Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tiểu luận các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương ở việt nam trong giai đoạn từ năm 1993 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.35 KB, 41 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách công là quyết định của các chủ thể quản lý nhà nước
nhằm quy định mục đích, cách thức và chế định hành động của những đối
tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề nhất định của xã hội đặt ra. Đó
là tổng thể các chuẩn mực, biện pháp mà nhà nước sử dụng để quản lý xã
hội. Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Việc cải cách
chính sách tiền lương là một trong những yêu cầu quan trọng trong các nỗ
lực cải cách hệ thống chính sách về phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam
trong những năm tới. Tiền lương là mối quan tâm hàng đầu và là động lực
làm việc của người lao động trong bất cứ tổ chức nào. Ở Việt Nam có một
lượng lớn người dân được hưởng tiền lương từ ngân sách nhà nước. Chính
vì vậy chính sách tiền lương nói chung và cải cách chính sách tiền lương
nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo người dân và toàn xã
hội. Đảng và Nhà nước luôn coi chính sách cải cách tiền lương là ưu tiên
hàng đầu trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của đất nước. Đảng và Nhà
nước luôn khẳng định: “ Tiền lương phải cơ bản đảm bảo đủ sống cho
người lao động và phù hợp vơi sự phát triển kinh tế - xã hội”, cải cách tiền
lương phải: “ tương xứng với nhiệm vụ, công vụ được giao”, “ tiền tệ hóa
đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương ứng với nhịp độ phát triển thu nhập
trong xã hội, hệ thống thang bậc lương đảm bảo tương quan hợp lý, khuyến
khích người có tài, người làm việc giỏi”.
Ở Việt Nam chính sách tiền lương đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển
với các đặc điểm khác nhau. Nối tiếp những đợt cải cách tiền lương trong
thập niên 1980,1990, khoảng mười năm trở lại đây, hệ thống chính sách tiền
lương ở Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện và đổi mới từng bước tiệm cận
1


với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở


cửa hội nhập. Có thể nói qua hai mươi năm thực hiện chính sách cải cách
tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, chúng ta đã đạt
được một số kết quả nhất định. Đặc biệt là về chính sách cải cách tiền
lương: hình thành được hệ thống lương tối thiểu, cơ chế xác định và thực
hiện thống nhất giữa các loại hình doanh nghiệp theo cam kết WTO, điều
chỉnh tăng dần từng bước hướng tới nhu cầu tối thiểu của người lao động,
phù hợp với khả năng chi trả của doanh nghiệp, góp phần ổn định quan hệ
lao động,...
Tuy nhiên hệ thống chính sách tiền lương hiện nay vẫn mang tính bình quân
và thấp hơn nhiều so với quan hệ tiền lương trên thực tế. Hệ thống thang
bảng lương nhà nước còn nhiều bất cập và phức tạp. Đối với doanh nghiệp
nhà nước lương chưa là thước đo hiệu quả, năng suất lao động, năng lực
thực tế của người lao động mà chủ yếu là do lợi thế ngành nghề trong xã
hội, mức chênh lệch tiền lương giữa một số viên chức quản lý doanh nghiệp
và người lao động cũng như mặt bằng chung còn quá cao gây bức xúc trong
dư luận. Còn các doanh nghiệp khác còn xây dựng thang, bảng lương mang
tính đối phó mà thường tách phụ lương thành phụ cấp, trợ cấp để giảm đóng
tiền bảo hiểm xã hội cho người lao động. Với cách trả lương như vậy nên
không khuyến khích được người lao động, cán bô, công chức, viên chức
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Chính vì vậy cải cách chính sách tiền lương luôn là vấn đề nóng và
nóng hơn nữa khi các lần thực hiện cải cách chính sách tiền lương trong hai
mươi năm qua vẫn chưa được đảm bảo cho người hưởng lương có thể sống
được bằng lương và câu chuyện lương chưa tăng giá cả đã tăng khiến đời
sống người hưởng lương không được cải thiện bao nhiêu. Cải cách chính
sách tiền lương luôn là một thách thức lớn đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là
2


những quốc gia đang phát triển với ngân sách dành cho quỹ lương còn hạn

chế như Việt Nam. Xét thấy tính cấp thiết của vấn đề nên em đã chọn đề tài:
“ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương
ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1993 đến nay”. Trên cở sở lý luận và
thực tiễn về cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam từ năm 1993 đến
nay để đi sâu vào nghiên cứu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện chính sách này từ đó đề ra các giải pháp để thực hiện có hiệu quả cải
cách chính sách tiền lương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một chính sách có vai trò quan trọng, chính sách tiền lương nói
chung và cải cách tiền lương nói riêng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt
của toàn xà hội và các nhà nghiện cứu khoa học về vấn đề này. Ngày 9
tháng 7 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Ban
chỉ đạo nghiên cứu và thực hiện cải cách chính sách tiền lương Nhà nước.
Ban chỉ đạo có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng Đề án chính sách cải cách
tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng
bảo đảm phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
trong từng giai đoạn; đồng thời phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu các
chính sách kinh tế, xã hội có liên quan đến chính sách tiền lương, bảo hiểm
xã hội, người có công với cách mạng theo sự phân công của Thủ tướng
Chính phủ đệ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Ban chỉ đạo
cũng giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi đôn đốc các bộ, ngành, địa
phương trong việc thực hiện chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp
ưu đãi cho người có công với cách mạng, đề xuất các biện pháp để xử lý kịp
thời những vấn đề mới phát sinh trong quá trình thực hiện.
Nhằm thực hiện kế hoạch nghiên cứu đề tài độc lập cấp nhà nước “
Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc cải cách chính sách tiền lương cho
công chức hành chính Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới”, ngày 3
3



tháng 8 năm 2012 tại Sơn Tây, đã diễn ra Hội thảo khao học về cải cách tiền
lương công chức hành chính do Đại học Lao Động Thương Binh và Xã Hội
tổ chức với sự tham gia của các Thủ trưởng các bộ, ban, ngành nghiên cứu
các chính sách kinh tế, xã hội có liên quan đến vấn đề này. Trong hội thảo
có một số bài tham luận được trình bày như:
+ Những đổi mới chính sách tiền lương của công chức hành chính trong hai
lần cải cách vào năm 1985 và năm1993 và hiện hành (TS. Nguyễn Quang
Huề).
+ Phân tích, đánh giá thực trạng tiền lương và thu nhập của công chức hành
chính hiện nay thông qua điều tra, phỏng vấn(TS. Vũ Hồng Phong)
+ Phân tích, đánh giá thực trạng tiền lương và thu nhập của công chức hành
chính(PGS.TS Tăng Văn Khiêm)
+ Phân tích các yếu tố tác động đến chính sách tiền lương hiện hành ( TS.
Nguyễn Lan Hương)...
Tất cả những bài tham luận trên đã chỉ ra thực trạng, những yếu tố tác
động trong thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Tuy nhiên những
nghiên cứu trên chỉ đề cập đến cải cách chính sách tiền lương trong phạm
vi đối tượng là công chức hành chính nhà nước mà chưa bao quát toàn bộ
các đối tượng được hưởng lương từ Ngân sách nhà nước.
Ngày 21 tháng 8 năm 2012, Tạp chí Cộng sản phối hợp với viện nghiên cứu
phát triển Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức buổi tọa đàm với chủ đề: “ vấn
đề cải cách tiền lương của cán bộ, công chức và người lao động”. Buổi tọa
đàm tập trung thảo luận về hạn chế, bất cập trong vấn đề cải cách tiền lương
ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra nhiều giải pháp thiết thực trong vấn đề cải
cách tiền lương cho cán bộ, công chức và người lao động. Vấn đề cải cách
tiền lương cũng được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn, luận án.
Tháng 9 năm 2012 chuyên đề “Nghiên cứu lý luận” ngiên cứu về
tiền lương và một số kiến nghị cải cách tiền lương đối với cán bộ, công
chức do Ông Nguyễn Đình Nghĩa, nguyên Phó trưởng phòng nghiên cứu
4



tiền lương và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, Viện khoa học
tổ chức nhà nước làm chuyên đề. Chuyên đề đã nghiên cứu, phân tích được
bản chất, chức năng, vai trò của tiền lương, các nhân tố ảnh hưởng đến tiền
lương và từ đó đưa ra cơ sở lý luận để đánh giá thực trạng, đề xuất kiến
nghị cải cách tiền lương trong giai đoạn tới. Chuyên đề này có tính cấp thiết
cao và góp phần quan trọng vào hoạch định chính sách, giải pháp để cải
cách chính sách tiền lương. Đồng thời đánh giá được những ưu, nhược điểm
của chế độ tiền lương từ năm 2003 đền nay và kinh nghiệm của chính sách
cải cách tiền lương của các nước trên thế giới. Tuy nhiên với phạm vi
nghiên cứu của chuyên đề thì chưa thể bao quát hết được một chính sách
lớn và cần bổ sung giải pháp để thực hiện cải cách chính sách tiền lương
như tinh giản biên chế, xác định rõ năng lực để trả lương,...
Tất cả những nghiên cứu trên chỉ tập trung vào nghiên cứu cải cách
chính sách tiền lương và chỉ ra thực trạng tồn tại bất cập trọng thực hiện
chính sách này mà chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề chính sách, các yếu tố ảnh
hưởng đến thực hiện chính sách về mặt lý luận. Từ thực tế trên thì bài tiểu
luận này sẽ nghiên cứu tất cả những nội dung thuộc về vấn đề chính sách
như: bối cảnh ra đời chính sách, mục tiêu của việc đề ra chính sách, cơ quan
hoạch định chính sách,... và nghiên cứu với tư cách lý luận khoa học chính
sách công các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách cải cách tiền
lương ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận
- Mục đích: trên cơ sở lý luận và thực tiễn sẽ phân tích, đánh giá những yếu
tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách cải cách tiền lương ở Việt Nam
giai đoạn từ năm 1993 đến nay và từ đó đề xuất những giải pháp để thực
hiện chính sách này có hiệu quả.
- Nhiệm vụ: nghiên cứu và chỉ rõ những nội dung thuộc về chính sách, cơ sở
lý luận và thực tiễn của các yếu tố ảnh hưởng đến cải cách chính sách tiền

5


lương ở Việt Nam, từ đó đánh giá thực trạng và đề ra những giải pháp để
thực hiện chính sách có hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: các yếu tố ảnh hưởng đến việc đến cải cách chính sách tiền
lương ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: ở cấp độ quốc gia Việt Nam trong thời gian từ năm
1993 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp riêng: Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp hệ thống,
lôgic - lịch sử, sử học, phân tích - tổng hợp và so sánh… để giải quyết vấn
đề đặt ra.
6. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG VÀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
1.1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG, CÁC YẾU
TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG

1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách công và vị trí của thực hiện chính sách
công trong quy trình chính sách công
1.2.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM


1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.
1.2.5.
1.2.6.

Lý luận về cải cách chính sách tiền lương
Bối cảnh ra đời chính sách
Cơ quan đề ra chính sách
Cơ quan thực hiện và đối tượng của chính sách
Mục tiêu của việc đề ra chính sách
Sự cần thiết của việc cải cách chính sách tiền lương

Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC
HIỆN CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TỀ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
NĂM 1993 ĐẾN NAY
6

TỪ


2.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG Ở VIỆT NAM

2.2.1. Các yếu tố bên ngoài tác động đến bản chất vấn đề và chất lượng hoạch
định chính sách tiền lương ở Việt Nam
2.2.2. Các yếu tố liên quan đến khả năng thực hiện cải cách chính sách tiền lương

ở Việt Nam.
2.2.3. Các yếu tố bên ngoài tác động vào quá trình thực hiện cải cách chính
sách tiền lương.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG THỰC HIỆN CẢI
CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

2.3.1.

Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.2.

Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CẢI CÁCH CHÍNH
SÁCH TIỀN LƯƠNG HIỆU QUẢ
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CẢI CÁCH CHÍNH
SÁCH TIỀN LƯƠNG
3.2. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THỰC HIỆN CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG HIỆU QUẢ

KẾT LUẬN

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM
1.1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ CÁC
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG


7


1.1.1 Khái niệm thực hiện chính sách công và vị trí của thực hiện chính sách
công trong quy trình chính sách
1.1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách công là giai đoạn biến các ý đồ chính sách
thành những kết quả thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra.
1.1.1.2. Vị trí của chính sách công trong quy trình chính sách công
Thực hiện chính sách có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công
hay thất bại của một chính sách và luôn thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu. Trên thực tế, thực hiện chính sách được coi là giai đoạn tổng
hợp của quy trình chính sách( gồm:hoạch định, thực hiện, đánh giá). Nhiều
chính sách do các cơ quan trung ương đề ra và giao cho các địa phương
thực hiện. Trong trường hợp đó, người ta phải nghiên cứu, áp dụng chính
sách cho phù hợp với thực tế địa phương. Ngoài ra trong quá trình thực hiện
cũng phải đánh giá chính sách để có điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với
mục tiêu. Như vậy thực hiện chính sách cũng bao gồm cả những công việc
thuộc về hoạch định và đánh giá chính sách. Thực hiện chính sách là giai
đoạn tiếp nối và chịu sự qui định của giai đoạn hoạch định chính sách, song
không hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả của công tách hoạch định chính
sách mà có vị trí độc lập riêng và có ý nghĩa quyết định với toàn bộ qui
trình chính sách.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách công
Tổ chức thực hiện chính sách trong thực tiễn luôn chịu sự tác động
của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Các yếu tố này có thể tạo ra sự
tác động thuận chiều hay ngược chiều, thúc đẩy hoặc cản trở thực hiện
chính sách. Tuy nhiên khi đề ra chính sách các nhà hoạch định đã phân tích

và dự đoán những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện để tìm ra giải
8


pháp thích hợp. Song những dự đoán đó không phải lúc nào cũng sát hợp
với thực tiễn, hơn nữa rất nhiều yếu tố không thể dự đoán được do nhiều
biến động phức tạp và khó lường của thực tế đời sống. Nhiều yếu tố rủi ro,
biến đọng tiềm ẩn trong quá trình thực hiện chính sách, tạo ra những dao
động trong tiến trình thực hiện so với dự định ban đầu và ảnh hưởng đến
mức độ thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Nhìn chung các yếu tố tác động đến
quá trình thực hiện chính sách có thể khái quát thành 3 nhóm sau:
1.1.2.1. Các yếu tố tác động đến bản chất vấn đề và chất lượng hoạch định
chính sách
Lời văn không rõ là nguyên nhân của tình trạng tự do tương đối trong
diễn giải và làm cho các chính sách rất khó thực hiện hoặc thực hiện theo
cách nào cũng được. có nhiều lý do kỹ thuật cũng như chính trị của vấn đề
này. Về kỹ thuật, những người ra quyết định chính sách có thể chưa đủ
thông tin hoặc thời gian để đi vào chi tiết. Về chính trị, việc dùng lời văn
không rõ ràng là một thủ thuật cần thiết để hy vọng rằng chính sau khi đi
vào thực tiễn cụ thể họ sẽ có thể điều chỉnh cho phù hợp với ý đồ ban đầu
mà vẫn dễ dàng thực hiện.
Tính bất hợp lý: chính sách chưa được tính toán đầy đủ do những
người soạn thảo chính sách chưa có đủ thông tin hoặc xử lý thông tin chưa
chính xác, chưa lường hết được mọi mặt của vấn đề hoặc ước tính sai các
phản ứng của các đối tượng chính sách.
Các chính sách mới: các chính sách mới bao giờ cũng khó thực hiện
hơn và gây ra nhiều tranh cãi và thiếu kinh nghiệm của cơ quan thực hiện.
Các chính sách mới có thể không ohuf hợp với quy tắc và thủ tục của thể
chế hiện hành, vì thế cũng dễ mắc phải sức ỳ của bộ máy quan liêu.


9


Quy mô của nhóm mục tiêu: mỗi chính sách là một hệ thống mục tiêu
rõ ràng về tầng nấc. Ngoài mục tiêu tổng thể còn có nhiều mục tiêu chi tiết.
Các mục tiêu chính sách càng lớn, đa dạng thì mục tiêu càng khó thực hiện.
Phạm vi đặc thù của các nhóm đối tượng chính sách cũng có ảnh
hưởng quan trọng đến quá trình thực hiện chính sách. Đặc thù của các nhóm
đối tượng sẽ ảnh hưởng đến mức độ và hiệu quả thực hiện, phạm vi đối
tượng càng rộng thì càng khó điều tiết. Yếu tố quyết định nhất là việc chính
sách tác động như thế nào đến lợi ích của công chúng, tương quan giữa
những người có lợi và những người bị thiệt hại do thực hiện chính sách.
Nếu chính sách đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của đa số dân chúng thì sẽ
được duy trì và phát triển. Thực hiện chính sách sẽ tạo cho một số người có
lợi và một số khác bị thiêt hại và sẽ bị phản ứng tiêu cực từ họ, gây ảnh
hướng lớn đến kết quả thực hiện chính sách. Ngoài ra, những chính sách
được nhà nước hoạch định phải xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của đất
nước thì mới được nhân dân chấp nhận và thực hiện được lâu dài.
Các khó khăn kỹ thuật khi giải quyết các vấn đề trong quá trình thực
hiện chính sách đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu về mặt kỹ thuật
nếu không sẽ rất khó thực hiện có hiệu quả.
1.1.2.2. Các yếu tố liên quan đến khả năng thực hiện chính sách
Quan hệ phức tạp giữa các tổ chức tham gia thực hiện chính sách:
thực hiện chính sách đòi hỏi tha gia thực hiện của nhiều cơ quan, tổ chức.
Mỗi tổ chức có nhu cầu, nguyện vọng và truyền thống văn hóa riêng. Hoạt
động của các tổ chức này đã tạo ra quan hệ đan xen, nhiều chiều và có thể
phát sinh phức tạp trong quá trình thực hiện chính sách.
Năng lực của tổ chức thực hiện: trong nhiều trường hợp khi quyết
định một chính sách mới, các nhà hoạch định không chú ý đến năng lực của
tổ chức thực hiện. Do đó họ sử dụng những kỹ thuật mới quen thuộc, dễ

10


thực hiện để giải quyết vấn đề mới và các công chức có cách tiếp cận vấn đề
mới theo hướng tư duy cũ dẫn đến hạn chế năng lực thực hiện của tổ chức.
Cách thức thực hiện chính sách: có yếu tố ảnh hưởng không kém
phần quan trọng đến quá trình thực hiện chính sách. Các chính sách được cụ
thể hóa thành những chương trình, kế hoạch và biện pháp hành động bài
bản, thận trọng là điều kiện quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả cũng như
sự thành công của chính sách.
Mẫu thuẫn trong địa bàn hoạt động do xung đột thẩm quyền pháp lý
giữa các cơ quan thực hiện chính sách. Do việc quy định phân cấp thẩm
thực hiện chính sách đã tạo ra sự chồng chéo giữa các cơ quan tổ chức thực
hiện. Điều này làm cho việc triển khai thực hiện chính sách bị cản trở
nghiêm trọng.
Thiếu thẩm quyền và nhiệt tình: do việc triển khai chính sách được
giao cho các cơ quan chống lại chính sách. Nguyên nhân chính là do mâu
thuẫn lợi ích của người thực hiện với chính sách được đưa ra. Vì vậy họ dễ
dàng biện hộ cho việc triển khai yếu kém có chủ ý của mình. Sự thiếu nhiệt
tình cũng có thể xảy ra trong trường hợp cơ quan đó cố gắng triển khai
nhưng họ không có đủ thông tin và kiến thức chuyên môn cần thiết. Do đó
việc triển khai bị ngưng trệ, thậm chí đẩy chính sách đến thất bại.
Không đủ nguồn lực: do các nhà hoạch định chính sách không dự tính
đầy đủ các nguồn lực hoặc do biến động của tình hình dẫn đến các tổ chức
phải gánh chịu sự thiếu hụt về điều kiện vật chất, tài chính hoặc nhân lực
thích hợp khi thực hiện chính sách.
Cách ứng xử của các chủ thể thực hiện: những đòi hỏi về thay đổi
hành vi và cách ứng xử chủ thể theo yêu cầu của chính sách đề ra cũng ảnh
hưởng lớn đến việc thực hiện chính sách.


11


Thủ tục hành chính: việc thực hiện một chính sách thường liên quan
đến các quy chế và thủ tục hành chính. Các thủ tục này tạo ra môi trường
thực hiện chính sách, quy định những đòi hỏi và những bước đi cần thiết
trong việc thực hiện chính sách. Nó có thể do cơ quan thực hiện ban hành
hoặc là thủ tục của các cơ quan khác liên quan đến lĩnh vực chính sách. Vì
vậy, thủ tục hành chính phải đơn giản, rõ ràng, thuận lợi cho quá trình thực
hiện chính sách.
1.1.2.3. Các yếu tố bên ngoài tác động vào quá trình thực hiện chính sách
Bối cảnh thực tế: các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội,...biến đổi sẽ ảnh
hưởng đến biến động của các yếu tố này có thể dẫn đến sự thay đổi về cách
thức thực hiện trong khi không thay đổi bản thân chính sách. Ngoài ra
những tiến bộ về khoa học – công nghệ cũng gây ra những thay đổi trong
việc thực hiện chính sách. Trong điều kiện hiện nay bối cảnh quốc tế cũng
là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách quốc gia.
Công luận: sự ủng hộ hay phản đối của công luận có tác động thúc
đẩy hoặc cản trở quá trình thực hiện chính sách.Một chính sách chỉ có thể
thành công nếu nó được nhân dân ủng hộ và khi đó phục vụ lợi ích chính
đáng của đa số nhân dân. Nếu chính sách bị nhân dân phản đối vì nhiều lý
do thì chính sách đó coi như thất bại và khó có thể thực hiện.
Sự hỗ trợ của cấp trên: sự quan tâm chỉ đạo, điều hành sâu sát và kịp
thời của cấp trên sẽ góp phần chỉ ra những thiếu sót hoặc hỗ trợ khai thông
bế tắc giúp cho việc thi hành các chính sách được thuận lợi.
Thái độ của các nhóm có liên quan: chính sách tác động đến dân cư
trong hoặc ngoài nước, có ảnh hưởng đến hành vi và cuộc sống của họ,
khiến họ có thể có những thái độ phản ứng khác nhau. Các nhóm liên quan
có thể có thể tác động mạnh tới tiến trình thực hiện chính sách thông qua
việc ủng hộ hoặc phản đối việc thực hiện chính sách đó. Ngược lại những

12


chương trình được mọi người hưởng ứng luôn được tiến hành trôi chảy và
kết thúc nhanh gọn.
Sức mạnh và ổn định của nhà nước so với các lực lượng chính trị
khác có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng duy trì chính sách đã ban hành
trước đó. Thực hiện chính sách được coi là hoạt động gắn với bộ máy hành
chính. Do đó nếu bộ máy này rơi vào tình trạng quan liêu, trì trệ thì bản
thân nó sẽ ngăn cản chính sách phát huy tác dụng trên thực tế. Vì vậy cần có
một nền hành chính mạnh, hiệu lực và nhà nước cần có ý chí chính trị cao
và có năng lực chiến lược trong điều hành vĩ mô.
1.2.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM

1.2.1. Lý luận về cải cách chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hệ thống chính sách tiền
lương hiện tại của nước ta đã bộc lộ những vấn đề bất cập cần phải xem xét
để điều chỉnh nhằm phát huy được vai trò của nó đối với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đất nước trong bối cảnh mới. Chính vì vậy thực hiện cải
cách chính sách tiền lương là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
nhằm nỗ lực thực hiện hiệu quả chính sách tiền lương.
Cải cách chính sách tiền lương là quá trình nhằm khắc phục những hạn
chế, tồn tại bất cập của hệ thống chính sách tiền lương hiện hành theo
hướng xây dựng được một thang bảng lương khoa học, tiên tiến đảm bảo
tiền lương vừa là động lực, đòn bẩy kích thích, khuyến khích người lao
động làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ , tay nghề và là phương tiện đảm bảo cuộc sống ngày càng

nâng cao của họ.
1.2.2. Bối cảnh ra đời chính sách

13


Cải cách chính sách tiền lương và các chính sách có liên quan được
bắt đầu nghiên cứu, soạn thảo từ năm 1989 với lộ trình bắt đầu thực hiện
bước đệm từ năm 1992, chính thức thực hiện từ ngày 1 tháng 4 năm 1993.
Cải cách chính sách tiền lương và các chính sách có liên quan năm 1993
thực sự là một cuộc cách mạng mới với những thay đổi rất căn bản: mở đầu
cho chuyển đổi chính sách tiền lương và các chính sách có liên quan sang
cơ chế thị trường; cơ bản tính đúng, tính đủ tiền lương, xóa bỏ bao cấp;
giảm khá lớn bình quân, cào bằng trong chính sách và phân phối tiền lương;
giao quyền chủ động về tiền lương cho doanh nghiệp nhà nước và các đơn
vị sự nghiệp có thu; giảm bớt mức độ can thiệp cụ thể, trực tiếp của nhà
nước đối với khu vực này.
Từ năm 2003 – 2011, nhà nước tiếp tục thực hiện cải cách chính sách
tiền lương. Tuy nhiên các cuộc cải cách sau này chủ yếu nâng mức lương
tối thiểu do áp lực của giá cả, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu, bỏ bớt
một số bậc lương và bổ sung thêm các chế độ phụ cấp so với chế độ tiền
lương năm 1993 không có gì thay đổi lớn.
1.2.3. Cơ quan đề ra chính sách
Ngày 23 tháng 5 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/CP
về việc: Quy định tạm thời chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức
hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang. Căn cứ luật tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992, căn cứ nghị quyết kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa
IX theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương Binh xã hội, tại điều 1
của Nghị định nêu rõ: nay ban hành tạm thời chế độ tiền lương mới của
công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực lượng vũ trang áp dụng

thống nhất trong cả nước thay thế chế độ tiền lương quy định tại NĐ số 235
– HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985.
1.2.4. Cơ quan thực hiện và đối tượng của chính sách
14


Tại điều 18 của Nghị định nêu rõ: Bộ Lao động – Thương binh và xã
hội, Bộ Tài chính và Ban tổ cức cán bộ Chính phủ chịu trách nhiệm hướng
dẫn thi hành Nghị định này và thành lập các tổ công tác liên bộ kiểm tra, xét
duyệt phương án thực hiện chế độ tiền lương mới của cán bộ ngành, địa
phương.
Điều 19 cũng nêu rõ: Bộ trưởng, Thứ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.Đối tượng chịu sự tác động
của cải cách chính sách tiền lương là công chức, viên chức hành chính sự
nghiệp và lực lượng vũ trang.
1.2.5. Mục tiêu của việc đề ra chính sách
Chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách chính sách tiền lương là
nhằm tạo ra động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và
hiệu quả quản lý nhà nước, khai thác và phát huy tiếm năng vô hạn từ người
lao động, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương mới theo hướng cơ chế
thị trường; cơ bản tính đúng chính sách và phân phối tiền lương. Hệ thống
thang bảng lương mới phải đảm bảo tiền lương vừa là động lực và là đòn
bẩy kích thích người lao động làm việc.
1.2.6. Sự cần thiết của việc cải cách chính sách tiền lương
Cải cách chính sách tiền lương là một yêu cầu cấp bách nhằm sớm
khắc phục những bất hợp lý trong chính sách tiền lương. Dù đã nhiều lần
thực hiện cải cách chính sách tiền lương để phù hợp với xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập. Nhưng chính sách
tiền lương vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế như: mức lương tối

thiểu vẫn chưa đảm bảo nhu cầu tối thiểu, quan hệ tiền lương vẫn mang tính
bình quân. Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tiền lương của
15


cán bộ, công chức phải đặt trong mối tương quan với mặt bằng tiền lương
và thu nhập của thị trường. Tuy nhiên hệ thống chính sách tiền lương cũ cho
thấy việc trả lương thấp rất dễ dẫn đến tiêu cực, tham nhũng trong thực thi
nhiệm vụ và tăng dòng dịch chuyển lao động từ khu vực nhà nước ra khu
vực thị trường.Tiền lương chưa kích thích người lao động làm việc tốt hơn.
Chính vì vậy việc cải cách chính sách tiền lương là rất cấp bách nhằm tạo ra
sự chuyển biến tích cực và làm động lực cho sự phát triển của đất nước.

Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CẢI
CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 1993 ĐẾN NAY
16


Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã
ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình Việt Nam. Hội nghị Trung ương lần thứ
7, 8 khóa VII đã phân tích nguyên nhân sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
các nước này và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của đảng, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn để xây
dựng công cuộc đổi mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các
lĩnh vực.
Về kinh tế: xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Kinh tế vĩ mô cơ

bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển.
Tăng trưởng kinh tế bình quân năm 2006-2010 đạt 7%.
Về chính trị: tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị được sắp
xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, dân chủ, công khai, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng được đổi
mới về mọi mặt, thể hiện vai trò ngày càng tích cực trong tập hợp bảo vệ
quần chúng. Đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ vững và nâng cao vai trò đối
với đất nước xã hội.
Về xã hội: giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính
sách với gia đình và người có công với cách mạng, chính sách an ninh xã
hội đạt kết quả tích cực và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng.
Về đối ngoại: chúng ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận của các
thế lực thù địch, mở rộng quan hệ song phương và đa phương, quan hệ rộng
rãi với các nước. vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế. Nước ta đã gia nhập các tổ chức kinh tế lớn như: IMF,WB, ADB,
AFTA, ASEM,...

17


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn tồn tại những
hạn chế: kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh thấp. tăng trưởng kinh tế phát triển theo chiều rộng. Hệ thống chính trị
còn nhiều nhược điểm: năng lực và hiệu quả của đảng, hiệu quả quản lý của
nhà nước, hiệu quả động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
chưa đáp ứng được đòi hòi của tình hình, nhiệm vụ mới. Còn nhiều vấn đề
nỏi cộm như: tình trạng thiếu việc làm còn cao, chính sách tiền lương thu
nhập chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận
tâm với công việc. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn, khoảng

cách giàu nghèo càng lớn. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn
biến hoà bình” lật đổ nhà nước Việt Nam. Tất cả những thách thức trên đã
ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện các chính sách của nhà nước đòi
hỏi phải khắc phục kịp thời.
2.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM

2.2.1. Các yếu tố bên ngoài tác động đến bản chất vấn đề và chất lượng
hoạch định chính sách tiền lương ở Việt Nam
Tính bất hợp lý trong quá trình hoạch định cải cách chính sách tiền
lương thể hiện ở cách tính lương của nhà hoạch định. Với cách tính hiện
nay thì hệ thống thang bản lương đã, đang và ngày càng xa rời và không
khuyến khích được người lao động. Các tiêu chí xây dựng hay điều chỉnh
chính sách tiền lương vẫn dựa trên những tiêu chí đã lỗi thời và không còn
phù hợp với điều kiện, mới khiến cho chính sách tiền lương trở nên chắp vá
là chính. Ví dụ điển hình: nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hiện nay vẫn đang tính
toán trên cơ sở giỏ hàng hóa của năm 1985, tức là gần 30 năm trước. Với
cách tính như vậy mặc dù từ năm 2004 đến nay, chính phủ đã tiến hành tám
lần tăng lương với ngân sách chi cho cải cách tiền lương không hề nhỏ,
18


nhưng trong thực tế cũng chỉ mới bù đắp được mức tăng chỉ số giá tiêu
dùng chứ chưa đáp ứng được mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của
người hưởng lương, vì vậy càng cải cách càng bất ổn. Quan hệ tiền lương
tối thiểu- trung bình tối đa chưa hợp lý, hệ số trung bình quá thấp. Hiện vẫn
còn tồn tại tình trạng trả lương cào bằng, cán bộ, công chức được trả theo
chức vụ, chức danh nghiệp vụ chuyên môn, thâm niên công tác: “ làm
nhiều hay làm ít vẫn trả lương như nhau”; tiền lương chưa phù hợp với mức
độ cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả công tác của cán bộ,

công chức. Mức lương tối thiểu chung là lưới an toàn xã hội, chống bóc lột,
đói nghèo làm chuẩn cho chính sách xã hội và việc làm bền vững, trong khi
sử dụng để so sánh qua hệ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức là
không phù hợp, lỗi thời. Tiền lương tối thiểu hết sức vô lý, mâu thuẫn: khu
vực chi từ ngân sách tiền lương tối thiểu ở thành phố, đô thị là thấp nhất và
khu vực sản xuất kinh doanh lại cao nhất. Quan hệ tiền lương đang bị phá
vỡ bởi việc bổ sung tiền lương cho các ngành bằng việc quy định cơ chế
tính đơn giá tiền lương doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống thang bảng lương
còn rườm rà, khoảng cách giữa các bậc lương chênh lệch không đáng kể so
với thời gian nâng một số chế độ trợ cấp chưa phù hợp, hệ số lương khới
điểm các ngạch quá thấp. Hiện tại các ngạch công chức viên chức vẫn áp
dụng theo tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức từ năm 1993 do Ban
tổ chức cán bộ Chính phủ( nay là Bộ Nội vụ) ban hành và không còn phù
hợp với hiện nay. Thang, bảng lương, phụ cấp áp dụng đối với doanh
nghiệp quốc doanh còn mang tính hình thức. Mức lương theo hệ thống chỉ
còn giữ vai trò làm cơ sở, hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và quyền khác
theo quy định của Luật lao động.
Các chế độ phụ cấp lương và chế độ nâng ngạch, bậc; các chế độ phụ
cấp lương chắp vá ngày càng vô lý góp phần phá vỡ quan hệ tiền lương
19


chung. Chế độ nâng ngạch, bậc, xếp lương quá bất cập không gắn với trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ của công việc đòi hỏi. Các quyết định chính sách
tiền lương còn mang tính chủ quan. Tiền lương là vấn đề phức tạp, chuyển
qua nhiều giai đoạn càng thêm phức tạp, khó hiểu. Nhưng trình độ hiểu biết
và nhận thức của cơ quan soạn thảo đến cấp quyết định còn quá nhiều hạn
chế, không đầy đủ. Không ít cơ quan nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa
học,lãnh đạo, quản lý đã đóng góp đề án thiếu hiểu biết sau sắc, toàn diện,
quá trình trao đổi, bàn luận không tường tận, ý kiến đóng góp chủ yếu bằng

cảm tính,... làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xây dựng chính sách
tiền lương và chính sách có liên quan chưa tập chung đầu tư công sức, thời
gian và vật chất để nghiên cứu, lắng nghe, hiểu biết chính sách tiền lương,
quyết định còn mang tính chủ quan, kinh nghiệm và nặng nề chính trị.Bên
cạnh đó lịch sử để lại khiến cho việc hoạch định chính sách tiền lương
không thoát khỏi tư tưởng bình quân, chủ nghĩa cào bằng, cơ chế bình quân
chủ nghĩa trong cách trả lương và tăng lương cho công chức là trọng yếu
trong chính sách tiền lương. Nhiều người có tuổi nhưng thiếu năng lực vẫn
được hưởng cao gấp nhiều lần có năng lực. Không có sự khác nhau rõ ràng
trong cơ chế trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức có hiệu quả làm
việc khác nhau. Đây là hạn chế về năng lực của tổ chức thực hiện cải cách
chính sách tiền lương.
Quy mô của nhóm mục tiêu: chính sách tiền lương là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vì
vậy việc cải cách chính sách tiền lương là một yêu cầu cấp thiết và quan
trọng trong các nỗ lực cải cách hệ thống chính sách về phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam. Mục tiêu của cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam
là từng bước xây dựng một cách khoa học, hiệu quả trong từng mắt xích của
quy trình chính sách đảm bảo được tính cạnh tranh, giúp cán bộ, công chức,
20


viên chức sống được bằng lương. Tiền lương phải trở thành thước đo giá trị
sức lao động, đảm bảo tái sản xuất sức lao động, là nguồn thu nhập chính
của người lao động gắn với năng suất lao động, chất lượng công việc và góp
phần thực hiện công bằng xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay để thực
hiện cải cách chính sách tiền lương đạt được mục tiêu trên cũng rất khó
khăn vì năng suất lao động và hiệu quả công việc còn thấp nên tiền lương
vẫn còn thấp.Phạm vi và các nhóm đối tượng đặc thù của chính sách ảnh
hưởng tới quá trình thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Đối tượng

phạm vị của chính sách rất rộng và phức tạp: gồm lao động khối thị trường
và hành chính sự nghiệp, lao động thược khối doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp nhà nước; cán bộ, viên chức thuộc khối hành chính sự nghiệp
và các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Do liên quan đến
nhiều người, lợi ích khác nhau nên khi thực hiện chính sách cần tính đến
yếu tố lợi ích và động lực của người tham gia thực hiện chính sách.Ở Việt
Nam hiện nay có khoảng 22 triệu người chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính
sách tiền lương và sẽ chịu tác động rất lớn nếu năm 2013 chưa tăng mức
lương tối thiểu. Một vấn đề nữa là nếu xem xét việc trả lương như chi cho
đầu tư phát triển thì phải coi tiền lương là giá cả sưc lao động được xác định
theo nguyên tắc thị trường. Do đó, mức tiền lương trả cho người lao động
phải căn cứ vào sức sản xuất, kết quả lao động và mức đóng góp của người
lao động tại vị trí họ đảm nhận công việc, trên cơ sở đảm bảo lợi ích hài hòa
giữa người lao động và doanh nghiệp. Có như vậy mới góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ lao động và minh bạch hóa các quan hệ xã hội. đây là
một vấn đề khó khăn nhất hiện nay vì nó phải đồng thời tinh giản bộ máy,
tái cấu trúc nền tài chính công, tái cấu trúc đơn vị sự nghiệp công và tái cấu
trúc doanh nghiệp nhà nước,... Trên thực tế ở nước ta hiện nay khoản thu
nhập từ lương chiếm 30% - 100% tùy thuộc vào vị trí công tác của cán bộ,
21


công chức. có nhiều trường hợp tiền lương không đủ sống thì thu nhập
ngoài lương lại rất cao và không có giới hạn, minh bạch và không kiểm soát
được. Trong phần thu nhập ngoài lương có nhiều khoản không chính đáng,
song chủ yếu lợi dụng quyền lực để tham nhũng, tiêu cực trong thi hành
công vụ. Mặc dù nhiều cán bộ than phiền do lương không đủ sống nhưng
vẫn tìm mọi cách để được biên chế vào các cơ quan nhà nước làm cho bộ
máy hành chính cứ phình to và hiệu quả kém. Luật cán bộ, công chức đã
quy định công chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho

thôi việc, người nào không đáp ứng được yêu cầu của vị trí làm việc sẽ bị
đưa ra khỏi công vụ. Sự đối lập giữa các lợi ích của một số bộ phận cán bộ,
công chức, viên chức với quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước có
ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương vì
nhóm người bị thiệt thòi này có thể trực tiếp là những người tổ chức, thực
hiện chính sách nên họ có phản ứng tiêu cực, hoặc bằng mọi hình thức cản
trở và gây tác hại đến việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Ngoài
ra, chính sách tiền lương hiện nay còn xuất hiện mâu thuẫn bất bình đẳng
trong cán bộ đảng viên và đội ngũ nhân sự làm việc hưởng lương. Một bên
là người lao động không được hưởng đủ lương và thuộc diện nhèo, nên
không đủ trang trải cuộc sống và sinh hoạt gia đình ở mức tối thiểu. Một
bên là những người hoạch định và quyết định chính sách tiền lương vẫn còn
thụ hưởng chế độ bao cấp, nếu tính đúng tính đủ chế độ thì đưa vào lương
lại vượt giá trị sức lao động và cao hơn tiền lương cùng chức vụ ở các nước
phát triển, vừa không tạo ra động lực lãnh đạo và quản lý có trách nhiệm
hiệu quả, vừa gây lãng phí lớn ngân sách nhà nước. Chính từ những chính
sách ưu đãi này làm cho cán bộ không hiểu sự cùng cực của người lao động
hưởng lương thuộc diện nghèo. Do thiếu sự đồng cảm chia sẻ với người lao
động làm tư duy xơ cứng, bảo thủ quan liêu, nên mỗi lần họp Quốc hội bàn
22


về chính sách tiền lương các đại biểu trả lời trước Quốc hôi là do “ thiếu
ngân sách và năng suất lao động thấp nên không thể tăng lương”. Chính
những tư duy bảo thủ của những nhà hoạch định chính sách tiền lương,
những người tổ chức thực hiện chính sách hay nói cách khác là những lợi
ích cục bộ đã đang và bị chi phối, cản trở gây khó khăn cho việc thực hiện
cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay.
2.2.2. Các yếu tố liên quan đến khả năng thực hiện cải cách chính sách
tiền lương ở Việt Nam.

Năng lực tổ chức thực hiện: theo trình tự muốn tổ chức thực hiện
chính sách đạt kết quả cao thì trước tiên phải xây dựng được một lộ trình
khoa học, xây dựng các kế hoạch cho từng giai đoạn, phân tích những yếu
tố tác động có thể xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách từ đó lập các
phương án khác nhau để quá trình thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao.
Tuy nhiên, trên thực tế quá tổ chức, thực hiện cải cách chính sách tiền
lương thì lại không xây dựng được đề án cải cách chính sách tiền lương một
cách khoa học và có tính cơ sở, tính khả thi mà vẫn giữ nguyên theo hệ
thống cũ để điều chỉnh tiền lương tối thiểu trên cơ sở đó điều chỉnh mức
lương khác tự động lên theo, chắp chỗ này vá chỗ khác trong khi chất lượng
đội ngũ cán bộ và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức hiện không được chấn chỉnh là một cách làm lãng phí về mặt tài chính.
Rõ ràng cải cách chính sách tiền lương được đề ra với mục tiêu là trả lương
đúng và đủ cho mọi người lao động, bảo đảm giá trị sức lao động và hy
vọng sau khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương sẽ thay đổi cho phù
hợp với mục tiêu của chính sách thì cơ quan tổ chức lại giải quyết vấn đề
mới bằng cách sử dụng kỹ thuật mới đã quen thuộc với họ. Vì vậy họ có xu
hướng tiếp cận vấn đề cải cách chính sách tiền lương theo lối tư duy áp đặt

23


hệ thống tiền lương cũ để điều chỉnh. chính điều này đã hạn chế năng lực tổ
chức thực hiện của tổ chức.
Cách thức thực hiện chính sách cũng là yếu tố ảnh hưởng tới quá tới quá
trình thực hiện chính sách cải cách chính sách tiền lương. Trong các hội
thảo về cải cách chính sách tiền lương được tổ chức gần đây, nhiều vấn đề
về chọn kế sách và bước đi như thế nào cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của Việt Nam. Một số chuyên gia cho rằng điểm khởi đầu quan trọng
nhất là phải xây dựng luật cơ bản về tiền lương thật rõ ràng và đúng đắn,

tiếp đó là các vấn đề chính sách bảo vệ tiền lương và hướng tới thành lập
các hướng độc lập với chủ sử dụng lao động nhằm đảm bảo trả lương. Việc
trả lương phải công bằng không đối xử.
Không đủ nguồn lực: đây là nút thắt khó gỡ nhất trong việc thực hiện
cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay: cân đối ngân sách nhà
nước trong những năm gần đây gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp
tới khả năng tạo nguồn tài chính để thực hiện chế độ tiền lương. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế không đạt được như dự kiến ảnh hưởng đến thu cân đối
ngân sách nhà nước: khi xây dựng lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu
dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) 8,5-9%/năm; tuy nhiên tăng
trưởng kinh tế năm 2008 tăng trưởng 6,75%, năm 2011 là 5,89%. Do nhiều
nguồn thu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tốc độ tăng GDP nên kinh tế
khá khó khăn, thì thu ngân sách nhà nước không thể tăng nhanh dẫn tới
nguồn chi ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước nói
chung và nhiệm vụ cải cách tiền lương nói riêng gặp khó khăn.
Chi ngân sách nhà nước tăng nhanh hơn so với dự kiến, nhất là chi để thực
hiện các chính sách an sinh xã hội, từ đó dẫn đến nhu cầu chi ngân sách nhà
nước, không khỏi ảnh hưởng đến tăng nguồn cho thực hiện cải cách tiền
lương. Khả năng chi các nguồn lực khác để cân đối chi ngân sách nhà nước,
24


từ đó dành nguồn cho chính sách tiền lương còn hạn chế; trong vài năm trở
lại đây, số vay bù đắp bội chi đã tăng nhanh; tăng vay phát hành trái phiếu
chính phủ để đầu tư cho sở hạ tầng và nhiệm vụ cấp bách khác sẽ dẫn đến
việc dành nguồn lực chi cho chính sách tiền lương sẽ khó hơn.
Theo đề án cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2008 – 2012,
việc đổi mới cơ chế hoạt đông và tài chính của khu vực sự nghiệp công lập
theo hướng dịch vụ dự kiến sẽ huy động được trên 26000 tỷ đồng để làm
nguồn lương. Tuy nhiên, đến nay chỉ có đề án đổi mới một số cơ chế tài

chính trong lĩnh vực giáo dục đào tạo được Quốc hội thông qua. Thế nhưng
đề án này cũng không đạt được mục tiêu đã đề ra. Bên cạnh đó việc cân đối
ngân sách nhà nước ngày càng giảm thu khoảng 3000 tỷ đồng/ năm do
chính sách miễn giảm thuế của chính phủ. Những điều này khiến nhiệm vụ
cải cách tiền lương gặp khó khăn. Thực tế thì tiền lương nhà nước quy định
trả cho cán bộ, công chức, viên chức mặc dù còn thấp, nhưng khoản chi này
luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi ngân sách nhà nước. Bởi vậy để vừa
đảm bảo mục tiêu giảm dần chi ngân sách nhà nước xuống mức hợp lý vừa
giúp cán bộ, công chức, viên chức sống được bằng lương thì các ngàn chức
năng vãn buộc phải “ gọt chân cho vừa giày”. Tức là phương án ban đầu
thường rất hay, rất khoa học nhưng cuối cùng vì thiếu nguồn để chi trả
lương nên vừa phải hạ bớt mức tăng tiền lương tối thiểu vừa phải thu hẹp độ
dãn cách của các hệ số tiền lương so với đề án ban đầu. Rõ ràng nút thắt
khó gỡ nhất ảnh hưởng tới quá trình thực hiện cải cách chính sách tiền
lương là không đủ nguồn lực tài chính.
Trong báo cáo dự toán ngân sách 2013 ngày 22/10 tại kỳ họp Quốc hội, đại
diện Chính phủ - Bộ trưởng Bộ tài chính Vương Đình Huệ , cho biết khả
năng cân đối ngân sách cho năm 2013 rất khó khăn, chỉ bố trí 28.900 tỷ
đồng để tiếp tục thực hiện mức lương tối thiểu 1,050.000 đồng chứ chưa có
25


×