.
Thuốc liên kết nhiều với protein huyết tương (khoảng 90 – 95 %). Tỷ lệ liên
kết giảm khi nồng độ thuốc tăng cao hơn trong máu. Thuốc chuyển hóa ở gan, chủ
yếu theo con đường glucuronic hóa, tạo ra hơn 10 dẫn chất. Tốc độ chuyển hóa
giảm ở trẻ em và các bệnh nhân đang sử dụng các thuốc ức chế enzyme gan. Do
vậy, cần điều chỉnh liều lượng khi sử dụng cho các đối tượng này. Độc tính chủ yếu
của thuốc trên gan, đặc biệt khi nồng độ thuốc trong máu vượt ngưỡng 200 mg/l.


15
Thuốc thải trừ qua thận, thời gian bán thải của AV thay đổi từ 5 - 20 giờ. Thời
gian bán thải ngắn hơn ở những bệnh nhân động kinh điều trị phối hợp nhiều thuốc
khác nhau. Ở trẻ em, thuốc thải trừ nhanh hơn người lớn [2].
Dược lực và cơ chế tác dụng
Tác dụng chống động kinh của AV được cho là thông qua chất ức chế dẫn
truyền thần kinh là acid gama – aminobutyric (GABA). AV có thể làm tăng nồng độ
GABA do ức chế chuyển hóa GABA hoặc làm tăng hoạt tính của GABA sau si náp.
Ngoài ra, AV còn kích thích sự phân cực màng tế bào thần kinh do làm tăng tính
thấm kênh K+. Do thấm được qua hàng rào máu não nhờ một chất trung gian vận
chuyển chủ động, nên AV có thể dùng trong nhiều loại cơn động kinh. Bên cạnh đó,

AV còn có tác dụng điều trị rất tốt thể rối loạn cảm xúc lưỡng cực [2].
Chỉ định
Thuốc được chỉ định trong các trường hợp sau:
Động kinh: Điều trị các thể động kinh ở người lớn và trẻ em trên 17 kg.
Hưng cảm: Điều trị và dự phòng hưng cảm trong các rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
Tác dụng ngoại ý
Đáng chú ý nhất là suy gan có thể dẫn đến tử vong ở người bệnh dùng acid
valproic. Sự cố này thường xảy ra trong 6 tháng điều trị đầu tiên (0,05 - 0,1%).
Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Cần tránh dùng cho phụ nữ có thai vì thuốc có thể gây quái thai. Nguy cơ cho trẻ bị
tật nứt đốt sống xấp xỉ 1- 2 %, những dị tật bẩm sinh khác là khuyết tật sọ mặt, dị tật
tim mạch hoặc bất thường về đông máu. Đã có thông báo về suy gan dẫn đến tử vong
ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ khi người mẹ dùng valproat trong khi mang thai. Thuốc có thể
vào sữa mẹ với nồng độ thấp (1 - 10 % nồng độ trong huyết tương). Các rối loạn về
máu cũng đã được báo cáo trên trẻ có mẹ đang điều trị bằng valproat.
Tương tác thuốc
Valproat có thể tương tác với nhiều loại thuốc khác khi sử dụng chung (thuốc
ức chế hệ thần kinh trung ương, thuốc chống động kinh, primidon, phenobarbital,
phenytoin, clonazepam,…). Do đó, cần thận trọng khi sử dụng phối hợp. Ngoài ra,


16
valproat có thể làm mất tác dụng của thuốc uống tránh thai khi dùng chung.
Liều dùng
Liều dùng (tính theo natri valproat) thay đổi theo tuổi và cân nặng của bệnh
nhân, liều khởi đầu thường là 10 -15 mg/kg/ngày. Liều tối ưu khoảng 20 – 30
mg/kg/ngày, có thể lên đến 50 mg/kg/ngày nhưng phải theo dõi cẩn thận.
1.3.3. Các nghiên cứu về bào chế viên PTKD chứa AV và NV
Để thiết kế dạng PTKD, các dược chất được lựa chọn thường có độ tan trung
bình hoặc hơi khó tan [17]. NV là dược chất có độ tan khá cao (2,5 g/ml), tính thấm

cao (thuộc nhóm I bảng phân loại sinh dược học). Vì vậy, nguyên liệu này sẽ không
phù hợp để bào chế dạng PTKD do khó làm giảm tốc độ hòa tan và làm chậm sự hấp
thu của nó. Mặc khác, tuy có dạng bột tinh thể rắn, nhưng với tính háo ẩm mạnh và
dễ vón cục hoặc chảy lỏng, nên NV cũng không phải là loại nguyên liệu thuận lợi
cho bào chế dạng thuốc viên.
Đối với AV, có độ tan thấp (1,27 mg/ml), quá trình hòa tan do chuyển thành ion
valproat khi thuốc di chuyển xuống môi trường ruột. Độ tan tốt nhất của AV đạt được
trong khoảng pH từ 5 - 8, sau đó giảm dần khi pH tăng cao hơn [28]. Như vậy, nếu
xét về độ tan, AV sẽ thích hợp hơn NV để bào chế dạng thuốc PTKD. Tuy nhiên,
với tính chất dạng lỏng nên nguyên liệu này sẽ gây nhiều khó khăn trong kỹ thuật bào
chế thành dạng thuốc viên .
Để khắc phục các nhược điểm của NV (độ tan cao, tính háo ẩm mạnh), AV
(dạng lỏng) và kết hợp các ưu điểm vốn có của từng thành phần (dạng bột tinh thể
của NV, độ tan phù hợp cho thiết kế dạng PTKD của AV). Sự phối hợp hai thành
phần trên nhằm tạo ra các phức hợp hoặc hỗn hợp dược chất có độ tan và sinh khả
dụng phù hợp cho thiết kế dạng viên nén PTKD (NV hòa tan sớm để tạo liều khởi
đầu, AV hòa tan chậm hơn để duy trì và kéo dài nồng độ thuốc trong máu).
Trong thực tế, đã có dạng nguyên liệu phức hợp AV và NV theo tỷ lệ đồng mol
(1:1) tạo thành phân tử divalproex natri có dạng bột tinh thể rắn, thuận lợi để bào chế
dạng viên nén PTKD bằng các kỹ thuật đơn giản như dập thẳng hoặc xát hạt ướt. Tuy
nhiên, sản phẩm dạng này hiện chưa có trên thị trường Việt Nam (Depakote® ). Một


17
dạng khác của sự phối hợp hai thành phần kể trên theo tỷ lệ NV : AV (2:1) đã có sản
phẩm dạng viên PTKD lưu hành phổ biến trên thị trường Việt Nam (Depakine
Chrono 500), đây thực chất là dạng phối hợp 02 thành phần dược chất có dạng rắn
(NV) và lỏng (AV) để bào chế thành viên. Không giống phức hợp divalproex, dạng
phối hợp đòi hỏi kỹ thuật bào chế khá phức tạp do các tính chất đặc biệt của các
nguyên liệu (dạng lỏng của AV, tính chất háo ẩm mạnh của NV). Để bào chế được

sản phẩm dạng viên nén phối hợp này, cần nghiên cứu chuyển AV từ dạng lỏng thành
dạng rắn bằng cách sử dụng các loại tá dược hút phù hợp trước khi tạo hạt với các
thành phần khác và dập viên. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý đến việc kiểm soát độ ẩm
của môi trường sản xuất vì đây là sản phẩm có tính háo ẩm mạnh.
Với các cách tiếp cận khác nhau, dù đi từ nguyên liệu dạng phức hợp
(divalproex) hay dạng phối hợp, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến kỹ
thuật bào chế các chế phẩm chứa NV và AV dưới các dạng viên nén, viên nang
PTKD được thực hiện và công bố bởi nhiều nhóm tác giả, bao gồm :
Shah và cộng sự (1993) đã nghiên cứu sử dụng tá dược hút để xử lý chuyển
dạng AV từ lỏng sang thể rắn trước khi điều chế thành dạng viên nén. Nhóm tác giả
này đã chọn được các tá dược hút tạo thành khối ẩm không kết dính, phù hợp với
phương pháp dập thẳng. Bằng kỹ thuật này, các tác giả đã bào chế được các viên
nhân để bao đường và bao phim từ nguyên liệu AV dạng lỏng [93].
Khetarpal và cộng sự (2012) đã nghiên cứu bào chế viên nang chứa AV sau
khi sử dụng tá dược hút Aeroperl® 300 Pharma (colloidal silicon dioxid) để xử lý
chuyển dạng AV từ thể lỏng sang dạng bột rắn bằng cách phối trộn Aeroperl® 300
Pharma với AV theo tỷ lệ là 1:1,5 trước khi tạo hạt và đóng nang. Kết quả đánh giá
về độ trơn chảy, phổ cận hồng ngoại (FTIR), phổ phân tích nhiệt vi sai (DSC) đã
chứng tỏ hỗn hợp bột rắn tạo thành có độ trơn chảy tốt, không có tương kỵ hóa học
xảy ra giữa dược chất và tá dược. Bên cạnh đó, các phân tích định lượng bằng sắc
ký khí (GC) cũng đã cho thấy sản phẩm đạt được sự đồng nhất về hàm lượng, sản
phẩm hòa tan hoàn toàn sau 90 phút trong môi trường thử nghiệm, đạt độ ổn định


18
sau 3 tháng theo dõi trong điều kiện thực (nhiệt độ 25oC/độ ẩm tương đối 60%) và
điều kiện lão hóa cấp tốc (nhiệt độ 40oC/độ ẩm tương đối 75%) 67.
Phaechamud T. và cộng sự (2010) đã điều chế viên bao phim PTKD chứa hỗn
hợp NV và AV theo tỷ lệ 2 :1 (tương đương 500 mg NV) bằng kỹ thuật xát hạt ướt.
Các tác giả đã dùng tá dược hút là Carbosil ® 200 để chuyển AV từ dạng lỏng thành

dạng rắn trước khi tạo hạt với polyme HPMC K15M và các tá dược khác và dập
viên trong môi trường có độ ẩm tương đối không quá 50 %. Kết quả các tác giả đã
bào chế thành công viên nhân PTKD dạng khung, sau đó tiến hành bao phim chống
ẩm bằng Eudragit® L30 D – 55 và HPMC. Sản phẩm đã được chứng minh đạt
tương đương hòa tan in vitro với thuốc đối chiếu Depakine® Chrono 500 [87].
Vamsy Krishana. A và cộng sự (2011) đã điều chế thành công viên divalproex
natri phóng thích kéo dài bằng kỹ thuật dập thẳng, sử dụng các polyme tạo khung
matrix thân nước [111].
Chakraborty S. và cộng sự (2009) đã nghiên cứu bào chế viên divalproex natri
phóng thích kéo dài với khung matrix hỗn hợp gồm polyme thân nước và polyme sơ
nước. Kết quả đã bào chế thành công dạng viên PTKD cho khả năng phóng thích
kéo dài đến 24 giờ, đạt tương đương hòa tan in vitro với thuốc gốc Depakote® [39].
Giannola và cộng sự (1995) đã nghiên cứu thành công viên nang chứa vi hạt
PTKD của AV, dựa trên 2 chất tạo khung thân dầu căn bản là sáp ong [53] và sáp
carnauba [54]. Sản phẩm vi hạt với chất tạo khung là sáp ong có thể kéo dài tốc độ
phóng thích đến 14 giờ, và có động học phóng thích hoạt theo bậc 1. Đối với tá
dược sáp ong, nhóm tác giả đã dùng kỹ thuật đun nóng chảy để kết hợp dược chất
dạng lỏng (AV) tạo thành khung matrix sơ nước, sự phóng thích dược chất của AV
từ vi hạt tuân theo động học bậc 1 [53].
Lakhani KM. và các cộng sự (2012) đã nghiên cứu bào chế và đánh giá viên
bao phim PTKD chứa hoạt chất divalproex natri, sử dụng HPMC K 15M phối hợp
với Eudragit L100 để tạo khung kiểm soát sự GPHC, kết hợp với các tá dược độn
(MCC, lactose và povidon), tá dược trơn - bóng (talc, magnesi stearat và aerosil) để
nén viên bằng kỹ thuật dập thẳng. Viên nhân sau đó được bao phim với polyme


19
HPMC 615. Các tác giả đã sử dụng mô hình thiết kế đầy đủ 32 gồm 9 thí nghiệm
với 02 biến số độc lập là hàm lượng polyme HPMC K 15M và Eudragit L 100. Biến
số đầu ra lựa chọn là % hoạt chất giải phóng sau các thời điểm 3 giờ và 12 giờ. Kết

quả đã xác định được hàm lượng tối ưu của các polyme trong tạo khung kiểm soát
sự GPHC lần lượt là 15 % và 10 % so với khối lượng viên. Sản phẩm từ công thức
tối ưu có độ hòa tan đạt tương đương với sản phẩm thương mại trên thị trường, có
động học GPHC gần với mô hình bậc 1, đạt độ ổn định sau 1 tháng theo dõi trong
điều kiện lão hóa cấp tốc (nhiệt độ 40 + 2oC/độ ẩm tương đối 75 + 5%) 70.
Jeganath S., và cộng sự (2012) đã nghiên cứu bào chế thành công viên bao
PTKD của divalproex natri bằng kỹ thuật dập thẳng, sử dụng 2 polyme tạo khung
matrix là HPMC K100 M và HPMC K 4M với tỷ lệ lần lượt 4 % và 2,5 % so với
khối lượng viên, cùng các tá dược độn (Avicel pH 102, lactose, tinh bột, povidon)
và tá dược trơn (talc, magnesi stearat, Aerosil). Viên nhân được đem bao phim bằng
HPMC 615. Kết quả khung có thể giúp kiểm soát GPHC kéo dài trong 24 giờ và độ
hòa tan đạt tương đương so với sản phẩm thương mại trên thị trường. Ngoài ra, các
kết quả nghiên cứu cũng đã cho thấy sản phẩm đạt độ ổn định về chất lượng và khả
năng GPHC sau 3 tháng đánh giá trong điều kiện theo dõi thực (nhiệt độ 30oC/độ
ẩm tương đối 65%) và lão hóa cấp tốc (nhiệt độ 40oC/độ ẩm tương đối 75%) 61.
Worawan Saingam và cộng sự (2012) đã phát triển công thức viên nén nhiều
lớp PTKD của NV và AV trong 24 giờ. Các tác giả đã sử dụng HPMC K 15M,
dicalci photphat, talc và silicon dioxyd để tạo viên nén PTKD 3 lớp, lớp giữa chứa
hoạt chất (NV và AV) cùng với HPMC K 15M (tỷ lệ 2,5% so khối lượng viên),
dicanxi photphat, talc và silicon dioxyd, 2 lớp ngoài chứa HPMC K 15M (tỷ lệ 25%
so với khối lượng viên). Các tác giả đã sử dụng colloidal silicon dioxid để hút
thành phần lỏng AV sau đó phối hợp tạo hạt với các thành phần còn lại (HPMC
K15M, dicanxi photphat, talc). Viên 3 lớp được sản xuất bằng kỹ thuật dập nén. Độ
hòa tan được đánh giá bằng giỏ quay, các môi trường thử là 900 ml nước; dung dịch
0,1N HCl pH 1,2; dung dịch đệm phosphat 6,8 và dung dịch pH thay đổi (2 giờ đầu
sử dụng dung dịch HCl 0,1N và 22 giờ tiếp theo sử dụng đệm phosphat 6,8), nhiệt


20
độ thử là 37,5 °C. Thời gian lấy mẫu sau 15 phút, 30 phút, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,

10, 11, 12, 15, 18, 21, 24 giờ, mỗi lần lấy10 ml, lọc qua màng lọc 0,45 µm và chạy
HPLC. Kết quả đánh giá độ hòa tan cho thấy khi pH tăng, độ hòa tan tăng, độ hòa
tan sau 24 giờ trong môi trường nước là 85,87 %, trong môi trường đệm phosphat
6,8 là 76,72%, trong môi trường pH thay đổi 69,03 %, trong môi trường acid HCl
0,1N pH 1,2 là 26,64 %. NV hòa tan tốt ở pH trung tính hơn AV, AV hòa tan tốt
hơn ở pH 7,4. Tóm lại, bằng cách sử dụng tá dược hút colloidal silicon dioxid để xử
lý AV và kỹ thuật dập nén, các tác giả đã bào chế thành công viên nén PTKD cấu
trúc 3 lớp chứa NV và AV cho sự GPHC kéo dài trong vòng 24 giờ 117.
1.3.4. Các nghiên cứu về định lượng AV và NV
1.3.4.1. Nghiên cứu định lượng AV, NV trong chế phẩm
AV trong các chế phẩm có thể được định lượng bằng các phương pháp như
sắc ký khí 39, hoặc sắc ký lỏng cao áp 98. Đối với NV trong các chế phẩm,
phương pháp định lượng chủ yếu là bằng HPLC 55, 101, 104.
Đối với các chế phẩm chứa phức hợp NV và AV tỷ lệ mol là 1:1 (divalproex
natri) hoặc dạng phối hợp theo tỷ lệ là 2 : 1. Phương pháp HPLC pha đảo, với các
hệ pha động khác nhau, phát hiện bằng đầu dò UV-vis hoặc dãy diod quang (PDA)
thường được sử dụng. Phaechamud và cộng sự đã sử dụng cột C18, pha động là
acetoniltril – đệm phosphat (60 : 40) điều chỉnh về pH 3.0, phát hiện bằng đầu dò
PDA ở bước sóng 220 nm để định lượng AV và NV trong viên PTKD 87. Theo IP
2010, divalproex trong viên được định lượng với hệ pha động là acetonitril – đệm
citrat (30 : 70) điều chỉnh về pH 3.0, bước sóng phát hiện ở 210 nm 103. Với USP
36, divalproex trong chế phẩm được định lượng với hệ pha động methanol – đệm
citrat (11: 9) điều chỉnh về pH 5.0, phát hiện ở bước sóng 210 nm 104.
1.3.4.2. Nghiên cứu định lượng AV trong dịch sinh học
AV trong dịch sinh học có thể được định lượng bằng các kỹ thuật như miễn
dịch enzyme 45, hoặc kỹ thuật điện di mao quản 51. Tuy nhiên các phương pháp
HPLC phát hiện bằng detector khối phổ (bảng 1.2), hoặc detector UV (bảng 1.3)
thường được chọn để định lượng AV và NV trong các mẫu dịch sinh học.



21
Bảng 1. 2. Các phương pháp LC-MS dùng định lượng AV trong dịch sinh học
Phương pháp

Điều kiện tiến hành

LLOQ

Cột Poroshell C18 (50 x 4,6 mm; 2,7 micron), tiền cột
SecurityGuard C18 (4 x 3,0 mm). Nhiệt độ cột 40oC
Pha động : Gradient với Nước : MeCN tỷ lệ (10 : 90)
LC-MS/MS,

trong 4 phút đầu, thay đổi (60 : 40) trong 0,5 phút sau.

chiết pha rắn

Tốc độ dòng : 0,9 ml/phút.

0,5g/ml
57

Thời gian lưu của AV : 4,46 phút
Detector : 1100 VL Quadrupole, chế độ MRM
Thể tích tiêm : 20 µl.
Cột Waters C18 (50 x 2,1mm; 5,0 micron). Nhiệt độ
LC-MS/MS,
kết tủa

cột 30oC

Pha động: MeCN : amoni acetat 20mM (70:30)

protein và

Tốc độ dòng : 0,8 ml/phút.

chiết lỏng -

Thời gian lưu của AV : 0,89 phút

lỏng.

1ng/ml
64

Detector : ACCQUITY TQD, chế độ MRM
Thể tích tiêm : 5,0 µl.
Cột C18 (100 x 3 mm; 3,5 micron). Nhiệt độ cột 45oC

LC-MS/MS,

Pha động: MeCN : acid acetic 0,1% (48:52)

kết tủa

Tốc độ dòng : 0,8 ml/phút.

protein.

Thời gian lưu của AV: 1,8 phút


5g/ml
72

Detector : 1100 VL Quadrupole, chế độ SIM
Thể tích tiêm : 2,0 µl.
Cột C18 (100 x 3mm; 3,5 micron). Nhiệt độ cột 45oC
Pha động: MeCN : acid acetic 0,1% (40:60)
LC-MS, kết

Tốc độ dòng : 1,0 ml/phút.

tủa protein

Thời gian lưu của AV : 2,3 phút
Detector : G6410A –TQD, chế độ SIM
Thể tích tiêm : 2,0 µl.

2g/ml
100


22
Bảng 1. 3. Các phương pháp HPLC dùng định lượng AV trong dịch sinh học.
Phương

Điều kiện tiến hành

pháp


định lượng

HPLC pha

Cột CN (250 x 4,6 mm, 5 micron)

thuận, chiết

Pha động Acetonitril - đệm phosphat pH 3.5 (30:70)

pha rắn

Giới hạn

1,25 g/ml

Tốc độ dòng : 1ml/phút; Thể tích tiêm : 20µl

26

Detector : Phát hiện tại UV 210 nm
HPLC pha

Cột C18 (250 x 4,6mm, 5 micron). Nhiệt độ cột 50oC

đảo, chiết
pha rắn

Pha động Acetonitril - đệm phosphate, pH 3.0 (45:55)
Tốc độ dòng : 1,2ml/phút; Thể tích tiêm : 50 µl


1 g/ml

Thời gian lưu của AV : 7,1 phút
Detector : DAD từ 360 nm – 210 nm
HPLC pha

Cột C18 (250 x 4,6 mm, 5 micron). Nhiệt độ cột 48oC
Pha động : Acetonitril- đệm phosphat pH 3.5 (49:51)

đảo, kết tủa

Tốc độ dòng : 1,2 ml/phút; Thể tích tiêm : 20 µl

protein

68

10 g/ml

Thời gian lưu của AV : 9,7 phút
Detector : Phát hiện tại UV 220 nm

76

Nazeri Ali và cộng sự (2014) đã nghiên cứu 2 phương pháp định lượng AV
trong dịch sinh học là sắc ký khí (GC) và HPLC. Kết quả cho thấy phương pháp GC
có LLOQ thấp hơn (8g/ml), hệ số phân tán (CV %) của kết quả định lượng trong
ngày và khác ngày đều thấp hơn so với phương pháp HLPC. Ngoài ra, qui trình
phân tích mẫu cũng được rút ngắn (6 phút so với 17 phút của HPLC) 82.

1.3.5. Các nghiên cứu dược động học và hiệu quả trị liệu của AV và NV
Nghiên cứu so sánh giữa dạng phóng thích kéo dài so với viên bao tan trong
ruột đã chứng tỏ viên phóng thích kéo dài có sự dung nạp tốt hơn, hiệu quả kiểm
soát các cơn động kinh và cải thiện các triệu chứng tâm thần tốt hơn, được bệnh
nhân thích sử dụng hơn, ít gây ra các tác dụng phụ như rối loạn tiêu hóa, tăng cân,
cảm giác run rẩy khi dùng dạng thuốc phóng thích kéo dài [79].
Akira F. và cộng sự (2008) đã tiến hành một nghiên cứu so sánh tương đương
sinh học in vivo và hòa tan in vitro của 2 chế phẩm PTKD của AV trên thị trường


23
(Depakene R và Selenica R). Nghiên cứu tương đương sinh học được thực hiện
trên 12 Người tình nguyện tại Nhật Bản, dùng liều đơn 600 mg AV, lấy mẫu máu
đến 72 giờ và định lượng AV trong huyết tương bằng phương pháp miễn dịch
enzym. Thử nghiệm độ hòa tan in vitro được tiến hành trong môi trường đệm
phosphat pH 6,8 trên thiết bị cánh khuấy, tốc độ 50 vòng phút và định lượng hoạt
chất hòa tan bằng phương pháp HPLC. Kết quả nghiên cứu về độ hòa tan in vitro
cho thấy Depakene R có tốc độ hòa tan nhanh hơn so với Selenica R, tương ứng kết
quả trong nghiên cứu in vivo cho thấy thuốc này cũng đạt nồng độ đỉnh trong máu
sớm hơn so với Selenica R (Tmax của Depakene R là 10,8 + 1,6 phút so với 17,6 + 1,7
phút của Selenica R). Tuy nhiên Cmax và AUC của 2 thuốc khác nhau không có ý
nghĩa thống kê ( p < 0,05). Như vậy, với dạng PTKD chứa AV, tốc độ hòa tan trong
in vitro có thể làm tăng tốc độ hấp thu thuốc trong điều kiện in vivo, làm cho thuốc
được hấp thu nhanh hơn. Tuy nhiên, tổng mức hấp thu là không đổi, đồng nghĩa với
khả dụng sinh học của thuốc không bị ảnh hưởng 23.
Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi tác giả Lance P. Longo và cộng sự
(2005) về đánh giá hiệu quả sử dụng của viên divalproex natri PTKD cho các bệnh
nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực thể I và II gặp các tác dụng không mong muốn khi
dùng viên divalproex natri bao tan trong ruột. Kết quả cho thấy viên PTKD có sự
dung nạp tốt hơn, an toàn và hiệu quả kéo dài, giảm được các tác dụng không mong

muốn một cách rõ rệt (so với dùng viên bao tan trong ruột). Sự hài lòng và tỷ lệ
tuân thủ tốt liệu trình điều trị của bệnh nhân tăng lên đáng kể [71].
Nghiên cứu xác định tỉ lệ gắn protein huyết tương của acid valproic đã được
Patricia W. và cộng sự (1996) thực hiện trên động vật thử nghiệm. Kết quả cho
thấy tỉ lệ gắn kết của AV với huyết tương giảm từ 91 % xuống còn 42 % khi nồng
độ acid valproic trong huyết tương tăng từ 10 µm/ml - 100 µg/ml [84].
Các nghiên cứu về dược động học của AV cũng đã được thực hiện bởi
Andrew A. và cộng sự (1984) bằng kỹ thuật sắc ký khí ghép khối phổ. Các tác giả
đã xác định được nồng độ AV trong dịch não tủy có thể đạt đến khoảng nồng độ
28,2 µg/ml sau khi sử dụng liều thông thường [27].


×