Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Sự dung hợp của phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu của người việt (Tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 55 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

PHẠM NGỌC ANH

SỰ DUNG HỢP CỦA PHẬT GIÁO VỚI
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG THỊ LAN

Hà Nội, 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................. 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn................................................... 10
7. Kết cấu cấu của luận văn: ............................................................................ 10
NỘI DUNG......................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TÍN
NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT................................................... 11


1.1. Quá trình hình thành, phát triển và đặc trƣng của Phật giáo Việt Nam.... 11
1.1.1.

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ............................................ 11

1.1.2.

Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ................................................. 16

1.1.3.

Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam ..................................................... 21

1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt .................................. 25
1.2.1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................................... 25
1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ........................................................ 28
1.3.

Cơ sở cho sự dung hợp của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ Mẫu ......... 35

1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho sự dung hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu .............................................................................. 36
1.3.2. Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu .............................. 40
CHƢƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT ...................... 49
2.1. Sự dung hợp thể hiện qua hình tƣợng Phật Mẫu Man Nƣơng và thờ
Tứ Pháp .............................................................................................................. 49
1



2.1.1. Sự dung hợp thể hiện qua hình tượng Phật Mẫu Man Nương............. 49
2.1.2.Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hệ thống
điện thờ và nghi lễ thờ Tứ Pháp ........................................................................ 58
2.2. Sự dung hợp thể hiện qua hình tƣợng Thánh Mẫu Liễu Hạnh ............ 67
2.2.1. Sự dung hợp của Phật Giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hình
tượng Mẫu Liễu Hạnh ....................................................................................... 67
2.2.2. Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hệ thống
nghi lễ và điện thờ .............................................................................................. 77
2.3. Những biểu hiện và giá trị của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt ...................................................................... 85
2.3.1. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
khẳng định tính độc đáo của Phật giáo Việt Nam............................................ 85
2.3.2. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt làm
phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam ..................................................... 86
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 92

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với 54 dân
tộc anh em, mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức
tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng
dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có
công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Cùng với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba
mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế
giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo

trên thế giới.Chính vì thế ở Việt Nam có không ít những tôn giáongoại lai như
Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo…Trong đó mỗi loại hình tôn giáo lại có một cách
tiếp cận biến đổi khác nhau, để có thể truyền bá tư tưởng của mình một cách tốt
nhất. Tuy nhiên, điểm chung của chúng đều không thể nào xóa bỏ được các loại
hình tín ngưỡng, tôn giáo bản địa, mà rút cuộc đều phải chung sống với nó, nếu
muốn thu phục được tín đồ.
Tại Việt Nam, khi Phật giáo du nhập vào đã có một hệ thống tín ngưỡng
dân gian khá đa dạng, phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có lịch
sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời, là một loại hình tín ngưỡng tiêu biểu,
mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh
chóng tổng hợp chặt chẽ với hình thức tín ngưỡng này tạo nên một Phật giáo
riêng có của Việt Nam. Phật giáo Việt nam là sản phẩm của giao lưu, tiếp biến
văn hóa Việt - Ấn nên ngay từ điểm khởi đầu ấy, nó đã đặt ra mối quan hệ tương
tác biện chứng giữa văn hóa và tôn giáo, giữa các yếu tố văn hóa nội sinh và tôn
giáo ngoại nhập.
Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu đã hòa quyện cùng Phật giáo để bổ sung
cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, lòng từ bi vượt ra ngoài biên giới
quốc gia, nâng triết lý nhân sinh lên một tầm cao mới. Sự tiếp biến, giao thoa
3


giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian Việt Nam đã tạo cho Phật giáo
cũng như tín ngưỡng này mang một sắc thái mới không hòa lẫn với Phật giáo ở
nước khác cũng như tín ngưỡng của nền văn hóa khác.
Từ đó,nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
Việt Nam trong dòng chảy lịch sử dân tộc là để khẳng định bản sắc riêng của
Phật giáo Việt Nam, khai thác giá trị văn hóa dân tộc, nhằm góp phần xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân.Tất cả những khía cạnh trên là cơ sở để tôi lựa chọn cho mình nghiên cứu đề
tài “Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
-

Các công trình ghiên cứu về Phật giáo Việt Nam
Các công trình nghiên cứu là sách:
Nguyễn Lang với “ Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội

1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phẩt giáo vào Việt Nam, vai trò
của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của các triều đại phong
kiến Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu công phu, chi tiêt về Phật giáo
Việt Nam từ khởi nguyên hình thành trải qua các triều đại phong kiến cho đến
thể kỷ XX với phong trào chấn hưng Phật giáo. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, tác giả
đều đi sâu phân tích các nội dung tư tưởng của Phật giáo và các đại diện tiêu
biểu cho từng trường phái. Từ đó, tác giả khái quát đặc điểm nổi bật của Phật
giáo Việt Nam gắn với các thời kỳ tương ứng.
Cuốn sách: “Phật giáo với dân tộc” của Thích Thanh Từ (Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 1992). Trong phần 1 của công trình nghiên cứu này, tác giả
đã nêu rõ đạo Phật chung sống với người dân Việt Nam hơn 20 thế kỷ, là sợi
dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả
phân ly. Tư tưởng đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc bởi sự liên hệ mật
thiết này, người dân Việt Nam coi đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Từ buổi
đầu dựng nước đến cuối thời Trần, các thiền sư Phật giáo đã có sự đóng góp
4


quan trọng trong công cuộc cứu quốc và xây dựng đời sống chính trị, văn
hóa…Trong phần 2 của cuốn sách, tác giả đã lược qua một số giáo lý như: Luân
hồi, Vô ngã, Giải thoát trong đạo Phật để nêu bật luân lý trong Phật giáo là lấy
giải thoát làm mục đích, tức là biết quý trọng tự do của con người, con người tự
do là con người sống trong đất nước có tự do, đất nước có văn minh, quốc gia

tiến bộ và con người không bị ràng buộc bởi hận thù, tù tội…
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam (tập 1) của Nguyễn Hùng Hậu,
(Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2002), đã khái quát những nét cơ bản về quá
trình du nhập, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam. Trong
chương 1, tác giả đã làm rõ thế giới quan, nhân sinh quan của Phật giáo nói
chung và nhân sinh quan, thế giới quan Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trên cơ
sở đó, tác giả đã khảo cứu nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam được thể hiện qua
một số nhân vật tiêu biểu như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
Thượng Sỹ. Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Hậu, mặc dù tiếp
thu tư tưởng triết học nhưng Phật giáo khi được du nhập vào Việt Nam đã có sự
cải biến, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt. Đặc biệt, tác giả cho rằng, tư tưởng Phật giáo đã kết
hợp hài hòa với tinh thần yêu nước nồng nàn của người Việt đã tạo nên một Phật
giáo Việt Nam mang tính nhập thế tích cực.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (3 tập) (Nxb. Thuận Hoá,
1999 Huế), lại coi các phân đoạn lịch sử cho sự phát triển của phật giáo Việt
Nam chỉ là nền, qua các giai đoạn lịch sử, công trình này đã phác họa một cách
rõ nét diện mạo của phật giáo Việt Nam qua những đặc điểm và các trường phái
cơ bản, Cùng phân tích về đặc điểm của Phật giáo, tác giả Nguyễn Quốc Tuấn trong
công trình: Vai trò của phật giáo Việt Nam đối với sự phát triển bền vững của đất
nước (2008) đã khái quát nên bốn đặc điểm của phật giáo.
Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011), trong tác phẩm Phật giáo trong văn
hóa Việt Nam, Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam in trong Về tín ngưỡng tôn
5


giáo Việt Nam hiện nay,bàn sâu về hai đặc điểm cơ bản của phật giáo Việt
Nam, đó tính dân gian và tính thống nhất và công trình Tư tưởng Phật giáo Việt
Nam (Nxb. Hội Nhà văn,Hà Nội 1999) đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng
Phật giáo Việt Nam, nhằm lý giải những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt

Nam được xây dựng với tư cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên
cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.
Ngoài ra, còn một số bài báo, tạp chí như:
Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ, Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà Bắc),
Tạp chí văn hóa dân gian, số 1- 1987.
Nguyễn Quang Lê - Tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội cổ truyền với Phật
giáo qua tín ngưỡng dân gian, Tạp chí nghiên cứu văn hóa dân gian, số 4 1992;
Hoàng Thị Lan với bài viết “Phật giáo với lễ hội dân gian vùng đồng
bằng trung du Bắc Bộ”, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 6 - 2000;
Đức Thiện - Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn hóa Ấn
Độ, số 6 - 2002.
Nguyễn Thị Minh Ngọc - Phật giáo dân gian: con đường nhập thế của
Phật giáo Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 8 - 2008.
Nguyễn Hữu Thụ - Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín ngưỡng
thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh mẫu Liễu Hạnh, Tạp
chí nghiên cứu Tôn giáo, số 4 – 2009...
Như vậy, có thể thấy, Phật giáo Việt Nam là một đề tài được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm.
Liên quan đến Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hóa
tinh thần của Việt Nam còn có một số đề tài như:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Hữu Tuấn với đề tài: “Ảnh hưởng của
những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc
Việt Nam” (Hà Nội, 1999),
6


Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng với đề tài: “Ảnh hưởng của
đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Hà
Nội, 2004)
Bàn đến mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam có một

số công trình sau:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Đặng Minh Châu về “Mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi chùa
tiêu biểu của phật giáo Bắc tông)”(Hà Nội, 2015)
Luận văn Thạc sỹ của Phan Thị Kim: "Tìm hiểu mối quan hệ giữa phật
giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở vùng đồng bằng bắc bộ" (Hà Nội, 2011)
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Huyền Trang "Sự dung thông giữa Phật giáo với
tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập" (Hà Nội ,2013)
-

Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu
Vấn đề tín ngưỡng Mẫu đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều học

giả.Các học giả như Ngô Đức Thịnh, Đặng Văn Lung, Nguyễn Đăng Duy, Đỗ
Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc, Nguyễn Đình San,…đã công bố các công trình nghiên
cứu về tín ngưỡng Mẫu gắn với đời sống văn hoá, lịch sử, tôn giáo… Có thể kể
đến các công trình như: “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam” (quyển thượng) của
Toan Ánh , Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Việt Nam phong tục” của Phan Kế
Bính, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Các hình thái tôn giáo tín ngưỡng ở Việt
Nam” của Nguyễn Đăng Duy , Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2001; “Về tôn
giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên , Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội, 1996; “Nữ Thần và Thánh Mẫu Việt Nam” do Vũ Ngọc
Khánh chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002. Đặc biệt hơn cả là cuốn “Đạo
Mẫu ở Việt Nam” (2 tập) do Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa
dân gian, Hà Nội, 2002. Đây được coi là một tác phẩm nghiên cứu một cách cơ
bản và tương đối hoàn chỉnh về tín ngưỡng Mẫu. Tác giả đã tiếp cận hiện tượng

7



tín ngưỡng này chủ yếu dưới góc độ văn hóa và phần nào cũng chỉ ra được
phương diện tín ngưỡng tôn giáo. Ngoài ra còn một số sách như:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền trung Việt Nam do Nguyễn Hữu Thông (Chủ
biên (Nxb. Thuận Hóa, Huế 2010).Trong công trình này, các tác giả tiếp tục khẳng
định tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bản địa của người Việt với sự
phát triển từ việc thờ Mẹ đến hệ thống thần linh trong Tứ phủ.
Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh (Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội 2005) đã trình bày về sự phát triển từ nguyên lý Mẹ của
văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Trên cơ sở đó,
cuốn sách tập trung vào việc phân tích và chỉ ra vị trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh
trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung, tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ
nói riêng thông qua các nguồn thư tịch cổ về Bà trong dân gian.
Các Nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc, (Nxb Phụ
nữ, Hà Nội 1984).cũng đã cung cấp đủ rất nhiều thông tin về hệ thống các Nữ
thần ở Việt Nam. Theo đó, các tác giả chia nữ thần ở Việt Nam thành các nữ
thần trong thần thoại, nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các
Chư thần. Thông qua việc trình bày thần tích của 117 vị nữ thần ở Việt Nam
(trong đó có rất nhiều các vị được thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu) cùng danh
mục 362 vị nữ thần được lưu truyền trong dân gian và thần tích trên các vùng
miền khác nhau, công trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong phú và bổ ích
để các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở Việt Nam.
Văn hóa Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung,(Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà
Nội, 2004) cũng đã đưa ra một “Văn hóa Thánh Mẫu” của người Việt trên cơ sở
phân tích sự hình thành và phát triển của các biểu tượng Thánh Mẫu. Tuy nhiên,
như tác giả đã tự nhận thấy, tác phẩm này mới chỉ dừng lại ở việc phần nào tìm
ra sự phát sinh, hình thành, truyền bá và sự sửa đổi cốt truyện, lễ hội theo lôgic lịch sử - chính trị - văn hóa - xã hội của đất nước.

8



Về báo, tạp chí có thể kể đến bài viết của một số tác giả như: Nguyễn Quốc
Phẩm với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan” (Tạp chí Văn
hoá nông thôn, số 11, trang 11 – 13, 1998); Nguyễn Hữu Toàn với bài “Một số
sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng ở vùng Dâu” (Tạp chí Di sản văn hoá, số 17,
2004); Đinh Gia Khánh với bài “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá dân
gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá, số 5, trang 7 - 13, 1992…
Nhìn chung, các công trình trên khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu đã
được các tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như nhân học, văn học,
nghệ thuật, lịch sử…Ở các góc độ này, các công trình đã cung cấp một lượng
thông tin phong phú về sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống thần linh
cùng các thần tích của tín ngưỡng thờ Mẫu, các không gian thờ cúng của nó
trong quá khứ cũng như hiện tại, những giá trị về mặt văn học, nghệ thuật của
tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của
người Việt cả trong lịch sử cũng như ở hiện tại.
Tuy nhiên, vấn đề sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Do đó, luận văn này sẽ định
hướng nghiên cứu làm rõ hơn sự dung hợp củaPhật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở trình bày một cách khái quát một số vấn đề cơ bản
về Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, luận văn làm rõ sự dung
hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thời Mẫu của người Việt và chỉ ra những giá
trị của sự dung hợp đó.
Nhiệm vụ:
+

Trình bày khái lược về Phật giáo Việt Nam và tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt, đồng thời chỉ ra cơ sở của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín
ngưỡng thờ Mẫu.


9


+

Phân tích những biểu hiện cơ bản của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thông qua điện
thờ và lễ nghi.
+

Khái quát, nêu nên những giá trị của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự dung

hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo với

tín ngưỡng thờ Mẫu trong phạm vi người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
-

Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên nền tảng lý luận quan điểm của chủ


nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng.
-

Phương pháp nghiên cứu gồm: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên

cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như:
diễn dịch, quy nạp, logic lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về sự biến đổi của Phật giáo trong

quá trình tiếp xúc với tín ngưỡng bản địa, cụ thể là tín ngưỡng thờ Mẫu khi du
nhập vào Việt Nam.
-

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập

các vấn đề liên quan đến Phật giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu.
7. Kết cấu cấu của luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung gồm 2 chương và 6 tiết.

10


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TÍN

NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT
1.1. Quá trình hình thành, phát triển và đặc trƣng của Phật giáo Việt Nam
1.1.1.

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt – đó là nằm trên trục giao

thông từ Nam Á lên Bắc Á, gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á và là cái
lưng của bán đảo Ấn Trung – vị trí nằm gữa Ấn Độ và Trung hoa. Với địa thế
này, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn có cả văn hóa
và tôn giáo của hai nền văn minh cổ xưa này, trong đó có Phật giáo. Với biên
giới giáp Trung Quốc, nhưng những tư tưởng Phật Giáo được truyền bá vào
nước ta ở đầu tiên không phải xuất phát từ Trung Quốc mà được truyền trực tiếp
từ Ấn Độ. Trong sách Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa
thiền sư Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về
nguồn gốc Đạo Phật Việt Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại
chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm
1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm Thiên đối thoại với Tùy Cao Đế
: "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì
Giang Đông (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ
tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì
đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương,
Mâu Bác tại đó"[40;89]. Hay dựa trên lời tựa truyện pháp của tướng quốc
Quyền Đức Dư đời Đường nói: “Sau khi Tào Khuê mất đi, thiền pháp thịnh
hành, đều có thừa kế. Chương Kính Uẩn thiền sư dùng tâm ấn của Mã Tổ hành
hóa ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ, đem tôn chỉ của Bách Trượng, khai
ngộn tại Giao Châu” [41;12].

11



Trong tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ
sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng
kể từ trước công nguyên 2879-258). “Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam
Trích Quái kể lại việc Chủ Đồng Tử học được đạo Phật như sau:“Thương nhân
nước ngoài tới lui buôn bán kinh thờ Tiên Dung và Đồng Tử làm chúa. Có một
khách buôn lớn bảo Tiên Dung rằng: Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay
cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”.
Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái
ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra
nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn
bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ.
Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có
một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng tử ở lại nghe
truyền pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở
về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó
rồi”. Đồng Tử về đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn
bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đông Tử du phương tìm thầy học đạo”
[41;19].
Từ những tư liệu này, ta có thể thấy Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật ở
núi Quỳnh Viên – đây là một ngọn núi có tên tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết
của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về
Nam là vùng đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Nhà sư Phật Quang cũng
không phải là người Việt mà có thể là người Chiêm Thành hoặc Ấn Độ đang tìm
cách truyền bá Phật Giáo vào Việt Nam. Chử Đồng Tử tiếp xúc với ông và trở
thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có tên tuổi.
Như vậy, nếu ta liên kết các sự kiện trên lại, cùng với Bát Nàn phu nhân,
một nữ tướng của Hai Bà Trưng, xuất gia sau cuộc kháng chiến vệ quốc thất bại
năm 43 sau công nguyên và những xác nhận về tín ngưỡng của người Việt mà
12



Dương Phù1đã ghi lại, rằng khoảng 100 năm sau công nguyên dân chúng tại nước
ta có trồng một loài hoa [uất kim hương] dùng để cúng Phật. Một hiện trạng Phật
giáo sinh động như thế chắc chắn phải là kết quả của một quá trình phát triển trước
đó khá lâu trên mảnh đất này. Từ đó, có thể thấy, Phật giáo đã có mặt ngay tại nước
ta từ những năm đầu sau công nguyên, nếu không nói là sớm hơn. Quá trình du
nhập đó của Phật giáo được thực hiện thông qua hai con đường:
Phật Giáo du nhập qua con đường bộ (Ấn Độ - phía bắc Việt Nam) còn
gọi là con đường tơ lụa. Những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng tuyến
đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi xuống
châu thổ sông Menam, từ đó đến sông Mêkông qua đất Lào rồi vào Thanh Hóa,
Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trên tuyến đường này các nhà khảo
cổ cũng đã tìm được các cổ vật của nền văn minh Ấn Ðộ và di tích Phật Giáo.
Trong cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương
nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa
và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay
vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con
sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ
vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt
Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Phật Giáo du nhập qua con đường biển (Ấn Độ - phía nam Việt Nam):
Qua những tài liệu khảo cổ học người ta đã tìm thấy những di tích, di chỉ của
quá trình truyền bá phật giáo vào Việt Nam. Người ta đã tìm thấy các dòng chữ
Sanskrit của Mulavarman tại các vùng Kutei ở Borneo và các bia đá khắc chữ

1 Dương Phù tên tự Hiểu Nguyên, người Nam Hải, Triều vua Chương đế tìm người tài giỏi, ông đối đáp trúng
cách, nên phong làm Nghị Văn.


13


Sanskrit của Purnavarman ở Tây Java. Các tượng Phật thuộc trường phái
Amaravati được tìm thấy ở Sampaga (Célèbes) phía nam tỉnh Giember (Ðông
Java) trên đồi Se Guntang ở Pelembang (Sumatra) là xưa nhất có thể là trước
công nguyên. Do đó, người ta đã kết luận rằng những bước đầu văn minh và tôn
giáo từ Ấn Ðộ đã truyền qua Indonesia phải xảy ra trước công nguyên và hệ luận
đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn Ðộ xuôi buồm đến Giao Châu
cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường biển lên phương Bắc.
Văn minh và tôn giáo Ấn Độ cũng đã truyền qua Mã Lai và các vùng như
Perak, Xelebơ…qua Thái Lan, Campuchia, Miến Điện…Tại Campuchia các nhà
khảo cổ đã tìm thấy được 4 bia đá có khắc chữ Sanskrit.
Hơn nữa, từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Ðộ vẫn mua được vàng
ở Xibêri đi bằng con đường xuyên qua Bactriane nhưng từ thế kỷ thứ hai trước
công nguyên vì các đợt di dân lớn ở Trung Á đã làm chướng ngại con đường
chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển hướng nhập vàng từ La Mã thế nhưng chẳng
bao lâu La Mã không bán vàng ra nước ngoài nữa nên Ấn Ðộ mới chuyển qua
các nước phía Ðông và lên tận Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm
hương, vàng bạc và các loại ngọc thạch.
Vì địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á và
gần như nằm giữa các nước Ðông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Ðộ theo gió Tây
Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm dừng
chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của Việt
Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.
Ðể có đủ những thương phẩm kể trên cung ứng cho thị trường rộng lớn
ấy, các thương gia Ấn phải theo gió mùa Tây Nam dong thuyền đến các nước
như Mã Lai, Indonesia, Việt Nam... Chuyến về họ phải đợi năm sau mới có gió
mùa Ðông Bắc để xuôi buồm về Ấn Ðộ.

Những thương gia Ấn Ðộ cố nhiên họ không phải là những Tu sĩ Phật
Giáo nhưng vì đường đi quá xa và lênh đênh trên biển cả lâu ngày nên họ
14


thường thờ và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm (Avalokitedvara) Bồ Tát và Ðức
Phật Nhiên Ðăng (Dipankara) để cầu che chở cho tai qua nạn khỏi trên biển cả.
Những người Ấn Ðộ rất tin tưởng vào Ðức Phật Nhiên Ðăng che chở cho họ khi
họ chí thành niệm danh hiệu của Ngài.
Có thể nói, nguyên nhân sâu xa của sự bành trướng nền văn minh và tôn
giáo của Ấn Ðộ trước công nguyên là kinh tế, thương mại, sự giao dịch giữa
Viễn Ðông và Ðịa Trung Hải. Kế đến là sự đông tiến của Alexandre, sự thành
lập triều đại Maurya, sau đó là triều đại Kaniskha ở Ấn Ðộ... Nhất là đế quốc La
Mã ở phương Tây đã kích thích mạnh mẽ nền ngoại thương Ấn Ðộ.
Cũng có quan điểm cho rằng, Phật giáo truyền vào nước ta có thể là vào
thời vua A Dục (Asoka) ở thế kỷ III trước công nguyên. Đó là một bài nghiên
cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Đồ
Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của
vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã được
trực tiếp truyền vào nước ta"[79;12]với sự hiện diện của đoàn truyền giáo do
Sona dẫn đầu; nhưng đây mới chỉ là giả thuyết, điều này cần được xác minh
bằng các cuộc khảo cổ tại một số địa điểm nghi vấn là có khả năng còn các
chứng cứ lịch sử quan trọng ở khu vực chùa Nê Lê (Tam Đảo), núi Quỳnh Viên
(Cửa Sót, Hà Tĩnh)...
Như vậy, Phật giáo được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu) trực
tiếp từ Ấn Độ, nhưng chính xác vào năm nào thì chưa thấy ai khẳng định. Tuy
nhiên, điều chắc chắn là vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, Phật giáo đã
trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ
thống những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác
dịch thuật kinh điển, v.v... tại trung tâm Luy Lâu. Và chúng ta có thể khẳng

định rằng Phật giáo truyền vào Việt Nam những năm đầu sau công nguyên bằng
những phương tiện hòa bình.

15


1.1.2. Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ, truyền bá đến Việt Nam, đã được nhân
dân ta tiếp nhận và từ đó, Phật giáo luôn luôn đóng vai trò lịch sử nhất định
trong cuộc giữ nước và dựng nước của dân tộc Việt Nam. Suốt chiều dài lịch Sử
Phật Giáo Việt Nam đã hòa quyện vào mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây
dựng những văn hóa truyền thống. Vì thế lịch sử Phật giáo Việt Nam, đã trở
thành một bộ phận lịch sử Việt Nam. Phật giáo cũng vậy, tuy có những hình
thức xuất hiện khác nhau trong từng thời kỳ, nhưng lúc nào cũng tìm mọi cách
thích ứng để có những đóng góp thiết thực nhất cho dân tộc. Chúng ta có thể
chia sự phát triển của Phật giáo Việt Nam thành bốn thời kỳ:
Phật giáo thời kỳ đầu (từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V)
Phật giáo thời kỳ phát triển (từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX)
Phật giáo thời kỳ cực thịnh (từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII)
Phật giáo thời kỳ phục hưng (Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX)
Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập
và hình thành Phật giáo Việt Nam
Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt
động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Ðộ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc
bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với
những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Ðà La (người Ấn Ðộ đến Luy Lâu
khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu
tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình tượng
Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã
bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác2 theo mẹ từ Trung Quốc sang

Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài
"Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại
2Mâu Tử tên thật là Mâu Bác, sinh vào khoảng những năm 165-170, và mất năm nào không rõ. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một
trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay)

16


Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là
vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại
Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội3 (gốc người Sogdiane, Khương Cư);
ngài Chi Cương Lương Tiếp4 và ngài Ma Ha Kỳ Vực5 (người Ấn Ðộ).
Ðến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Ðạt Ma Ðề Bà
(Dharmadeva) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn
Ðộ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học.
Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển:
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền
giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung
Quốc) đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn
có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay
thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích
mà thôi.Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt
Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông.
*Thiền Tông : Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Ðức
Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ (trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca
Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma). Ðến
năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn,
vâng theo lời thầy là Bát Nhã Ða La (Prajnatara), Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa

để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh
chóng hưng thịnh.

3Khương Tăng Hội (? - 280) là một thiền sư sinh tại Giao Chỉ và được xem là thiền sư đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam. Có ý kiến cho rằng ông là ông tổ của Thiền tông Việt Nam
4Có khi viết là Chi Cương Lương Lâu, là người nước Nhục Chi
5Cao tăng Ấn Độ đã từng đến Việt Nam (thời ấy gọi là Giao Châu) và Trung Hoa vào khoảng những năm 169-189.

17


Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu
theo pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ,
do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính
nhờ họ ghi chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết được lịch sử Thiền Tông ở
Việt Nam.
*Tịnh Ðộ Tông:Khác với Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông chủ trương phải dựa vào
tha lực tức sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Ðộ cũng chỉ là
những pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Ðức Phật
truyền giáo ra. Chính Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến
giác ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Ðiều
này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn cụ thể đó là cõi Tịnh Ðộ hay
thế giới Cực Lạc do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ. Sự giúp đỡ đó còn cho
thấy bản thân của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng
dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm
danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà để đạt đến nhất tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ
nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán tưởng
về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
*Mật tông: Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật
ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Ðại

Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật và Kinh Kim Cương.
Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà
nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như
chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông
không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của
từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh
Ðến thế kỷ thứ X thì Việt Nam đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc.. Chính
trong thế kỷ này Ðạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích
18


cực cho đất nước. Năm 971 vua Ðinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và
ban chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn
Thông, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho
chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Ðại Hành đã mời thiền sư Pháp
Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố vấn chính
sự. Các thiền sư Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ
giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực
thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ
đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Ðường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm
là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời đại thống
nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó.
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây
dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Ðại Lãm, chùa Linh Xứng,
chùa Một Cột, chùa Phổ Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của
Phật Giáo Việt Nam thời Lý Trần mà sách vỡ Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4
công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Ðại Khí [53; 483]. Ðó là:

Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Ðông Triều (Quảng
Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng
mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1
trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Ðứng từ bến
đò Ðông Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trong thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho
xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục
Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc
bằng đồng. Ðây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Ðến năm 1414 tháp bị
quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm
19


nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim
Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá hủy hoàn
toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Ðiền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân
đồng để đúc quả chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu –
(Tiền thân chùa Một Cột (Hà Nội) sau này, chùa Diên Hựu xây năm 1049 với
quy mô rất to lớn) trong lầu chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông
đúc xong to quá (đường kính 1,5 trượng (khoảng 6m) cao 3 trượng (khoảng 12 m),
nặng đến vài vạn cân) không treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng.
Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293)
đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước
nặng trên 7 tấn. Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có
thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Ðến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc
trước sân chùa Phổ Minh.
Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hưng
Phật giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý
Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước

cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Ðức thì mất chủ quyền, nước
ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu
tàn hơn. Trong bối cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt
Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai
phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện trong
chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn
giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần
xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của
phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa,
20


Ấn Ðộ và Miến Ðiện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng
Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí
Ðuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ Ðàm
và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở các Phật Học
Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc
Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Ðịnh có hội Phật Học Bình Ðịnh, ở Ðà Nẵng có hội
Phật học Ðà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, hội Lục Hòa
được thành lập để đoàn kết và vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội
nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp
chí Từ Bi Âm (1932). Năm 1933 Liên Ðoàn Học Xã ra đời. Năm 1934, hội Phật
Học Lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học
đường Lưỡng Xuyên.
1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông Nam Châu Á nên Việt Nam
thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc

trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ
nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc
vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông
đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…” nên về mặt
nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp, nặng về kinh nghiệm chủ quan
cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen… Người làm
nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa
chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các
loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa
cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì
nắng, bay vừa thì râm...
21


Hơn nữa, bản tính của người Việt Nam là cởi mở, bao dung chứ không
hẹp hòi, kỳ thị, khép kín. Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến, thì cộng
đồng người ở đây cũng sẵn sàng tiếp nhận – miễn là nó không vi phạm đến lợi
ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Khác với một số nước
phương Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vai trò thống trị suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo gắn liền với sự hưng
thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến trình phát triển nhất định
của lịch sử dân tộc. Chính vì thế khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam với khế lý,
khế cơ của mình, đã hoà nhập, thích nghi và kết hợp với đời sống tâm linh, văn
hoá của người dân Việt nên có những đặc trưng riêng biệt làm cho Phật giáo
Việt Nam trở lên linh hoạt, phong phú.
Thứ nhất, Phật giáo VIệt Nam có tính tính tổng hợp
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã dung hợp các tín ngưỡng truyền
thống của người Việt vào hệ thống thờ cúng của mình như: thờ cúng Tổ tiên, thờ

Thần, thờ Mẫu nhưng Phật giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo để làm nên đạo Phật
Việt Nam. Bởi Phật giáo nguyên thủy thì chỉ thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng
truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ. Tuy nhiên,
trong khuôn viên thờ tự của chùa của người Việt, nhất là các chùa ở vùng Bắc
Bộ, luôn có phủ Mẫu (cũng gọi là điện Mẫu) thờ chư vị thánh Mẫu và đức thánh
Cha (Trần Hưng Đạo hiển thánh). Đặc biệt, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là
Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên, bốn vị thần này đã được "Phật hóa".
Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật
Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc
theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80
vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn,
và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn... Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau
tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người
22


Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân
tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các
linh hồn đã khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn
lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị
thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều
giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với
Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.Các điện
thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, BồTát, La
Hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết
hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật
Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên
cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo

vàng còn có áo nâu, áo lam.
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công
nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi
tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn
giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục
đích). Điều đó được chứng minh rõ nét từ những buổi đầu xây dựng nền phong
kiến độc lập, chúng ta đã thấy các vị danh tăng Phật giáo thông hiểu Nho giáo,
uyên thâm Lão giáo, và vận dụng tam giáo nhuần nhuyễn trong cuộc sống, tu
hành của mình. Các vị ấy hành trì Phật pháp, tham gia chính sự bàn quốc kế dân
sinh như một vị thạc Nho, khi xong việc lớn lại rút về núi rừng thanh bạch ẩn tu
như một đạo sỹ. Đây là điều hiếm có ở đặc trưng văn hóa mà chưa từng thấy của
bất kỳ một dân tộc nào.

23


Thứ hai, Phật giáo Việt Nam có tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác
của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm
cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Ở nước ta, dù mẫu quyền đã được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, song chế độ
mẫu quyền vẫn còn kéo dài và dai dẳng đến tận ngày nay vẫn chưa kết thúc. Lịch
sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò, vị trí
quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ phải gánh vác công việc nặng nề thay
chồng nuôi con ở hậu phương, mà còn có người trực tiếp xông pha trận mạc.
Đối với Phật giáo, các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt
Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán
Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan
Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như

Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác:
Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà
chúa Ba).
Dưới con mắt của một số tín đồ Phật giáo thì Phật Bà Quan Âm có khi
còn gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhiều nơi
như đền, miếu, phủ…trở thành là nơi hương hoa, oản quả nhằm thờ phụng
những bậc thánh thần thuộc giới nữ.
Thứ ba, Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật
thường gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc
vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách
khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị
Bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là
bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng
dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc
24


×