Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những vấn đề pháp lý về bảo đảm an toàn lao động cho người lao động và thực tiễn thi hành trong ngành xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ PHƢƠNG THẢO

NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý VÒ §¶M B¶O AN TOµN LAO §éNG
CHO NG¦êI LAO §éNG Vµ THùC TIÔN THI HµNH
TRONG NGµNH X¢Y DùNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ PHƢƠNG THẢO

NH÷NG VÊN §Ò PH¸P Lý VÒ §¶M B¶O AN TOµN LAO §éNG
CHO NG¦êI LAO §éNG Vµ THùC TIÔN THI HµNH
TRONG NGµNH X¢Y DùNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN THU

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Phƣơng Thảo


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu ........................................................ 5

7. Bố cục luận văn ............................................................................................. 6
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO
AN TOÀN LAO ĐỘNG CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG .................................. 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động và đảm bảo an toàn lao
động cho ngƣời lao động ............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm an toàn lao động ............................................................. 7
1.1.2. Sự cần thiết của việc đảm bảo an toàn lao động cho người lao động .. 10
1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của việc đảm bảo an toàn lao động cho
người lao động ......................................................................................... 14
1.1.4. Những biện pháp nhằm đảm bảo an toàn lao động cho người lao
động ........................................................................................................... 17
1.2. Khái niệm, nội dung pháp luật về đảm bảo an toàn lao động cho
ngƣời lao động ............................................................................................ 20


1.2.1. Khái niệm pháp luật về đảm bảo an toàn lao động cho người lao
động .......................................................................................................... 20
1.2.2. Nội dung pháp luật về đảm bảo an toàn lao động cho người lao động.. 22
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BẢO ĐẢM AN TOÀN LAO ĐỘNG CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TRONG NGÀNH XÂY DỰNG ...................... 29
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về đảm bảo an toàn lao
động cho ngƣời lao động ........................................................................... 29
2.1.1. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan ............ 29
2.1.2. Quy định về các biện pháp phòng ngừa các yếu tố nguy hiểm, có
hại cho người lao động ............................................................................ 30
2.1.3. Quy định về biện pháp xử lý sự cố gây mất an toàn tại nơi làm việc
và tai nạn lao động ................................................................................... 33
2.1.4. Quy định về đảm bảo an toàn lao động đối với các nhóm lao động

đặc thù ...................................................................................................... 35
2.1.5. Quy định về đảm bảo an toàn lao động đối với cơ sở sản xuất kinh
doanh ........................................................................................................ 37
2.1.6. Quy định về quản lý nhà nước trong đảm bảo an toàn lao động .. 38
2.1.7. Quy định về xử lý vi phạm pháp luật về an toàn lao động............. 42
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về đảm bảo an toàn lao động cho
ngƣời lao động trong ngành xây dựng ..................................................... 45
2.2.1. Vài nét khái quát về ngành xây dựng ............................................. 45
2.2.2. Những kết quả đạt được, tồn tại và hạn chế trong việc thi hành
pháp luật về đảm bảo an toàn lao động trong ngành xây dựng .............. 46
2.2.2.1. Kết quả đạt được ...................................................................... 46
2.2.2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................. 51


Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 62
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN LAO ĐỘNG CHO
NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH XÂY DỰNG .............................. 63
3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về an toàn lao động trong ngành xây dựng ........ 63
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về đảm bảo an toàn lao động trong ngành xây dựng ............ 65
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo an toàn cho người lao động .... 65
3.2.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về đảm bảo an toàn lao động trong ngành xây dựng .............. 69
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

ATLĐ:

An toàn lao động

BHLĐ:

Bảo hộ lao động

BLLĐ:

Bộ luật lao động

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế

NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động


TCVN:

Tiêu chuẩn Quốc gia Việt Nam

TNLĐ:

Tai nạn lao động


DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Tên bảng biểu, hình ảnh

Trang

Bảng 1.1:

So sánh tình hình TNLĐ 06 tháng cuối năm 2016 và
06 tháng đầu năm 2017

11

Hình 2.1a:

Tổng số vụ tai nạn chết người năm 2015

49

Hình 2.1b:


Tổng số người chết do tan nạn lao động năm 2015

49

Hình 2.2:

Cơ cấu số vụ tai nạn lao động chết người chia theo
nguyên nhân (năm 2015)

59

Số hiệu


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
ATLĐ luôn là một vấn đề được quan tâm ở mọi giai đoạn phát triển của
xã hội. Đảm bảo được ATLĐ chính là bảo toàn an toàn cho NLĐ. Quan điểm
“An toàn là trên hết” (safety first) không chỉ là kim chỉ nam cho hoạt động
của các doanh nghiệp mà còn là định hướng chiến lược cho Nhà nước khi xây
dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động. Tinh thần
coi con người là tài sản quý giá nhất cần được bảo vệ như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Chúng ta phải quý trọng con người, nhất là công nhân, vì
công nhân là vốn quý nhất của xã hội. Chúng ta cần hết sức bảo vệ không để
xảy ra tai nạn lao động” xuất phát từ chính vị trí và vai trò của con người
trong xã hội, con người tạo nên xã hội và xã hội vận động, phát triển để phục
vụ cho nhu cầu của con người.
Để thể chế hóa những quan điểm này, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi nhận cho công dân nói
chung và NLĐ nói riêng quyền được làm việc, quyền được nghỉ ngơi, quyền

được bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Sau này, quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe đã được trực tiếp ghi nhận là một trong những quyền cơ bản của
công dân qua các bản Hiến pháp từ năm 1980 đến bản Hiến pháp năm 1992
và hiện nay là bản Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Công tác đảm bảo ATLĐ lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản
pháp luật lao động đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là Sắc lệnh
số 29/SL ngày 12/3/1947, sau đó là Pháp lệnh BHLĐ năm 1991, BLLĐ năm
1994 (được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007), BLLĐ năm 2012, Luật
an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên
quan khác (như: Luật phòng cháy chữa cháy, Luật hóa chất…).
Mặc dù vấn đề ATLĐ là một nội dung luôn được chú trọng như đã nêu
ở trên nhưng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và sự gia

1


tăng của những hành vi vi phạm quy định về ATLĐ đã dẫn đến hàng chục
nghìn vụ TNLĐ làm chết người hoặc gây thương tích nghiêm trọng, nhất là
trong lĩnh vực xây dựng – một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất
nước và luôn nổi cộm bởi vấn đề mất ATLĐ.
Tình trạng trên diễn ra là bởi trong thực tế việc áp dụng các quy định về
đảm bảo ATLĐ không triệt để hoặc các chủ thể liên quan không tuân thủ
pháp luật. Sự thiếu triệt để hay không tuân thủ này xuất phát từ sự thiếu nhận
thức về tính thiết yếu của việc tạo dựng môi trường làm việc an toàn cho NLĐ
của NSDLĐ mà đôi khi là từ chính NLĐ dẫn đến những nguy cơ về tai nạn
nghề nghiệp. Đây cũng là lý do chứng minh cho sự cần thiết của việc nghiên
cứu, tìm hiểu những vấn đề pháp lý về đảm bảo ATLĐ cho NLĐ. Xuất phát
từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về đảm
bảo an toàn lao động cho người lao động và thực tiễn thi hành trong ngành
xây dựng” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Ở bất kỳ một giai đoạn phát triển nào của xã hội thì vấn đề ATLĐ luôn
là vấn đề được quan tâm hàng đầu, do vậy đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu chuyên sâu đã được thực hiện.
Ở cấp độ Luận án tiến sĩ luật học:
- Nghiên cứu sinh Trần Trọng Đào với đề tài “Pháp luật an toàn lao
động ở Việt Nam” đã nghiên cứu những quy định của pháp luật về ATLĐ nói
chung và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật.
Ở cấp độ Luận văn thạc sĩ luật học có thể kể đến một vài Luận văn tiêu
biểu như:
- Tác giả Đỗ Ngân Bình với để tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật an toàn vệ sinh lao động” năm 2001 có nội dung chính là khái
quát chung về pháp luật ATLĐ và giải pháp hoàn thiện mang tính tổ chức.

2


- Tác giả Lê Phương Thúy với đề tài “An toàn, vệ sinh lao động đối với
lao động nữ trong pháp luật lao động Việt Nam” có phạm vi nghiên cứu chủ
yếu là về những quy định ATLĐ đối với riêng lao động nữ.
- Tác giả Nguyễn Thị Hải Yến với đề tài “Quản lý nhà nước trong lĩnh
vực an toàn vệ sinh lao động theo pháp luật lao động Việt Nam” đã nghiên
cứu vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATVSLĐ theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
- Tác giả Bùi Thị Chuyên với đề tài “Pháp luật quốc tế, pháp luật nước
ngoài và pháp luật Việt nam về an toàn vệ sinh lao động” đã nghiên cứu
những quy định của pháp luật Việt Nam về ATVSLĐ trong mối tương quan
với pháp luật quốc tế và đưa ra những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu cấp quốc gia, khóa luận

tốt nghiệp cũng nghiên cứu đến vấn đề ATLĐ. Về đề tài nghiên cứu cấp
quốc gia có thể kể đến công trình: “Nghiên cứu hiệu quả kinh tế xã hội của
các giải pháp hoàn thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao
động và xây dựng mối quan hệ với năng suất lao động nhằm nâng cao tính
cạnh tranh và bảo vệ nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập” (năm
2011) do GS. TS Lê Vân Trình, Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật bảo hộ
lao động làm chủ nhiệm.
Về Khóa luận tốt nghiệp, có thể kể đến một số công trình như: “Chế độ
bảo hộ lao động và thực trạng vấn đề an toàn vệ sinh lao động ở nước ta”
của Lý Thị Xuân; “Chế độ bảo đảm an toàn vệ sinh lao động và giải pháp”
của Nguyễn Thị Thu Hiền;…
Hiện nay Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hàng tháng có xuất bản
Tạp chí khoa học BHLĐ với nội dung chính về khoa học kỹ thuật BHLĐ
đồng thời mọi thông tin liên quan đến vấn đề ATLĐ đều được cập nhật hàng
ngày trên website chính thức về ATLĐ: antoanlaodong.gov.vn

3


Xét thấy các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận, phân tích và làm rõ
những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về đảm bảo ATLĐ song chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề ATLĐ trong phạm vi ngành Xây
dựng. Đề tài “Những vấn đề pháp lý về đảm bảo an toàn lao động cho
người lao động và thực tiễn thi hành trong ngành xây dựng” sẽ nghiên cứu
về vấn đề đảm bảo ATLĐ trong ngành Xây dựng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về
đảm bảo ATLĐ cho NLĐ, tính cấp thiết của việc áp dụng những biện pháp
ATLĐ. Đồng thời đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về

ATLĐ trong phạm vi ngành xây dựng để tìm ra những kết quả đã đạt được
cũng như những vấn đề còn hạn chế, bất cập và những nguyên nhân của tình
trạng đó. Trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về đảm bảo ATLĐ cho NLĐ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả tập trung thực hiện các nhiệm vụ:
- Khái quát những vấn đề lý luận về đảm bảo ATLĐ cho NLĐ;
- Phân tích và đưa ra đánh giá về thực trạng quy định của pháp luật và
thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đảm bảo ATLĐ trong ngành xây dựng;
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đảm
bảo ATLĐ cho NLĐ, nâng cao hiệu quả thi hành trong ngành xây dựng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là:
- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về đảm bảo ATLĐ cho NLĐ.
- Thực trạng thi hành các quy định của pháp luật về đảm bảo ATLĐ
cho NLĐ trong phạm vi ngành xây dựng.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp
luật lao động Việt Nam hiện hành trong đảm bảo ATLĐ cho NLĐ và thực
tiễn thi hành trong ngành xây dựng.
- Về phạm vi thời gian: nghiên cứu các quy định của pháp luật liên
quan đến việc đảm bảo ATLĐ cho NLĐ sau khi ban hành Bộ luật lao động
năm 2012 của Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp luận của

triết học Mác – Lênin, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, tác
giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp rà
soát và phương pháp xã hội học,… Các phương pháp này được sử dụng đan
xen để làm rõ những nội dung cơ bản, chủ yếu của pháp luật trong việc đảm
bảo ATLĐ cho NLĐ.
6. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
- Luận văn tổng hợp một cách có hệ thống các vấn đề chung về đảm
bảo ATLĐ cho NLĐ trong các quy định của pháp luật;
- Luận văn đã tìm hiểu thực trạng của pháp luật Việt Nam về đảm
bảo ATLĐ cho NLĐ nói chung và thực tiễn thi hành trong ngành Xây dựng
nói riêng;
- Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi
hành của pháp luật về đảm bảo ATLĐ trong riêng ngành xây dựng.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho
những người làm công tác nghiên cứu, học tập, bảo vệ pháp luật. Đặc biệt là
đối với các cơ sở đào tạo luật.
- Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn còn mang lại
cho các nhà quản lý những kiến thức cần thiết khi họ thực hiện công tác đảm

5


bảo ATLĐ tại các doanh nghiệp, đồng thời cũng góp phần cung cấp những
nhận thức đúng đắn để NLĐ có thể tự mình đảm bảo ATLĐ cho bản thân
trong quá trình tham gia sản xuất.
7. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận pháp luật về đảm bảo an toàn lao
động cho người lao động;

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về đảm bảo an
toàn lao động cho người lao động và thực tiễn thi hành trong ngành xây dựng;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về đảm bảo an toàn cho người lao động trong ngành xây dựng.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẢM BẢO AN TOÀN LAO ĐỘNG CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về an toàn lao động và đảm bảo an toàn
lao động cho ngƣời lao động
1.1.1. Khái niệm an toàn lao động
Mỗi năm trên thế giới có hàng triệu vụ TNLĐ gây thiệt hại lên đến
hàng tỷ đô la và dẫn đến cái chết cho hàng nghìn người đồng thời khiến cho
rất nhiều người khác phải chịu cảnh thương tật vĩnh viễn, đó là hậu quả của
việc duy trì môi trường làm việc với điều kiện lao động thiếu an toàn. Tất
nhiên, tất cả những hậu quả đã nêu đều có thể được phòng ngừa thông qua
những chương trình hành động với mục tiêu xây dựng một môi trường làm
việc an toàn, lấy con người làm trung tâm, chú trọng đến phát triển bền vững.
Mang trên mình sứ mệnh bảo vệ NLĐ khỏi ốm đau, bệnh tật và những tổn
thương liên quan đến công việc, năm 1919 Tổ chức lao động quốc tế ILO
(International Labour Organization) được thành lập cùng nhiệm vụ làm tăng
cơ hội có việc làm tốt và có thu nhập cho NLĐ trong điều kiện tự do, công
bằng, an toàn và đảm bảo nhân phẩm. Xuất phát từ nhiệm vụ và sứ mệnh đã
đề ra, năm 1981 Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 155 về
ATVSLĐ và môi trường lao động; năm 1993 ILO tiếp tục thông qua Công
ước số 174 về phòng ngừa những TNLĐ nghiêm trọng và đến năm 2001 ILO
đã ban hành: “Hướng dẫn về hệ thống quản lý ATLĐ”, đây là một công cụ hỗ

trợ hữu hiệu cho các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện công tác
đảm bảo ATLĐ nhằm bảo vệ NLĐ khỏi các nguy cơ mất an toàn trong quá
trình lao động và hạn chế tối đa TNLĐ. Theo quan điểm của ILO thì hoạt
động an toàn lao động bao gồm việc tuân thủ các yêu cầu về an toàn lao động
theo đúng quy định của pháp luật và việc tuân thủ này là trách nhiệm và nghĩa

7


vụ của người sử dụng lao động, người lao động cần được chỉ đạo và cam kết
thực hiện các hoạt động an toàn lao động cũng như là tạo điều kiện để thiết
lập hệ thống an toàn lao động tại cơ sở.
Bàn về “Thế nào là an toàn lao động?” hiện nay trên thế giới, hầu hết
các hệ thống pháp luật khi quy định về vấn đề an toàn tại nơi làm việc đều
đưa ra khái niệm gộp chung “An toàn lao động” và “Vệ sinh lao động” với từ
vựng thường dùng là “Occupational safety and health” có nghĩa là “An toàn
lao động và sức khỏe nghề nghiệp”.
“Sức khỏe nghề nghiệp” theo định nghĩa tại Công ước số 155 của ILO
thì sức khỏe, liên quan đến công việc không chỉ là trạng thái không có bệnh
tật mà còn bao gồm cả những yếu tố về thể chất và tinh thần có tác động đến
sức khỏe và có liên quan trực tiếp đến ATLĐ [37]. Nhận thức về “sức khỏe
nghề nghiệp” đã được ILO và WHO đưa ra lần đầu tiên vào năm 1950 và khái
niệm này đã được hoàn thiện hơn tại kỳ họp thứ mười hai vào năm 1995.
Theo đó, một môi trường làm việc đảm bảo được “Sức khỏe nghề nghiệp”
cho người lao động là nơi mà ở đó đáp ứng được đầy đủ những nội dung sau:
duy trì và nâng cao sức khỏe, khả năng lao động của NLĐ; cải thiện môi
trường làm việc và phát triển văn hóa làm việc theo hướng đảm bảo sức khỏe
và an toàn tại nơi làm việc. Như vậy có thể thấy đảm bảo “Sức khỏe nghề
nghiệp” cho NLĐ cũng đồng nhất với việc thúc đẩy và duy trì một môi trường
làm việc phù hợp với tâm lý và sinh lý của từng NLĐ, bảo vệ NLĐ khỏi các

rủi ro từ việc làm của họ từ những yếu tốt bất lợi cho sức khỏe.
Xét tại một số quốc gia dẫn đầu trong việc nghiên cứu và áp dụng
những chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo sức khỏe và an toàn tính mạng
cho NLĐ như: Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc, cụ thề:
Luật ATVSLĐ của Mỹ (Occupational safety and Health Act of 1970)
không đưa ra định nghĩa ATVSLĐ mà định nghĩa về tiêu chuẩn ATVSLĐ.

8


Theo đó, tiêu chuẩn về ATVSLĐ là một tiêu chuẩn yêu cầu phải có điều kiện,
được thừa nhận hoặc sử dụng một hoặc nhiều hoạt động, phương tiện, phương
pháp, các quy trình hợp lý, cần thiết hoặc thích hợp để cung cấp một công
việc và môi trường làm việc an toàn và lành mạnh [29].
Tại Hàn Quốc, các nhà làm luật không đưa ra một định nghĩa cụ thể
về ATLĐ hay VSLĐ mà trực tiếp đưa ra những quy định về BNN và
TNLĐ với mục đích duy trì và thúc đẩy môi trường làm việc an toàn cho
NLĐ thông qua việc xây dựng và đảm bảo thực hiện những tiêu chuẩn về
an toàn và sức khỏe nghề nghiệp [27]. Tại Nhật Bản, Luật An toàn và sức
khỏe công nghiệp và Luật Tiêu chuẩn Lao động là hai quy định chung lớn
nhất trong việc đảm bảo an toàn và sức khỏe nghề nghiệp cho NLĐ, theo
đó quy định về TNLĐ được đưa ra cùng với hệ thống những tiêu chuẩn về
phòng ngừa những yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc, trách nhiệm của các
thành viên trong quan hệ lao động [28].
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật an toàn vệ sinh lao động năm
2015 của Việt Nam, “An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động
của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối
với con người trong quá trình lao động”. Với tư cách là luật chuyên ngành,
Luật an toàn vệ sinh lao động đã tiếp cận khái niệm “An toàn lao động” dưới
góc độ là một chế định pháp luật, là tổng hợp những quy phạm pháp luật quy

định các biện pháp phòng, tránh những sự cố có khả năng gây nguy hại cho
con người trong quá trình lao động cũng như là biện pháp khắc phục những
hậu quả của TNLĐ và cải thiện điều kiện lao động cho NLĐ.
Các nhà ngôn ngữ học lại tiếp cận khái niệm “An toàn lao động” thuần
túy dưới góc độ ngôn ngữ. Theo đó, An toàn là “Yên ổn hẳn, tránh được tai
nạn, tránh được thiệt hại”; Lao động là “Hoạt động có mục đích của con
người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” [19] và

9


“An toàn lao động” chính là tình trạng của điều kiện làm việc mà theo đó quá
trình hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra những sản phẩm vật
chất, tinh thần được diễn ra một cách yên ổn, tránh được những tai nạn hay
thiệt hại có thể xảy ra.
Trong phạm vi của luận văn này, khi nghiên cứu về những vấn đề
pháp lý về đảm bảo an toàn lao động cho người lao động thì cần xem xét
“An toàn lao động là một trạng thái của các điều kiện lao động mà khi đạt
được thì người lao động sẽ không phải đối mặt với bất kỳ mối nguy hại nào
trong quá trình làm việc [15], trạng thái này chỉ có thể đạt được khi có sự
tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của pháp luật của tất cả các bên liên quan”.
1.1.2. Sự cần thiết của việc đảm bảo an toàn lao động cho người lao động
Sự phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với lao động. Theo
quan điểm của Triết gia Friedrich Engels cũng như của đa phần các nhà khoa
học hiện đại thì lao động giữ vai trò quyết định trong việc thúc đẩy quá trình
tiến hóa của loài Vượn sang Người. Nếu như trước kia, thông qua lao động
loài người cổ xưa hoàn thiện về mặt thể chất thì ngày nay, thông qua lao động
con người tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở
là nhờ người lao động. Xây dựng giàu có, tự do dân chủ cũng là nhờ người

lao động. Tri thức mở mang, cũng nhờ lao động. Vì vậy lao động là sức chính
của sự tiến bộ của xã hội loài người” [18]. Hiểu một cách đơn giản thì lao
động hình thành nên xã hội loài người và xã hội loài người tồn tại, phát triển
là nhờ có lao động.
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển với sự ra đời của
hàng loạt máy móc, trang thiết bị lao động hiện đại, bên cạnh việc góp phần
làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển của xã hội
thì kéo theo đó là sự phát sinh liên tục những hiểm họa, rủi ro đối với NLĐ

10


khiến cho NLĐ có thể dễ dàng bị TNLĐ. Theo Giám đốc Văn phòng ILO
Việt Nam, Tiến sĩ Chang – Hee Lee có phát biểu tại Lễ phát động Tháng an
toàn, vệ sinh lao động ngày 18 tháng 5 năm 2017: “Hàng năm trên thế giới có
khoảng 2,3 triệu người chết do TNLĐ và bệnh nghề nghiệp. Số vụ TNLĐ chết
người ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng chiếm tới 70% tổng số trên
toàn cầu. Không phải ở đâu xa xôi, những mối nguy hiểm này ở ngay xung
quanh chúng ta. Mỗi ngày, trên đường đi làm tôi đều đi qua một công trường
xây dựng lớn. Ở đó, nhiều công nhân đang mạo hiểm tính mạng khi làm việc
mà không sử dụng các phương tiện bảo hộ cá nhân đầy đủ. Tôi tin rằng các
quý vị ở đây cũng đều đã từng nhiều lần chứng kiến điều đó khi ngành xây
dựng là ngành có nhiều TNLĐ chết người nhất tại Việt Nam” [33]. Cụ thể với
những con số về số vụ TNLĐ tại Việt Nam theo báo cáo của các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thì trong 06 tháng đầu năm 2017 trên cả nước đã
xảy là 4.388 vụ TNLĐ (TNLĐ) làm 4.461 người bị tai nạn, trong đó số người
chết là 418 người, số người bị thương nặng lên đến 843 người. So sánh với 06
tháng cuối năm 2016, trên cả nước có 4.307 vụ TNLĐ làm 4.474 người bị tai
nạn, 539 người chết và làm 1.098 người bị thương nặng ta có thể thấy sự biến
động của những con số như sau:

Bảng 1.1: So sánh tình hình TNLĐ 06 tháng cuối năm 2016 và
06 tháng đầu năm 2017 [6]
STT

Tiêu chí

06 tháng cuối
năm 2016

06 tháng đầu
năm 2017

Sự biến
động

1

Số vụ TNLĐ

4.307

4.388

Tăng 1,88%

2

Số người bị TNLĐ

4.474


4.461

Giảm 0,29%

3

Số người chết

539

418

Giảm 22%

4

Số người bị thương nặng

1.098

843

Giảm 23%

(Nguồn: />
11


Có thể thấy năm 2017 đã ghi nhận những diễn biến tích cực trong công

tác cải thiện môi trường lao động, nâng cao tính an toàn trong lao động thể
hiện qua số người bị tai nạn đã có dấu hiệu giảm và số lượng người bị chết, bị
thương nặng đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, số vụ TNLĐ vẫn tăng và con số
418 người chết, 843 người bị thương nặng không phải là nhỏ. Những ngành
nghề lao động xảy ra nhiều vụ TNLĐ làm chết người gồm có: ngành Xây
dựng (liên tục dẫn đầu về số vụ TNLĐ – năm 2016 tỷ lệ TNLĐ trong ngành
này chiếm đến 23,8% trên tổng số vụ TNLĐ trong tất cả các ngành nghề);
ngành khai thác khoáng sản; sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo,…
Đảm bảo ATLĐ chính là việc tạo ra và duy trì những điều kiện lao
động an toàn bằng những biện pháp nhất định nhằm: đảm bảo an toàn về tính
mạng, sức khỏe cho NLĐ; hạn chế tối đa sự xuất hiện của những vụ TNLĐ;
chăm sóc, phục hồi và bồi dưỡng kịp thời nhằm duy trì sức khỏe cho NLĐ.
Trong đó, điều kiện lao động là tất cả những yếu tố về: kinh tế, xã hội, tự
nhiên, khoa học kỹ thuật, quy trình công nghệ, phương tiện lao động, đối
tượng lao động, môi trường lao động, con NLĐ; những yếu tố này sẽ tác động
qua lại lẫn nhau và tạo nên những điều kiện nhất định cho hoạt động tạo ra
của cải vật chất và tinh thần của con người. Đảm bảo tính an toàn của các
điều kiện lao động là một nhiệm vụ hàng đầu không chỉ của riêng mỗi doanh
nghiệp mà còn là của toàn thể xã hội bởi:
Thứ nhất, trên thế giới hiện nay, số lượng người đang trong độ tuổi lao
động chiếm hơn một nửa dân số, đây là lượng chính đóng góp cho sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội do vậy việc đảm bảo ATLĐ cho NLĐ – những
người đang hàng ngày phải đối mặt với nguy cơ TNLĐ, suy giảm sức khỏe là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Đảm bảo ATLĐ chính là đảm bảo an toàn sức
khỏe, tính mạng cho chính con người khi tham gia vào quá trình lao động.
Con người tạo dựng nên xã hội, là chủ thể lao động đồng thời lại là động lực

12



và mục tiêu của sự phát triển do đó đảm bảo an toàn cho NLĐ là điều hiển
nhiên cần phải thực hiện.
Thứ hai, nếu như trước đây khi mà khoa học công nghệ chưa thực sự
phát triển, số vụ TNLĐ cũng không nhiều thì ngày nay TNLĐ lại là một vấn
đề nhức nhối, luôn có xu hướng gia tăng cả về số lượng lẫn tính phức tạp. Do
vậy việc đảm bảo ATLĐ phải liên tục được duy trì nhằm kịp thời thích ứng và
hạn chế mọi rủi ro mới có thể phát sinh.
Thứ ba, trong phạm vi từng quốc gia thì việc đảm bảo ATLĐ còn
mang ý nghĩa chính trị khi mà công tác đảm bảo ATLĐ được thực hiện tốt
cũng thể hiện được sự quan tâm của mỗi Nhà nước đối với vấn đề đảm bảo
sức khỏe cho NLĐ, biểu hiện tinh thần vì cộng đồng, quan điểm quý trọng
con người của Bộ máy cầm quyền. Bên cạnh lợi ích chính trị đối với một
quốc gia thì ATLĐ cũng là một trong những yếu tố làm nên tên tuổi của một
doanh nghiệp. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế khi mà
thuật ngữ CSR - Corporate social responsibility đã trở nên phổ biến thì việc
thực hiện các chính sách xã hội của doanh nghiệp không chỉ còn là nghĩa vụ
của doanh nghiệp mà còn là tiêu chí để doanh nghiệp cạnh tranh tồn tại hay
không tồn tại trên thương trường quốc tế. Nếu một doanh nghiệp có số lượng
NLĐ bị TNLĐ quá lớn thì hình ảnh, uy tín của bản thân doanh nghiệp cũng sẽ
bị ảnh hưởng đáng kể và việc mất mát những đơn hàng hay khách hàng tiềm
năng là điều dễ dàng có thể xảy ra.
Thứ tư, việc đảm bảo ATLĐ cũng mang ý nghĩa xã hội khi mỗi NLĐ
đồng thời cũng chính là một thành viên của xã hội. Lúc này, đảm bảo ATLĐ,
chăm lo cho đời sống của NLĐ cũng chính là chăm lo cho sự phát triển của xã
hội. Mỗi cá nhân mạnh khỏe với kỹ năng nghề tương xứng sẽ góp phần tạo
nên sự phát triển bền vững của toàn xã hội.

13



Thứ năm, đảm bảo an toàn lao động đem lại lợi ích kinh tế, đây là
nguyên do cuối cùng cho sự cần thiết của việc đảm bảo ATLĐ cho NLĐ và
cũng là nguyên nhân thực tế, dễ nhận biết nhất. Trong một môi trường làm
việc với những điều kiện lao động được đảm bảo an toàn, NLĐ sẽ dễ dàng có
được trạng thái tinh thần cũng như là sức khỏe tốt nhất và kéo theo đó là năng
suất, chất lượng lao động cũng tăng lên, góp phần chính cho việc hoàn thành
kế hoạch sản xuất một cách hiệu quả, tạo ra được lợi nhuận tối đa. Thêm vào
đó, khi xảy ra TNLĐ thì không chỉ bản thân NLĐ phải chịu những mất mát,
đau đớn cả về thể chất lẫn tinh thần thì NSDLĐ cũng phải gánh chịu những
thiệt hại nhất định khi mà chi phí phải bỏ ra để bồi thường cho NLĐ, sửa chữa
nhà xướng, máy móc, thiết bị hay bù đắp nguyên liệu bị hao hụt,…
Như vậy, đảm bảo ATLĐ cho NLĐ là một chính sách kinh tế - xã hội
lớn của bất kỳ một quốc gia nào, là một bộ phận không thể tách rời và vô
cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, góp phần bảo vệ
sức khỏe cho NLĐ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.1.3. Những yêu cầu cơ bản của việc đảm bảo an toàn lao động cho
người lao động
Thứ nhất, việc đảm bảo ATLĐ cho NLĐ trước hết phải đảm bảo tính
đồng bộ, toàn diện.
Sự toàn diện và đồng bộ ở đây được thể hiện qua nhiều khía cạnh như:
toàn diện trong sự tham gia của tất cả những đối tượng có liên quan đến công
tác đảm bảo ATLĐ; đồng bộ trong việc thống nhất sử dụng một số nội dung
chính như: biện pháp; kinh phí; vật tư; thời gian hoàn thành; phân công, tổ
chức thực hiện khi lập kế hoạch BHLĐ đi kèm với kế hoạch sản xuất kinh
doanh hàng năm. Để đảm bảo được ATLĐ thì phải có sự tham gia của bản thân
NLĐ, NSDLĐ, của Nhà nước và của các tổ chức, cá nhân khác liên quan.
NLĐ với tư cách là người trực tiếp tham gia vào quá trình lao động,
trực tiếp chịu sự tác động khi có sự mất an toàn xảy ra do vậy sự tham gia của

14



NLĐ trong công tác đảm bảo ATLĐ là không thể thiếu. Nghĩa vụ của NLĐ
đối với công tác ATLĐ là chấp hành các quy định về ATLĐ liên quan đến
công việc; sử dụng và bảo quản phương tiện bảo hộ cá nhân; nghĩa vụ báo cáo
kịp thời khi phát hiện nguy cơ mất an toàn và tham gia cấp cứu, khắc phục
hậu quả TNLĐ.
NSDLĐ với tư cách là người thuê mướn, quản lý NLĐ phải tuân thủ
các quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến ATLĐ như đảm bảo nơi làm việc đạt
yêu cầu về không gian, độ thoáng, bụi, hơi, khí độc,…; thực hiện các biện
pháp loại trừ, giảm thiểu rủi ro, nguy hiểm thông qua việc kiểm tra đinh kỳ
và đánh giá rủi ro thường xuyên; đảm bảo an toàn máy móc, thiết bị, nhà
xưởng phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc những quy chuẩn
kỹ thuật khác đã được công bố; định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy móc,
thiết bị và nhà xưởng…
Nhà nước tham gia vào việc đảm bảo ATLĐ, thống nhất quản lý đối
với hoạt động này thông qua chức năng quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước
trong lĩnh vực ATLĐ là một bộ phận của quản lý nhà nước về lao động. Nhà
nước thực hiện quyền quản lý và vai trò của mình thông qua việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật, quản lý về an toàn – vệ sinh lao động, đưa ra
những quy định về tiêu chuẩn trong lĩnh vực ATLĐ, đưa ra các quy định về
phương tiện BHLĐ cho NLĐ, quy định về khám sức khỏe định kỳ, chế độ bồi
dưỡng hiện vật, thời giờ làm việc thời giờ nghỉ ngơi và quy định về biện pháp
khắc phục, xử lý hậu quả TNLĐ; đưa ra quy định an toàn riêng đối với NLĐ
là nữ, lao động chưa thành niên, người khuyết tật và người cao tuổi…; tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về an toàn, tiến hành thu thập, thống kê
các thông tin về những vụ việc TNLĐ nhằm nâng cao ý thức của NLĐ và giới
sử dụng lao động đối với công tác ATLĐ.
Tổ chức, đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ về ATLĐ;
hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thiết lập các giải pháp ATLĐ cũng như là


15


một số trang thiết bị ATLĐ và khuyến khách phát triển các dịch vụ về ATLĐ
thể hiện những chính sách của Nhà nước liên quan đến vấn đề ATLĐ. Nhà
nước còn tiến hành hợp tác quốc tế về ATLĐ thông qua việc gia nhập các
công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và học hỏi kinh nghiệm thực
hiện các chương trình, dự án về ATLĐ từ các tổ chức như Hiệp hội an toàn
Mỏ quốc tế, các quốc gia như: Nhật Bản, Hà Quốc, CHLB Đức, Đan Mạch,
các quốc gia trong khu vực ASEAN – OSHNET,…
Bên cạnh sự tham gia của NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước thì công tác đảm
bảo ATLĐ cũng ghi nhận sự tham gia của các tổ chức xã hội khác.
Thứ hai, việc đảm bảo ATLĐ phải đảm bảo tính dự đoán trước những
nguy cơ gây mất ATLĐ.
Khi xây dựng một chương trình hành động quốc gia nói chung và kế
hoạch ATLĐ trong phạm vi doanh nghiệp nói riêng thì việc sự đoán trước các
tình huống nguy hiểm có thể xảy ra để áp dụng những biện pháp phòng ngừa
trước là vô cùng quan trọng, góp phần giảm thiểu đáng kể TNLĐ. Ý tưởng
Dự đoán trước các tình huống nguy hiểm – Kizen Yochi (KY) được ra đời
năm 1974 tại Nhật Bản và ngày nay vẫn còn được sử dụng dưới nhiều hình
thức và tên gọi khác nhau trong các doanh nghiệp Nhật Bản. Với những ưu
điểm nổi trội, phương pháp KY của Nhật Bản đã được bạn bè quốc tế học hỏi
và áp dụng với những biến thể khác nhau.
Thứ ba, yêu cầu cuối cùng của việc đảm bảo ATLĐ cho NLĐ là đảm
bảo tính kịp thời.
Kịp thời ở đây chính là kịp thời ứng phó nhằm triệt tiêu hiểm họa phát
sinh vụ việc mất ATLĐ; kịp thời hỗ trợ, kịp thời giải quyết khi đã xảy ra vụ
việc mất ATLĐ nhằm hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra. Đây cũng là một
yêu cầu quan trọng của công tác đảm bảo ATLĐ và việc yêu cầu này có được

đi vào hiện thực hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động huấn luyện,
trang bị kiến thức về ATLĐ cho NLĐ.

16


1.1.4. Những biện pháp nhằm đảm bảo an toàn lao động cho người
lao động
Thứ nhất, công tác đảm bảo ATLĐ phải được thực hiện một các đồng
bộ, thống nhất trên cả nước do vậy biện pháp đầu tiên cần được nhắc tới chính
là xây dựng chính sách, chương trình quốc gia và thiết lập hệ thống quy định
nhằm đảm bảo ATLĐ, đây có thể nói là biện pháp mang tính hệ thống, làm
kim chỉ nam cho hoạt động đảm bảo ATLĐ.
Tại mỗi quốc gia và đặc biệt đối với những quốc gia là thành viên
của Tổ chức lao động quốc tế ILO thì xây dựng chính sách, chương trình
hành động quốc gia và thiết lập hệ thống các quy định là nhiệm vụ đầu tiên
cần phải thực hiện.
Chính sách quốc gia về ATLĐ theo quy định tại Điều 3 Công ước ILO số
187 về cơ chế tăng cường công tác an toàn, vệ sinh lao động được xây dựng với
mục tiêu tăng cường môi trường làm việc an toàn và lành mạnh trên cơ sở tham
khảo ý kiến của các tổ chức đại diện của NSDLĐ và NLĐ góp phần tăng cường
và thúc đẩy quyền được làm việc trong môi trường an toàn của NLĐ, tăng cường
các nguyên tắc cơ bản như đánh giá, phòng ngừa rủi ro, xây dựng văn hóa quốc
gia về ẢTLĐ thông qua các hoạt động thông tin, tư vấn và huấn luyện. Là một
thành viên của ILO đồng thời vào ngày 23/01/2014 cũng đã phê chuẩn và tham
gia Công ước số 187, khi xây dựng nên những quy định pháp luật về ATLĐ Việt
Nam đã ghi nhận nội dung về Chính sách của Nhà nước về ATLĐ ngay tại Điều
4 Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015. Việc thực hiện chính sách quốc gia
sẽ được đưa vào thực thi trên thực tế đồng thời những chính sách này sẽ được
kiểm soát, đánh giá và xem xét thông qua việc xây dựng và thực hiện các

chương trình quốc gia về ATLĐ hàng năm.
Về yêu cầu xây dựng hệ thống quốc gia về ATLĐ, tại Công ước ILO số
187 có quy định “Mỗi nước thành viên phải thiết lập, duy trì và phát triển

17


×