Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Những vấn đề pháp lý về ly thân (Tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.79 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ LƯƠNG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ LY THÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ LƯƠNG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ LY THÂN

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN

Hà Nội – 2016

ii



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Lương

iii


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
Tất cả các quý thầy cô đã giảng dạy cho em trong suốt khóa học tại
Khoa Luật - Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội. Thầy cô đã cung cấp cho em
nhiều kiến thức cơ bản và hữu ích, chúng là nền tảng quan trọng để em hoàn
thành tốt luận văn này.
Đặc biệt, em xin cảm ơn cô Nguyễn Thị Lan cô là ngƣời hƣớng dẫn
luận văn cho em. Trong quá trình giảng dạy và hƣớng dẫn luận văn, cô đã tận
tình quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ cũng nhƣ cung cấp nhiều kiến thức cơ bản và
chuyên ngành để em có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù em đã có nhiều nổ lực để hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, do

trình độ nghiên cứu chƣa cao và chƣa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên không
thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc những đóng góp quý báu
của quý thầy cô và các bạn.

Hà Nôị, ngày tháng 8 năm 2016

iv


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY THÂN ...........7
1.1.Quan niệm chung về ly thân ........................................................................7
1.1.1.Nguồn gốc của ly thân ..............................................................................7
1.1.2.Khái niệm về ly thân ...............................................................................10
1.1.3.Đặc điểm ly thân .....................................................................................17
1.1.4.Ý nghĩa ly thân ........................................................................................21
1.2. Ly thân trong pháp luật Việt Nam ............................................................23
1.2.1.Việt Nam giai đoạn trƣớc năm 1975 (miền Nam Việt Nam) .................23
1.2.2.Việt Nam giai đoạn sau năm 1975 ..........................................................29
1.3. Ly thân trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới ..............................32
1.3.1.Ở Cộng hòa Pháp ....................................................................................32
1.3.2.Ở Cộng hòa Philippines ..........................................................................35
1.3.3.Ở quốc gia Australian .............................................................................38
CHƢƠNG 2: LY THÂN TRÊN THỰC TẾ VÀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
ĐIỀU CHỈNH LY THÂN TẠI VIỆT NAM ....................................................43
2.1. Ly thân trên thực tế và những hệ quả từ ly thân .......................................43
2.1.1. Nhận xét chung ......................................................................................43
2.1.2. Những hệ quả pháp lý và xã hội từ ly thân ............................................47

2.1.3. Một số vụ việc cụ thể .............................................................................56

v


2.2. Xây dựng pháp luật điều chỉnh ly thân ở Việt Nam .................................58
2.2.1. Cần thiết phải quy định vấn đề ly thân trong Luật hôn nhân và gia đình
..........................................................................................................................58
2.2.2. Kiến nghị xây dựng các nội dung của chế định ly thân .........................64
KẾT LUẬN ......................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................82

vi


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng con
ngƣời, là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội tốt, xã hội
tốt thì gia đình tốt.
Tuy nhiên, trong cuộc sống gia đình không thể tránh khỏi những lúc
cơm không ngon, canh không ngọt dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng, khiến
những gắn kết trong gia đình không còn, vợ chồng không muốn hoặc không
thể chung sống. Nhận thức đƣợc vấn đề này pháp luật theo quan điểm tôn giáo
đã khởi nguồn quy định chế định ly thân với mục đích ban đầu coi ly thân là
giải pháp nhằm giải tỏa xung đột trong đời sống vợ chồng, tạo điều kiện cho
vợ, chồng “sống riêng”.
Hiện nay, trong luật dân sự của nhiều nƣớc tƣ sản, bên cạnh việc quy
định cho vợ chồng đƣợc ly hôn còn công nhận quyền ly thân của vợ chồng.

Ly thân còn đƣợc các nhà lập pháp coi nhƣ một giải pháp quá độ, một giai
đoạn thử thách cuối cùng trƣớc khi ly hôn. Thời gian vợ chồng sống ly thân
theo luật định sẽ tạo điều kiện cho vợ chồng suy nghĩ lại, tạo điều kiện tái hợp
cuộc sống chung của vợ chồng trƣớc khi vợ chồng quyết định ly hôn nhằm
chấm dứt quan hệ vợ chồng trƣớc pháp luật. Pháp luật một số nƣớc quy định
ly thân thực tế là một trong những căn cứ để giải quyết cho vợ chồng ly hôn ví
dụ nhƣ Singapore, Philippin, Pháp, Canada… Tuy nhiên, Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam quy định hai phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn giữa vợ

1


chồng là hòa giải để đoàn tụ, hoặc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn, còn vấn đề
ly thân lại chƣa đƣợc luật quy định.
Thực tế, không chỉ ở nƣớc ta mà nhiều nƣớc trên thế giới hiện tƣợng ly
thân đã trở thành trào lƣu rất phổ biến. Đặc biệt, với những cặp vợ chồng theo
Công giáo, với giáo lý “những gì Chúa đã tác hợp thì ngƣời đời không có
quyền sửa đổi” nên họ không ly hôn, mà khi mâu thuẫn xảy ra, thƣờng chấp
nhận ly thân, thậm chí là sống ly thân đến hết cuộc đời.
Vấn đề ly thân đã từng là vấn đề pháp lý đƣợc quy định trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 1986. Tuy nhiên, tới Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 và mới nhất Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vấn đề này lại
không đƣợc quy định. Vấn đề đặt ra là “Tại sao Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 lại không quy định về ly thân”? Và tại sao vấn đề này không đƣợc
pháp luật quy định nhƣng vẫn diễn ra rất phổ biến trong xã hội?
Thực tế vấn đề ly thân không đƣợc pháp luật điều chinh chính vì vậy
khi xảy ra trong xã hội đã làm phát sinh một số vƣớng mắc không biết giải
quyết nhƣ thế nào. Cụ thể:
- Tranh chấp quyền trực tiếp nuôi dƣỡng, chăm sóc con cái trong thời
gian ly thân, vẫn đề về cấp dƣỡng của ngƣời không trực tiếp nuôi dƣỡng con

cái trong thời gian sống ly thân chƣa đƣợc quy định cụ thể.
- Yêu cầu về cấp dƣỡng giữa vợ chồng khi vợ chồng ở trong tình trạng
khó khăn trong cuộc sống do ốm đau, bệnh tật mà cần sự giúp đỡ trong thời
gian ly thân đƣợc giải quyết nhƣ thế nào?
- Tranh chấp về tài sản trong thời gian ly thân; quyền và nghĩa vụ của
vợ, chồng với ngƣời thứ 3 nhƣ thế nào?

2


- Trong quá trình vợ, chồng sống ly thân, vợ/ chồng xác lập quan hệ tài
sản với ngƣời thứ ba, nếu có tranh chấp, thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của ngƣời thứ ba cũng đang còn nhiều vấn đề tranh cãi do chƣa có
quy định cụ thể về tài sản của vợ chồng trong thời gian ly thân. Do vậy, việc
giải thích pháp luật ở mỗi nơi một khác, ảnh hƣởng đến quyền lợi ích của
ngƣời khác.
Từ những vần đề bức xúc, bất cập nêu trên ngƣời viết chọn đề tài
“Những vấn đề pháp lý về ly thân”. Với đề tài này ngƣời viết nghiên cứu về
chế định ly thân, tầm quan trọng của chế định ly thân mà rất cần đƣợc pháp
luật công nhận và điều chỉnh. Để từ đó góp phần xây dựng những quy phạm
pháp luật điều chỉnh về ly thân, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh
chấp về tài sản, con cái của vợ chồng trong thời gian sống ly thân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về vấn đề ly thân, không chỉ
có riêng ngành luật mà nhiều ngành khoa học khác cũng tham gia vào vấn đề
này. Trong lĩnh vực pháp luật, chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình đã có
nhiều bài viết về các khía cạnh của ly thân nhƣ: Vấn đề ly thân có đƣợc quy
định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986 của Th.S. Nguyễn
Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học số 6 năm 1987; Sự cần thiết và những nội
dung cơ bản của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2000 đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tƣ
pháp số chuyên đề Sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
năm 2013… “Bổ sung chế định ly thân vào Luật Hôn nhân và gia đình –
những vấn đề pháp lý và thực tiễn” của TS. Bùi Minh Hồng đăng trên tạp chí

3


Dân chủ và pháp luật chuyên đề “sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000” – NXB Tƣ pháp; hay “Vấn đề ly thân” của TS. Ngô Thị Hƣờng tại
Hội thảo khoa học về Những nội dung liên quan đến Dự thảo Luật Hôn nhân
và gia đình sửa đổi diễn ra tại trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2014… Có
thể nói, các ấn phẩm đã đề cập đến vấn đề ly thân và nghiên cứu nó trong
phạm vi của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Các bài viết là sự nghiên
cứu sâu sắc và đƣa ra những lý luận cần thiết của chế định ly thân. Trên cơ sở
tham khảo và học hỏi, luận văn tìm đến khía cạnh khác, đặt vấn đề ly thân
đƣợc quy định trong pháp luật Việt Nam so sánh với pháp luật một số nƣớc
trên thế giới quy định về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở phân tích về mặt lý
luận vấn đề ly thân và những bất cập trong giai đoạn ly thân mà pháp luật
chƣa điều chỉnh đến, từ đó ngƣời viết phân tích về khả năng áp dụng các quy
định về ly thân tại Việt Nam và đƣa ra hƣớng đề xuất những giải pháp góp
phần hoàn thiện pháp luật nói chung, Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Phân tích những vấn đề lý luận liên quan về ly thân trong pháp luật
Việt Nam và pháp luật một số nƣớc trên thế giới nhƣ Pháp, Philippin,
Australia...
- Phân tích, đánh giá khả năng áp dụng các quy định về ly thân tại Việt

Nam.

4


- Đƣa ra những kiến nghị và hƣớng hoàn thiện pháp luật về ly thân.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của pháp
luật về ly thân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và pháp luật về vấn
đề ly thân ở một số nƣớc trên thế giới. Đồng thời, ngƣời viết còn nghiên cứu
sâu về thực trạng những bất cập đang tồn tại về một số quyền và nghĩa vụ
trong giai đoạn ly thân không có yếu tố nƣớc ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài ngƣời viết đã sử dụng một số biện
pháp nghiên cứu cơ bản. Đầu tiên, để có tƣ liệu cho việc nghiên cứu, ngƣời
viết đã sử dụng biện pháp sƣu tầm, tìm kiếm tài liệu, phân loại tài liệu, tham
khảo các thông tin tạp chí để chọn lọc, sắp xếp, cơ cấu cho phù hợp vào nội
dung từng chƣơng tiếp đó, trong quá trình viết cũng sử dụng các biện pháp liệt
kê, so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với nhau, đồng thời để tạo ra
sự dễ dàng cho ngƣời đọc trong việc tiếp cận luận văn ngƣời viết cũng đã sử
dụng các biện pháp tổng hợp, diễn dịch, quy nạp để phân tích, chứng minh
hay giải thích vấn đề, và để luận văn mang tính khách quan, thực tế, ngƣời
viết còn dựa trên cơ sở thực tiễn của đời sống từ các nguồn thông tin trên
website, tạp chí, sách báo,… tất cả các phƣơng pháp trên đƣợc trình bày đan
xen trong luận văn, tùy từng nội dung mà áp dụng phƣơng pháp cho phù hợp
để tạo ra sự hài hòa, cân đối mạch lạc trong từng vấn đề của luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Đề tài “Những vấn pháp lý vê ly thân” đƣợc kết cấu gồm:

5



• Lời mở đầu
• Phần nội dung gồm hai chƣơng:
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận chung về ly thân
Chƣơng 2. Ly thân trên thực tế và xây dựng pháp luật điều chỉnh ly
thân tại Việt Nam
• Phần kết luận
• Danh mục tham khảo

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY
THÂN
1.1.Quan niệm chung về ly thân
1.1.1.Nguồn gốc của ly thân
Theo học thuyết Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình thì vấn đề ly thân
có nguồn gốc từ tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lê nin nhìn nhận hôn nhân và gia
đình là những hiện tƣợng xã hội có quá trình phát sinh, phát triển, do các điều
kiện kinh tế – xã hội quyết định. Trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tƣ hữu và của Nhà nƣớc”, Mác và Ănghen đã phân tích,
chứng minh một cách khoa học rằng: lịch sử gia đình là lịch sử của quá trình
xuất hiện chế độ quần hôn, chuyển sang gia đình đối ngẫu, phát triển lên gia
đình một vợ một chồng – là quá trình không ngừng hoàn thiện hình thức gia
đình, trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện sinh hoạt vật chất của con
ngƣời. Mác và Enghen đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng: “Cái sẽ biến mất một
cách chắc chắn trong chế độ một vợ, một chồng là tất cả những đặc trƣng mà
những quan hệ tài sản đẻ ra nó. Những đặc trƣng đó là: Thứ nhất, là sự thống
trị của ngƣời đàn ông và thứ hai là tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân. Sự

thống trị của ngƣời đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự
thống trị về kinh tế. Tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, một phần là kết
quả của sự thống trị về kinh tế trong đó chế độ một vợ, một chồng phát sinh
và phần nữa là truyền thống của thời kỳ trong đó mối quan hệ giữa những
điều kiện kinh tế ấy với chế độ một vợ một chồng còn chƣa đƣợc ngƣời ta
hiểu đúng đắn và đã bị tôn giáo thổi phồng lên...”[17] và “Nhà thờ Thiên chúa
giáo sở dĩ cấm ly hôn, có lẽ cũng chỉ vì đã thấy rằng không có phƣơng thuốc

7


nào trị đƣợc ngoại tình cũng nhƣ không có phƣơng thuốc nào trị đƣợc cái chết
cả”. Do vậy, khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đến mức trầm trọng, không thể
sống chung với nhau đƣợc nữa, thì ly thân là một biện pháp đƣợc tính đến để
giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng. Nhƣ vậy, ly thân có nguồn gốc từ tôn
giáo.
Đối với giáo hội Công giáo, hôn nhân là một vấn đề quan trọng nên đã
đƣợc nâng lên thành 1 trong 7 Bí tích thánh. Trong Sách giáo lý đã khẳng
định: “Hôn phối là nhiệm tích do Chúa Giêsu lập để kết hợp hai ngƣời tín
hữu, một nam, một nữ thành vợ chồng trong tình yêu thƣơng, đồng thời ban
ơn cho họ để họ xây dựng gia đình hạnh phúc và sinh sản con cái, góp phần
vào công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa và xây dựng gia đình nhân loại mỗi
ngày mới tốt đẹp hơn”[8]. Theo đó quan điểm của hội Thiên chúa, việc lấy vợ,
lấy chồng của nam, nữ là do “Chúa” tạo lập, mà “Những gì Thiên chúa tác
hợp thì loài ngƣời không đƣợc phân ly” (Mt 19,6), “sự ƣng thuận cá nhân
không thể rút lại”. Do đó, hôn nhân có tính “bất khả đoạn tiêu”, vợ chồng phải
“ăn đời ở kiếp” với nhau, không đƣợc ruồng bỏ nhau, quan điểm của giáo hội
thƣờng cấm vợ chồng ly hôn. Vì vậy, giáo lý Công giáo số 2384 đã nói- "Ly
dị là một vi phạm nặng nề đối với luật tự nhiên: nó dám phá vỡ giao ƣớc đã
đƣợc hai vợ chồng tự do ký kết, là sống với nhau cho đến chết”. Tuy nhiên,

hôn nhân là hiện tƣợng xã hội có nội dung khá đa dạng. Trong thực tế đời
sống hôn nhân gia đình lại thƣờng diễn ra theo một lôgíc không thuận lợi, dễ
dàng nhƣ ngƣời ta hằng mơ tƣởng, mà ở đó luôn có sự va chạm về mọi
phƣơng diện giữa hai con ngƣời "bằng xƣơng, bằng thịt với những giới hạn
vốn có của con ngƣời bình thƣờng; hay nói cách khác, ở đó cặp uyên ƣơng
mới bƣớc vào đời với tất cả những gì mơ mộng, lãng mạn của "thuở ban đầu

8


trong tình yêu lung linh, ngọt ngào có thể sẽ vấp phải ngay "vị đắng" của "tình
yêu sau hôn nhân", sẽ phải đối mặt với những "khuyết tật" của nhau và cả
những khuyết tật" của chính mình, dẫn đến việc nhìn nhận thấy những mặt trái
của hạnh phúc, không nhƣ sự mong đợi ban đầu... dẫn đến nảy sinh xung đột,
mâu thuẫn sâu sắc, vợ chồng không muốn hoặc không thể sống chung. Pháp
luật theo quan điểm tôn giáo thƣờng cấm vợ chồng ly hôn và chế định ly thân
đƣợc quy định trong luật với mục đích ban đầu coi ly thân là giải pháp nhằm
giải tỏa xung đột trong đời sống vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng “sống
riêng”.
Nhƣ vậy, khi bất hòa trong mối quan hệ vợ chồng ngày càng trầm trọng
vợ chồng không thể sống chung thì ly thân đƣợc đặt ra để giải quyết mâu
thuẫn trong quan hệ vợ chồng của những ngƣời theo công giáo vì luật giáo hội
cấm ly hôn. Xong ly thân không phải chỉ là để áp dụng riêng cho những ngƣời
theo công giáo. Do đó, nhiều ngƣời không theo công giáo cũng lựa chọn giải
pháp ly thân để giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng. Dần dần,
chế định ly thân đƣợc áp dụng rộng rãi, một số nƣớc áp dụng chế định ly thân
nhƣ một giai đoạn chuyển tiếp trƣớc khi đến ly hôn.
Hiện nay trên thế giới ly thân đƣợc nhiều nƣớc công nhận là quyền của
vợ chồng và quy định cụ thể các vấn đề pháp lý liên quan đến ly thân. Một số
nƣớc phân biệt ly thân về pháp lý với ly thân thực tế. Ly thân về pháp lý là

trƣờng hợp vợ chồng yêu cầu ly thân và Tòa án ra quyết định công nhận ly
thân. Ly thân thực tế là trƣờng hợp vợ chồng tự nguyện sống riêng mà chƣa
có quyết định của một cơ quan có thẩm quyền. Pháp luật một số nƣớc quy
định ly thân thực tế là một trong những căn cứ để giải quyết cho vợ chồng ly

9


hôn, ví dụ: pháp luật Singapore, Philippin, Pháp, Canada... Pháp luật một số
nƣớc không quy định ly thân nhƣ: Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc...
1.1.2.Khái niệm về ly thân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, hôn nhân là hiện tƣợng xã
hội. Vì vậy, khi nghiên cứu “hiện tƣợng xã hội” này, chúng ta cần xem xét
toàn diện trong quá trình phát sinh, tồn tại và chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Theo Ph.Ăngghen, cơ sở nền tảng của hôn nhân và cuộc sống gia đình bền
vững phải là tình yêu, là tình thƣơng yêu lẫn nhau một cách thực sự giữa hai
ngƣời yêu nhau. Ở đây, quan hệ kinh tế, điều kiện sinh sống không phải là
không cần thiết, song tiền đề quan trọng và quyết định vẫn cứ phải là tình yêu.
Ăngghen khẳng định: “Trong lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ ca, không
một quan niệm nào được xác lập bất di bất dịch và vững chắc bằng quan niệm
cho rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào không dựa trên tình thương yêu lẫn nhau
và trên sự thoả thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng, đều là vô đạo đức
cả”[6, tr.126]. Tình yêu này cần phải đƣợc duy trì, nuôi dƣỡng và phát triển
đầy đủ trong một cuộc sống gia đình bền vững và đến lƣợt mình, sự bền vững
của tình yêu lại tuỳ thuộc vào chính hai con ngƣời yêu nhau, nhất là vào ngƣời
đàn ông. Nếu tình yêu không còn thì cách tốt nhất đối với họ và cho cả xã hội
là ly hôn. Ph.Ăngghen viết: “Sự thôi thúc của tình yêu cá thể giữa nam và nữ
thì lại tuỳ từng người mà lâu dài rất khác nhau, nhất là đối với đàn ông; và
nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi,
thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội. Chỉ cần tránh

cho người ta khỏi sa chân vô ích vào vũng bùn kiện tụng để ly hôn mà thôi”[6,
tr.128]. Nhƣ vậy, hôn nhân phát sinh, tồn tại là nhờ tình yêu đơm hoa kết trái,

10


và hôn nhân cũng kết thúc khi tình yêu trở nên phai nhạt. Tình yêu là cơ sở
nền tảng của hôn nhân và cuộc sống gia đình bền vững. Hôn nhân và cuộc
sống gia đình bền vững là cái nôi nuôi dƣỡng và bảo đảm cho tình yêu tồn tại
lâu dài và ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, hôn nhân và gia đình là hiện tƣợng xã hội luôn vận động và
chịu tác động có tính chất quyết định của các điều kiện kinh tế xã hội. Ở nƣớc
ta hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng với lối sống hiện
đại có ít nhiều ảnh hƣởng đến mối quan hệ hôn nhân gia đình khi trong thời
gian chung sống, giữa vợ và chồng không tránh khỏi phát sinh những mâu
thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt đƣợc và cả hai vợ chồng
không thể tiếp tục cuộc sống chung đƣợc nữa thì pháp luật quy định cho phép
chấm dứt quan hệ vợ chồng bằng việc giải quyết cho ly hôn. Tuy nhiên hiện
nay ngoài biện pháp ly hôn nói trên thì có rất nhiều cặp vợ chồng, họ tìm đến
biện pháp ly thân nhƣ một biện pháp “ly hôn thử” trƣớc khi đƣa ra biện pháp
tốt nhất cho cuộc hôn nhân của mình.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành nói chung và Luật Hôn nhân và gia
đình nói riêng thì hiện nay hoàn toàn không có chế định về ly thân vì luật
không có quy định nên không có một định nghĩa nào chính xác về ly thân,
cũng không có cơ quan, tổ chức nào đứng ra giải quyết cho ly thân theo
hƣớng ra quyết định hoặc bản án công nhận cho ly thân.
Theo từ điển Luật học, ly thân đƣợc hiểu là “việc vợ chồng chấm dứt
nghĩa vụ sống chung với nhau trong khi quan hệ hôn nhân chưa hoặc không
chấm dứt”[24]. Nghĩa vụ sống chung với nhau của vợ chồng chính là cuộc
sống của ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà khi kết hôn: chung nhà, chung bàn


11


ăn và chung chăn gối. Tất nhiên, vợ và chồng không nhất thiết ở chung, ăn
chung, ngủ chung một cách liên tục, thƣờng xuyên trong suốt thời kỳ hôn
nhân; song ít nhất giữa họ luôn phải có mối liên hệ sâu đậm về phƣơng diện
sinh hoạt vật chất và thân xác. Việc không chung sống liên tục trong thời gian
dài đƣợc hiểu là vợ chồng sống ly thân với nhau.
Theo cách hiểu thông thƣờng ly thân là sự sống riêng giữa vợ và chồng,
nhƣ là không ăn chung, ở chung, không sinh hoạt vợ chồng, mục đích của ly
thân là giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ và chồng, hoặc
tránh những chuyện đáng tiếc xảy ra. Đồng thời cũng có thể để các bên có
thời gian ăn năn hối cải khắc phục lỗi lầm, sữa đổi tính tình, tha thứ cho nhau
để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống. Ly thân không làm chấm dứt mối
quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng nên trong thời sống ly thân, các bên có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con cái và tải sản.
Thực tiễn khoa học Luật Hôn nhân và gia đình của một số quốc gia
khác trên thế giới nhƣ pháp luật của quốc gia Pháp thì chế định ly thân đƣợc
hiểu “Ly thân là sự giảm độ gắn kết quan hệ vợ chồng, theo đó, hệ quả quan
trọng nhất là sự hủy bỏ nghĩa vụ chung sống giữa vợ và chồng, trong khi
những nghĩa vụ khác nhƣ nghĩa vụ chung thủy, nghĩa vụ tƣơng trợ giúp đỡ
nhau vẫn phải đƣợc duy trì giữa hai vợ chồng việc ly hôn theo quy định của
pháp luật Pháp, do tòa án ra quyết định trên cơ sở những căn cứ và điều kiện
giống nhƣ căn cứ và điều kiện ly hôn, vợ chồng ly thân do lỗi của một bên
hoặc ly thân do cuộc sống chung đã hoàn toàn chấm dứt”.
Ngoài ra pháp luật Pháp còn có khái niệm ly thân thực tế “Ly thân thực
tế là tình trạng xảy ra trong thực tiễn, khi hai vợ chồng đã tự quyết định sống

12



hoàn toàn riêng biệt mà không có quyết định của tòa án, vì ly thân thực tế
không phải là chế định đƣợc quy định trong pháp luật nên không phát sinh bất
cứ hệ quả pháp lý nào giữa hai vợ chồng. Tuy nhiên nếu nhƣ trong thực tế vợ
chồng đã thực sự sống riêng biệt liên tục từ hai năm trở lên thì tình huống này
đƣợc coi là một căn cứ để xem xét khi một trong hai bên yêu cầu tòa án cho ly
hôn”.
Còn ở Anh quốc thì ly thân (separation, separate) đƣợc hiểu “Ly
thân giữa vợ chồng là đình chỉ quyền và nghĩa vụ sống chung chỉ còn
để lại nghĩa vụ trung thành và không thể kết lập cuộc hôn nhân mới. Sự
ly thân có thể là ly thân tƣ pháp (judicial separation) hay ly thân thuận ý
(voluntarg separation) ly thân này đƣợc thực hiện bởi chứng thƣ ly thân
(separation deed). Chứng thƣ ly thân hợp thức hóa sự hiện hữu phân
cách giữa vợ và chồng có thể có các quy định liên quan đến tiền trợ cấp
cho ngƣời vợ, trong trƣờng hợp ly thân tƣ pháp và bảo dƣỡng con cái.
Sự ly thân tƣ pháp có thể đƣợc tuyên do đơn xin của ngƣời chồng hay
ngƣời vợ nhằm một kỳ hạn nhất định hay vô hạn định trong tất cả các
trƣờng hợp mà sự ly hôn sẽ đƣợc thỏa thuận, với điều kiện là bên
đƣơng sự không có một lỗi lầm nào để bị trách cứ”. [23]
Tiếp cận dƣới góc độ pháp lý cho thấy rằng, chế định ly thân đã tồn tại
rất lâu ở các nƣớc trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, miền Nam trƣớc năm 1975
cũng đã từng có quy định về chế định này nhƣng hiện nay thì chế định ly thân
không đƣợc thừa nhận. Trong pháp luật của chế độ Sài Gòn dƣới thời Ngô
Đình Diệm nhƣ: Luật gia đình năm 1959, Sắc luật năm 1964 có quy định về ly
thân. Theo đó, vợ chồng muốn ly thân thì phải yêu cầu tòa án giải quyết. Tòa
án chỉ tuyên bố cho vợ chồng ly thân khi có các căn cứ phù hợp với quy định

13



của pháp luật. Khi bản án tuyên bố cho vợ chồng ly thân có hiệu lực pháp luật
thì vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ “đồng cƣ” tức là vợ chồng không có nghĩa vụ
sống chung với nhau khi quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn tồn tại. Nhƣ vậy, ly
thân đƣợc hiểu là vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ “đồng cƣ”, tức họ không còn
bắt buộc phải sống chung với nhau trong khi quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn
đang tồn tại.
Tại Dự thảo luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi) trình Quốc Hội khóa
XII tại kỳ họp thứ 6 đã dành một tiểu mục quy định về ly thân, Khoản 10 Điều
8 nêu khái niệm nhƣ sau: Ly thân đƣợc hiểu là: “tình trạng hôn nhân mà vợ
chồng không có nghĩa vụ sống chung với nhau được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận theo yêu cầu của vợ, chồng”.
Theo Dự thảo, việc sống chung với nhau là một nghĩa vụ của vợ chồng.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có trách nhiệm yêu thƣơng, chăm sóc, tôn
trọng, giúp đỡ lẫn nhau và sống chung dƣới một mái nhà. Tức là vợ chồng sẽ
cùng nhau ăn chung, ở chung và sống chung. Khi nghĩa vụ ấy không còn là
điều mà vợ chồng hƣớng đến, việc “chung ăn, chung nhà và chung chăn gối”
giữa vợ chồng trở nên khó khăn xong lại chƣa muốn ly hôn, thì vợ chồng có
thể yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận tình trạng ly thân của
vợ chồng. Tình trạng ly thân của vợ chồng bắt đầu có hiệu lực khi có sự công
nhận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Nói về tình yêu và hôn nhân, trƣớc hết Ph.Ăngghen khẳng định đó là
những giá trị cao quý của con ngƣời, là những quyền hết sức cơ bản của con
ngƣời - quyền đƣợc tự do yêu đƣơng và tự do kết hôn. “Những yếu tố chính
làm nên hạnh phúc ở đời là có việc gì đó để làm, có ai đó để yêu và có điều gì

14


đó để hi vọng” (C.Fericberg). Tình yêu làm ngƣời ta buồn chán, mất ăn mất

ngủ vì tình yêu rồi ngƣời ta lại hân hoan sung sƣớng vì tình yêu và để giấc
mộng vàng thành hiện thực ngƣời ta kết hôn và sống với nhau dƣới một mái
nhà. Hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung hoàn toàn này gồm những thành
phần vật chất: ở chung dƣới một mái nhà, ăn cùng một mâm, hƣởng chung
những sung sƣớng vật chất, đồng lao cộng khổ để cùng trở nên hạnh phúc,
cùng có đủ mọi nhu cầu của cuộc sống. Nhờ có tình yêu thƣơng gắn bó nên
những tiền của và những thắng lợi của chồng cũng coi nhƣ của chính ngƣời
vợ và ngƣợc lại ngƣời chồng cũng luôn hiểu rằng “của chồng, công vợ”. Từ
hai ngƣời khác nhau, hai tâm hồn và hai cá thể cá biệt họ đã tái hợp lại thành
một gia đình có chung một lí tƣởng nguyện ăn đời ở kiếp với nhau tạo nên
hạnh phúc lâu bền. Do đó, nếu nghĩ rằng, vợ chồng không nhất thiết phải
chung sống với nhau thì sẽ là một điều bất bình thƣờng.
Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp, vì lý do khách quan (vì
công việc, học tập...) mà vợ chồng có thể ở riêng (ở cách xa nhau), nhƣng đó
chỉ là sự cách xa về mặt khoảng cách địa lý, còn thực chất, họ vẫn luôn quan
tâm đến nhau, yêu thƣơng và vẫn giữ những quan hệ tình cảm qua lại với
nhau. Do vậy, cần thừa nhận rằng, việc vợ chồng chung sống với nhau là một
nghĩa vụ tự nhiên, luôn gắn liền với cuộc sống gia đình, là đặc trƣng của gia
đình. Nó là dấu hiệu của một gia đình toàn vẹn, một gia đình “bình thƣờng”
và cơ bản. Còn nếu giữa hai vợ chồng không còn sống chung với nhau, sẽ là
dấu hiệu của một sự thay đổi trong đời sống vợ chồng, điều này kéo theo
những hệ lụy, những hậu quả pháp lý liên quan đến quyền nhân thân, tài sản
của vợ chồng. Do vậy, việc quy định về nghĩa vụ sống chung của vợ chồng

15


làm căn cứ xác định tình trạng ly thân của vợ chồng là hợp lý và cũng phù hợp
với pháp luật các nƣớc trên thế giới quy định về ly thân.
Ly thân là hiện tƣợng vợ chồng không còn phải có nghĩa vụ sống chung

với nhau, nó gắn liền với vợ chồng, là quyền “nhân thân của vợ chồng” và chỉ
có vợ chồng mới có quyền quyết định duy trì tình trạng ly thân hay không.
Điều này cũng có nghĩa rằng không một chủ thể nào khác ngoài vợ, chồng có
quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền công nhận tình trạng ly thân của họ.
Hiện nay, ở Việt Nam chƣa có một định nghĩa nào thật sự chính xác,
phù hợp để giải thích thế nào là ly thân. Do đó, mỗi ngƣời lại có một cách
hiểu riêng về vấn đề này. Đây đang là một vấn đề phổ biến, thể hiện ở việc khi
ta gõ từ khóa “ly thân” trên thanh tìm kiếm google thì chỉ trong 0,29 giây cho
ta khoảng 2.930.000 kết quả. Đúng là một con số bất ngờ. Tuy nhiên, khi đi
sâu vào các kết quả thì ta chỉ thấy các kết quả của ly hôn mà ly thân thì chỉ có
trên tiêu đề. Điều này chứng tỏ ly thân đang là một vấn đề phố biến nhƣng
những nhận định và hiểu biết về nó một cách rõ ràng chƣa có.
Có ngƣời nói rằng, vợ chồng chỉ đƣợc coi là ly thân khi họ không cùng
chung sống trong một nhà. Nhƣng cũng có ý kiến cho rằng, ngay cả khi vợ
chồng sống chung một nhà vẫn có thể ly thân. Ly thân ở đây đƣợc hiểu là giữa
hai bên không có sinh hoạt vợ chồng.
Nhƣ đã phân tích, vấn đề ly thân không còn đƣợc quy định trong các
văn bản pháp luật hiện hành hay nói cách khác là vấn đề này không chịu sự
điều chỉnh của pháp luật chính vì thế xét về mặt pháp lý thì ly thân không có
một khái niệm cụ thể. Tuy quy định về ly thân trong dự thảo Luật hôn nhân và
gia đình (sửa đổi) không đƣợc thông qua, nhƣng qua việc tìm hiểu trên sách

16


báo, internet... tôi cũng đồng tình với quan điểm: “Ly thân là tình trạng hôn
nhân của vợ chồng, trong đó vợ chồng không có nghĩa vụ sống chung với
nhau và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo yêu cầu
của vợ, chồng”. Lý do:
Thứ nhất: Ly thân không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ và

chồng nên trong thời gian sống ly thân, các bên vẫn có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ đối với con chung và tài sản. Họ vẫn là vợ chồng, và ly thân chỉ là
giải pháp để giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng giữa hai vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, là khoảng thời gian để hai bên suy nghĩ, ăn năn
hối cải, khắc phục lỗi lầm, sửa đổi tính tình, tha thứ cho nhau… để vợ chồng
đoàn tụ, tiếp tục chung sống.
Thứ hai: Để đảm bảo tính minh bạch của vợ chồng khi tham gia vào các
quan hệ xã hội và thuận lợi cho công tác giải quyết tranh chấp phát sinh giữa
vợ chồng. Tòa án là cơ quan phù hợp nhất để công nhận tình trạng ly thân của
vợ chồng.
Thứ ba: quyền ly thân gắn với quyền nhân thân của vợ chồng, do đó,
chỉ có vợ chồng mới có quyền yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công
nhận ly thân giữa vợ chồng.[16]
1.1.3.Đặc điểm ly thân
Trƣớc khi tìm hiểu sâu về chế định ly thân, chúng ta cần tiếp cận những
đặc điểm của ly thân là gì. Từ việc phân tích, làm rõ các đặc điểm của chế
định ly thân, giúp chúng ta có đánh giá tổng quát sự đặc thù của chế định này.
Qua việc tìm hiểu các khái niệm về ly thân cũng nhƣ qua tìm hiểu sách báo tài
liệu liên quan có thể thấy ly thân có những đặc điểm sau:

17


- Trong ly thân không có yếu tố lỗi: Ly thân hiện nay là một hiện tƣợng
xã hội phức tạp vì nó liên quan không những tới lợi ích của vợ, chồng mà còn
liên quan đến lợi ích của con cái, những ngƣời thân và lợi ích của xã hội. Khi
kết hôn ai cũng đều hƣớng tới một cuộc sống hạnh phúc bền vững, tuy nhiên
cuộc sống muôn màu muôn vẻ, không ai có thể hiểu hết đƣợc ai, ai cũng có
cái tôi của mình, để đạt đƣợc mục đích đó đòi hỏi hai bên phải chấp nhận, bao
dung với nhau và cùng nhau thay đổi để hòa hợp. Song không phải cặp vợ

chồng nào cũng làm tốt điều đó, có đôi sống hạnh phúc, nhƣng cũng có đôi
thấy thất vọng về đối phƣơng, không thể tìm đƣợc sự đồng điệu. Tuy nhiên,
khi mâu thuẫn giữa cuộc sống vợ chồng không thể hòa giải nhƣng họ vẫn còn
dành tình cảm cho nhau thì họ tìm đến ly thân nhƣ một biện pháp nhìn nhận
lại mối quan hệ hôn nhân của họ trƣớc khi đi đến quyết định ly hôn, chấm dứt
mối quan hệ hôn nhân. Trong ly thân không có cơ quan nào phán xét ai đúng
ai sai, việc đúng việc sai sẽ do hai vợ chồng trong quá trình ly thân tự nhìn
nhận, xem xét, đánh giá, cân nhắc có nên tiếp tục mối quan hệ hay không. Ly
thân chỉ là sự công nhận về mối quan hệ vợ chồng đang xảy ra những mâu
thuẫn. Nếu sau thời gian ly thân, mà tình trạng vợ chồng vẫn trầm trọng, vợ
hoặc chồng vẫn chứng nào tật ấy, không cảm thông, tha thứ cho nhau, vẫn
không khắc phục lỗi lầm, không dung hòa... khi ấy, việc cứu chữa cuộc hôn
nhân coi nhƣ thất bại.
Trong nhiều trƣờng hợp, sự vi phạm nghĩa vụ hỗ trợ của vợ và chồng
có thể dẫn đến chế tài theo yêu cầu của vợ hoặc chồng. Song, đó chỉ là những
chế tài độc lập và không thể đƣợc ghi nhận trong quá trình giải quyết ly thân.
Nói đúng hơn, ly thân là một giai đoạn đang trên bờ vực thẳm của hôn nhân,
mà hai bên vợ chồng đều phải chịu trách nhiệm do không vun đắp đƣợc tình

18


cảm gia đình để duy trì cuộc hôn nhân bình thƣờng. Trách nhiệm của vợ,
chồng tuy không ngang nhau, nhƣng việc quy kết trách nhiệm chỉ mang tính
chất đạo đức và không dẫn tới những biện pháp chế tài của pháp luật, đặc biệt
là không có chế tài mang tính chất tài sản.
- Tự nguyện và không cƣỡng ép: Cũng giống nhƣ nguyên tắc đầu tiên
của kết hôn là phải đảm bảo yếu tố tự nguyện và không cƣỡng ép, việc kết
hôn là ý chí của cả hai bên không bên nào ép buộc, lừa dối bên nào. Hôn nhân
với mục đích gắn kết hai con ngƣời cá biệt cùng nhau xây dựng mái ấm gia

đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững vì vậy đòi hỏi sự tự nguyện của
cả hai bên trong việc kết hôn là điều kiện đảm bảo cho hôn nhân có giá trị
pháp lý và đồng thời cũng là cơ sở xây dựng gia đình bền vững. Tuy nhiên,
khi cuộc sống hôn nhân với những bất đồng không thể dung hòa, vợ chồng
cần có thời gian riêng suy ngẫm về mối quan hệ hôn nhân của mình, tránh
trƣờng hợp đáng tiếc xảy ra. Ly thân là biện pháp mà nhiều cặp vợ chồng
hƣớng tới để cứu vãn cuộc hôn nhân của mình, cho mình cơ hội và cũng là
cho đối phƣơng một cơ hội. Chính vì vậy, chắc rằng việc lựa chọn ly thân vợ,
chồng đều tự nguyện và thực hiện theo ý chí của bản thân mình, và bày tỏ ý
chí của mình là muốn đƣợc ly thân để có thời gian suy nghĩ lại mối quan hệ
hôn nhân, cho nhau cơ hội thay đổi tính tình, tránh làm đổ vỡ gia đình, nên
không ai đƣợc cƣỡng ép bên còn lại phải ly thân, hay nói cách khác khi ly
thân đó là sự lựa chọn tự nguyện của cả hai bên, vợ và chồng.
- Là quyền nhân thân không chuyển giao cho ngƣời khác: Pháp luật dân
sự thừa nhận quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân không
thể chuyển dịch cho chủ thể khác, trừ một số trƣờng hợp khác theo quy định
của pháp luật. Bộ luật dân sự năm quy định “Quyền nhân thân được pháp luật

19


×